Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG KẾT HỢP SỨC MẠNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.52 KB, 47 trang )

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG KẾT HỢP SỨC MẠNH
DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC TỪ 1965 ĐẾN 1973
1.1. KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI LÀ YÊU CẦU
KHÁCH QUAN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
1.1.1. Lý luận Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại
Chủ nghĩa Mác ra đời là một thành tựu vĩ đại của nhân loại, là vũ khí lý luận
khoa học và cách mạng soi đường để giai cấp vô sản và các dân tộc trên thế giới
vươn lên tự giải phóng mình.
Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, giai
cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền và tự mình trở thành dân
tộc. Nhưng sức mạnh đấu tranh của các lực lượng cách mạng ấy lại không bao giờ
được tự giới hạn mình trong phạm vi dân tộc, mà cần phải được đặt trong mối liên
hệ quốc tế, theo tinh thần “vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Mặt khác, giai cấp
vô sản mang bản chất quốc tế, đó là cơ sở khách quan của sự liên minh đoàn kết
chiến đấu giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở tất cả các quốc gia dân tộc,
theo quan điểm kết hợp SMDT với SMTĐ tạo thành sức mạnh vô địch chiến thắng
chủ nghĩa tư bản.
Kế tục sự nghiệp của Mác- Ăng ghen, V.I.Lê nin là Người hoạt động trong
thời kỳ chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, khi hệ thống thuộc
địa của chúng đã bao trùm cả thế giới và khi phong trào giải phóng dân tộc đã
bắt đầu được khơi dậy. Trong điều kiện ấy, Lê nin đã phát triển khẩu hiệu chiến
lược của Mác- Ăng ghen thành: “vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp
bức, đoàn kết lại”.
Lê nin đã chỉ ra: trong thời đại ngày nay, sự nghiệp đấu tranh đánh đổ chủ
nghĩa đế quốc chỉ có thể giành được thắng lợi bằng sự kết hợp chặt chẽ cách mạng
vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa với cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc. Đồng thời cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa
cũng chỉ có thể nổ ra và giành thắng lợi khi có sự hỗ trợ, phối hợp của cách mạng
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Vì vậy, cách mạng vô sản ở


chính quốc phải tích cực giúp đỡ các phong trào giải phóng dân tộc bằng mọi hình
thức có thể thì mới có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê nin, hiểu
sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy sức mạnh
to lớn của dân tộc. Đó là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những tinh hoa
văn hoá tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; những thành tựu cách mạng
trong những năm dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tiềm năng của dân tộc, đất nước ta
được nhân dân ta và Đảng phát huy lên trên tất cả các mặt của đời sống xã hội
trong quá trình cách mạng. Sức mạnh đó chính là sức mạnh của tinh thần yêu nước,
của ý chí tự lực tự cường, kiên cường bất khuất và sức mạnh đoàn kết của dân tộc
ta, sức mạnh của con người, của đất nước Việt Nam, của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Người ý thức rất rõ sức mạnh đó sẽ trở thành vô địch khi cách mạng nước ta đặt
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đồng thời, Người cũng khẳng định, sức
mạnh đó được nhân lên nhiều lần khi được kết hợp với sức mạnh thời đại tạo thành
sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù. Sức mạnh thời đại, theo Hồ Chí Minh
trước hết là sức mạnh của tính quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người; sức
mạnh của các lực lượng cách mạng thế giới; sức mạnh của nền văn minh nhân loại;
sức mạnh của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Đó chính là sức mạnh
của tính chất thời đại quá độ lên CNXH, sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, là
sức mạnh của nhân dân lao động, các dân tộc thuộc địa bị áp bức gắn với sức mạnh
của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản, được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác- Lê nin,
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tính
tất yếu phải kết hợp đúng đắn hai yếu tố ấy để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách
mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, kết hợp SMDT với SMTĐ trước hết phải đặt cách mạng
Việt Nam trong tiến trình chung của cách mạng thế giới. Bởi vậy, khi lựa chọn con
đường cứu nước của nhân dân Việt Nam theo gương cuộc cách mạng Tháng Mười
Nga (1917), Hồ Chí Minh đã nhận thấy nhiệm vụ chủ yếu của loài người trong thời
đại đế quốc chủ nghĩa là phải biết đoàn kết xung quanh giai cấp công nhân, tiến
hành cách mạng vô sản để lật đổ CNTB, xây dựng CNXH. Do đó, vấn đề dân tộc

phải gắn với vấn đề giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn liền với cách
mạng vô sản. Vấn đề giải phóng thuộc địa trở thành một vấn đề quốc tế, không chỉ
đối với nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc mà cả với nhân dân chính quốc.
Tuy nhiên, khi gắn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng thế giới, Hồ
Chí Minh vẫn nhấn mạnh đến những mặt riêng về lịch sử- xã hội, kinh tế của mỗi
cuộc cách mạng, những đặc điểm riêng giữa phương Đông và phương Tây để vạch
ra chiến lược đấu tranh cho phù hợp. Trong đó, Người chú ý khai thác những điểm
riêng của mỗi dân tộc mà không trái với đường lối chung của cách mạng thế giới.
Cuộc đấu tranh của quần chúng lao động trong thời đại đế quốc chủ nghĩa dù diễn ra
dưới các hình thức khác nhau nhưng đều phải nằm trong quỹ đạo cách mạng vô sản,
đều nhằm vào mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp “chỉ có giải phóng
giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có
thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” [31, tr.416].
Cách mạng vô sản phải biết kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp với
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thì mới có thể thắng lợi. Tuy nhiên, khi chỉ đạo
thực hiện ở mỗi nước lại phải rất linh hoạt. Theo Hồ Chí Minh cách mạng muốn
thành công trước hết phải dựa vào những điều kiện cụ thể của dân tộc mình để làm
cơ sở kết hợp phát huy sức mạnh của thời đại, đồng thời không được xa rời nguyên
tắc đấu tranh của cách mạng vô sản.
Đó thực chất là việc xử lý khéo léo, có hiệu quả mối quan hệ giữa vấn đề
“dân tộc” và “giai cấp”; vấn đề “dân tộc” và “quốc tế” trong từng tình hình cụ thể
của thế giới và trong nước. Xét về bản chất theo Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng ở
các nước thuộc địa “dân tộc cách mệnh”, cũng thể hiện tính chất giai cấp rõ rệt. Đó
là cuộc đấu tranh của đông đảo nhân dân lao động mà “công nông là gốc cách
mệnh”, nhằm chống lại “cường quyền”, tức là chống lại ách áp bức của tư bản đế
quốc và bọn tay sai nhằm thiết lập chuyên chính vô sản. Mặt khác, Hồ Chí Minh
luôn luôn nhấn mạnh rằng: trong thời đại mới, mở đầu bằng cuộc cách mạng
Tháng Mười Nga (1917), cuộc “dân tộc cách mệnh” và “thế giới cách mệnh” do
“vô sản giai cấp đứng đầu đi trước” [32, tr.265, 266], có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khẳng định sự kết hợp biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế,

Hồ Chí Minh đã làm tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới,
Người đã viết: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế
giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả” [32,
tr.301]. Chính nhờ nắm bắt được đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mà Hồ
Chí Minh đã xác định đường lối chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Đường lối
đó, sau này được Người tổng kết:
“Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điều đó
chứng minh rằng trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa
nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần
chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng
lớp nhân dân yêu nước trong một Mặt trận thống nhất, với sự đồng tình
ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là phe xã hội chủ
nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi.” [34, tr.315,
316].
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lê nin về đoàn kết của
giai cấp vô sản với nhân dân lao động tất cả các nước trên thế giới, theo Hồ Chí
Minh phải xây dựng tinh thần hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc và các
lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ trên thế giới. Vì vô sản ở chính quốc hay
lao động bị áp bức ở thuộc địa, những người cùng khổ, tất cả đều có mối tương
đồng là đấu tranh cho hòa bình, tiến bộ xã hội, con người được giải phóng mọi áp
bức và bất công. Do đó:
“Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh đề ra chủ trương xây dựng tình đoàn kết hữu
nghị giữa các dân tộc. Nguyên tắc đoàn kết của Hồ Chí Minh là “có lý, có tình”.
Có lý là tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin, những
nguyên tắc chung trong quan hệ quốc tế: tôn trọng độc lập chủ quyền, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Có tình là trên
cơ sở tôn trọng nguyên tắc chung phải chú ý đến đặc điểm riêng của mỗi dân tộc,

phải thông cảm tôn trọng nhau của những người cùng chung lý tưởng, khắc phục
tư tưởng sô vanh nước lớn, tránh dùng sức ép chính trị, kinh tế, ngoại giao hoặc vũ
lực trong quan hệ quốc tế.
Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về mối quan hệ biện chứng
giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, Hồ Chí Minh khẳng định kết hợp SMDT
với SMTĐ nhưng phải dựa vào sức mình là chính. Người nói: “Một dân tộc không
tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được
độc lập” [33, tr.522]. Theo Người, “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình
phải tự giúp lấy mình đã” [32, tr.293] và “phải coi cuộc đấu tranh của bạn cũng
như cuộc đấu tranh của ta..., giúp bạn là tự giúp mình” [31,tr.18].
Như vậy, kết hợp SMDT với SMTĐ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế
thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin trong hoàn cảnh mới
của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội. Nó có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn, là những nguyên tắc quan trọng cho Đảng, Nhà nước ta xác định
đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại đúng đắn, đồng thời là phương hướng lớn
của cách mạng Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước.
1.1.2. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ đòi hỏi phải kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Sau Hội nghị Giơnevơ (1954), đất nước ta tạm thời chia làm hai miền, với
hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, chuyển sang
thực hiện cách mạng XHCN. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng DTDCND. Tuy
nhiệm vụ cách mạng ở hai miền thuộc hai chiến lược khác nhau, nhưng cùng một
mục tiêu là thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên CNXH, cho nên hai
nhiệm vụ có mối quan hệ khăng khít với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH giữ vai trò quyết định nhất của sự
nghiệp cách mạng ở nước ta và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Miền
Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Thông
qua thực hiện nhiệm vụ mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của cả
nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên CNXH.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chúng ta có thuận lợi cơ bản
chính là vai trò to lớn của miền Bắc XHCN với cách mạng cả nước như Đảng ta
khẳng định: “Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN” [20, tr.28, 29].
Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng, đã nhanh chóng bắt tay vào hoàn
thành nhiệm vụ cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến
tranh, đẩy mạnh cải tạo và xây dựng CNXH, bước đầu đã đạt được những thành
tựu to lớn. Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng kinh tế xã hội, vừa bảo đảm
đời sống cho nhân dân miền Bắc, vừa tăng cường chi viện sức người, sức của cho
cách mạng miền Nam. Nhân dân miền Bắc phối hợp với nhân dân miền Nam đấu
tranh chống những thủ đoạn xâm lược và chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở
cả hai miền Nam - Bắc.
Đồng thời, Đảng ta đã có kinh nghiệm lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến
tranh cách mạng, có Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, có nhân dân từ Nam chí Bắc
đều đã được rèn luyện trong đấu tranh cách mạng và khói lửa chiến tranh. Sau khi
nhân dân ta đánh thắng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, kết thúc bằng
chiến thắng Điện Biên Phủ oanh liệt, nhân dân ta càng được sự đồng tình ủng hộ
mạnh mẽ của nhiều dân tộc trên thế giới. Song bên cạnh đó, chúng ta cũng gặp
nhiều khó khăn mới trong việc ổn định và củng cố miền Bắc khi vừa thoát ra khỏi
chiến tranh và những khó khăn trong sự nghiệp xây dựng CNXH còn mới mẻ với
Đảng và nhân dân ta.
Ở miền Nam, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta gặp
nhiều trở ngại trong quá trình chuyển thế đấu tranh của cách mạng miền Nam,
trong hoàn cảnh so sánh lực lượng không có lợi cho ta. Bởi theo Hiệp định Giơ-ne-
vơ, ta nghiêm chỉnh thực hiện chuyển quân tập kết ra miền Bắc, do vậy ở miền
Nam lúc này chúng ta không còn lực lượng vũ trang tập trung, không có chính
quyền. Trong khi đó, phía địch có đầy đủ sức mạnh về kinh tế và quân sự, nắm
trong tay cả bộ máy ngụy quân, ngụy quyền đồ sộ, chúng ra sức thi hành chính
sách tiêu diệt phong trào cách mạng, gây cho ta nhiều tổn thất nặng nề “Cách mạng
miền Nam bị địch đàn áp và khủng bố tàn khốc” [1, tr.29].

Vào cuối năm 1964 đầu năm 1965, tình hình quốc tế lúc này không có nhiều
thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Cụ thể là trước hành động mở rộng chiến tranh
và trực tiếp đưa quân Mỹ vào xâm lược Việt Nam, thái độ của Liên Xô là vừa lên
án Mỹ và tiếp tục viện trợ cho Việt Nam, nhưng lo ngại Việt Nam đánh lớn sẽ lôi
kéo Liên Xô vào cuộc chiến tranh sẽ ảnh hưởng đến hòa hoãn Xô - Mỹ. Vì Vậy,
Liên Xô tuy có viện trợ quân sự cho ta, nhưng hạn chế trang bị vũ khí tấn công
chiến lược kể cả về số lượng, chất lượng.
Thái độ của Trung Quốc trước những cuộc tấn công ồ ạt của Mỹ vào Việt
Nam cũng rất phức tạp. Một mặt Trung Quốc tuyên bố là “hậu phương vững chắc”
của Việt Nam, nhưng lại nhắc Việt Nam phải “tự lực cánh sinh”; Trung Quốc nói
sẽ ủng hộ Việt Nam “đánh Mỹ đến cùng”, song không muốn Việt Nam đánh lớn,
khuyên miền Bắc chỉ ủng hộ chứ không nên giúp miền Nam... Mặt khác, những
người lãnh đạo Bắc Kinh muốn Việt Nam đứng về phía Trung Quốc chống lại Liên
Xô. Nhiều lần Trung Quốc yêu cầu Đảng ta phải “tỏ rõ lập trường” chống “xét lại”
và cho rằng chống Mỹ thì phải đi cùng với chống “xét lại”, vì “xét lại” cản trở
quan hệ Trung – Việt. Tuy nhiên, đòi hỏi ấy không được Việt Nam đáp ứng.
Về quan hệ của Trung Quốc với hai nước Lào và Cămpuchia, thời gian này
cũng có những vấn đề gây khó khăn cho Mặt trận đoàn kết ba nước Đông Dương.
Đối với Cămpuchia, sau những chuyến đi thăm Trung Quốc của lãnh tụ
“Khơmeđỏ” (Pôn pốt) năm 1965 và 1967 đã gây cho lực lượng cách mạng của
Cămpuchia bị chia rẽ và gây khó khăn cho Việt Nam trong việc tranh thủ Xihanúc
cho phép lập các căn cứ hậu cần ở vùng biên giới. Tuy vậy, bằng chính sách ngoại
giao độc lập, Việt Nam vẫn giữ quan hệ tốt với Xihanúc (ngày13-6-1967 hai bên
chính thức lập quan hệ ngoại giao). Còn ở Lào, mặc dù có nhiều thế lực quốc tế cố
tình chia rẽ, nhưng bộ đội tình nguyện Việt Nam và lực lượng Pathét Lào vẫn luôn
đoàn kết, sát cánh chiến đấu bảo vệ hành lang phía Tây của miền Bắc và giữ vững
giao thông trên con đường vận tải chiến lược Tây Trường Sơn.
Ngoài những tác động bởi các mối quan hệ của các nước lớn, có ảnh hưởng
trực tiếp đến cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân ta đã đề cập trên đây. Nhưng
bên cạnh đó còn có nhiều quốc gia, nhiều tổ chức chính trị trên thế giới bày tỏ mối

quan ngại sâu sắc và sự đồng tình ủng hộ nhân dân ta trước hành động xâm lược
của Mỹ. Đáng chú ý là trong đó có cả những đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ
cũng lên tiếng ủng hộ chúng ta Đó là một trong những nhân tố thuận lợi để Đảng ta
mở “Mặt trận thứ ba”, là điều kiện thuận lợi để Đảng ta kết hợp SMDT với SMTĐ.
Khó khăn hơn cả là hành động mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ, tên sen đầm quốc tế, có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh; trong khi đó ta là một
đất nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển. Nếu so sánh về dân số của cả nước ta chỉ
bằng 1/6, về giá trị tổng sản phẩm hàng năm (của miền Bắc) chỉ bằng 1/1000 của
nước Mỹ. Lực lượng so sánh về quân sự giữa ta và Mỹ, nhất là những năm đầu còn
chênh lệch lớn. Ta ít hơn địch về số lượng quân đội tập trung và yếu hơn về vật
chất kỹ thuật, vũ khí, khí tài và phương tiện chiến tranh. Mỹ huy động vào cuộc
chiến tranh nhiều hơn ta về số lượng trang thiết bị quân sự và hiện đại hơn về chất
lượng. Đặc biệt khi triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ”, Mỹ đã ồ ạt đưa
quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào miền Nam Việt Nam, đồng
thời củng cố và tăng cường quân ngụy, sử dụng hai lực lượng chiến lược này với
số quân đông nhất: “trong giai đoạn này, với cố gắng quân sự lớn, giới cầm quyền
Mỹ đã huy động lực lượng và tiền của đến mức cao nhất theo khả năng của chúng
có thể huy động được vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam” [1, tr.59, 60]. Mỹ
huy động tới 70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và 60% không
quân của nước Mỹ; 6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm
lược Việt Nam, cùng với 22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ trực tiếp phục vụ chiến
tranh xâm lược Việt Nam. Mỹ đã đưa những nhà chính trị được coi là “lỗi lạc”,
những tướng lĩnh được xếp vào loại “tài ba”, những nhà ngoại giao dày dạn kinh
nghiệm để điều hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Có thể nói rằng cùng với việc động viên tới mức cao nhất các lực lượng vật
chất, phương tiện và vũ khí hiện đại (trừ vũ khí nguyên tử), Mỹ đã huy động và sử
dụng tối đa ưu thế về khoa học kỹ thuật vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Trong tình hình lực lượng so sánh như vậy, rõ ràng ta phải đánh lâu dài, thực hiện
lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Căn cứ
vào tình hình so sánh lực lượng nêu trên, thực tế đòi hỏi ta phải biết kết hợp SMDT

với SMTĐ, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của sự kết hợp các yếu tố về kinh tế,
quân sự, chính trị, ngoại giao... để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Nếu như
không có sự kết hợp giữa SMDT với SMTĐ, sức mạnh của nội lực với sức mạnh
ngoại lực thì chúng ta khó có thể thắng giặc Mỹ xâm lược. Ngay như B.Đavitson là
một sĩ quan tình báo cao cấp trong quân đội Mỹ đã thừa nhận: “Đây là một cuộc
chiến tranh tổng lực. Cuộc chiến tranh này động viên toàn thể mọi người, do các
nhà cách mạng kiểm soát. Nó sử dụng tuyệt đối mọi hình thức sức mạnh có thể có”
[19, tr.39].
Như vậy, kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước nói chung và trong những năm 1965 đến 1973 nói riêng là yêu cầu khách quan
của cách mạng Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đòi hỏi. Chỉ có sự kết hợp ấy, chúng ta mới tạo nên sức mạnh tổng hợp
của dân tộc ta chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Tuy nhiên, kết hợp SMDT với
SMTĐ như thế nào đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn mới có
thể tạo nên sức mạnh đè bẹp quân thù.
1.2. QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC
MẠNH THỜI ĐẠI TRONG NHỮNG NĂM TỪ 1965 ĐẾN 1973
1.2.1. Chủ trương của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ tuy đẩy lên mức cao nhưng vẫn
không phát huy hiệu quả. Chính quyền Sài Gòn suy yếu, khủng hoảng triền miên
đang trên đà sụp đổ. Mỹ đứng trước sự lựa chọn: cam chịu thất bại, bỏ mặc chính
quyền Sài Gòn hoặc đưa quân Mỹ vào trực tiếp chiến đấu. Cân nhắc lợi ích nước
Mỹ, lợi ích chiến lược toàn cầu, tính toán so sánh lực lượng giữa hai bên và trên
quốc tế, Mỹ tin chắc có thể thắng nhanh và quyết định trực tiếp tham chiến. Thực
hiện ý đồ đó, tháng 2-1965 đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không
quân, hải quân ở miền Bắc để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam,
phá hoại công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và làm lung lay quyết tâm chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đồng thời, Mỹ lôi kéo một số nước tham chiến
hoặc hỗ trợ hậu cần nhằm hỗ trợ Mỹ về quân sự, chia sẻ với Mỹ gánh nặng về chính

trị và tâm lý. Mỹ xuyên tạc bản chất và nguồn gốc chiến tranh vu cáo Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, đòi miền Bắc đình chỉ chi viện miền Nam, rút quân khỏi miền Nam.
Thâm hiểm nhất là Mỹ lợi dụng “tâm lý hòa bình” của nhân dân thế giới, mở các
chiến dịch “hòa bình” để ép Việt Nam đi vào “đàm phán không điều kiện” với Mỹ.
Trước hành động tăng cường và mở rộng chiến tranh của Mỹ - Ngụy trong
chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đặt ra cho Đảng, nhân dân ta trước một tình thế
hiểm nghèo: đối phó với quân Mỹ ra sao? Vận mệnh của dân tộc, chiều hướng phát
triển của sự nghiệp cách mạng nước ta sẽ đi đến đâu?
Dựa trên sự phân tích một cách khoa học tình hình cả nước và tình hình xã
hội miền Nam, đồng thời sớm nhận thức được thế chiến lược tiến công của ba dòng
thác cách mạng của thời đại, Đảng ta đã quyết định tiếp tục thực hiện đường lối do
Đại hội lần thứ III đề ra, đó là đường lối giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược: cách mạng
DTDCND ở miền Nam và cách mạng XHCN ở miền Bắc. Cách mạng XHCN ở
miền Bắc phải nhằm xây dựng hậu phương hướng tiến lên của cách mạng cả nước;
cách mạng miền Nam phải góp phần bảo vệ miền Bắc và nhằm mục tiêu chung là
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng tiến lên CNXH.
Dựa trên đường lối chung của cách mạng Việt Nam và đường lối cách mạng
mỗi miền do Đại hội III của Đảng đề ra, căn cứ vào tình hình cụ thể, Hội nghị
Trung ương lần thứ 11 (3-1965) hạ quyết tâm chiến lược:
Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của
cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc... toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta ở cả hai miền phải giữ vững và nêu cao quyết tâm đẩy mạnh cuộc chiến
tranh nhân dân chống Mỹ, cứu nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, kiên quyết chiến đấu
cho đến thắng lợi cuối cùng [35, tr.18, 19].
Quyết tâm chiến lược trên dựa trên sự phân tích khoa học tình hình thế giới,
trong nước.
Đương đầu với sự xâm lược của đế quốc Mỹ, cách mạng Việt Nam có sức
mạnh của nhân dân lao động làm chủ, của một dân tộc quyết chiến quyết thắng. Sức

mạnh chiến thắng của chúng ta chính là sức mạnh của ngọn cờ ĐLDT và CNXH, do
Đảng đề ra từ khi mới thành lập, của đường lối tiến hành đồng thời và phối hợp chặt
chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền. Đường lối đó là sự kết hợp khéo léo
những yêu cầu cơ bản của nhân dân ta với những mục tiêu của thời đại. Vì thế:
“cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam ở cả hai miền càng được sự
ủng hộ tích cực và sự giúp đỡ mạnh mẽ của các nước XHCN, được sự đồng tình và
ủng hộ rộng rãi của các nước dân tộc chủ nghĩa và của nhân dân yêu chuộng hòa
bình, kể cả nhân dân Mỹ” [35, tr.16].
Mặt khác, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra
trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, trong hoàn cảnh đó, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh xem xét tìm cách xử lý thích hợp những
nhân tố thuận lợi, hạn chế những khó khăn, phức tạp để vạch ra đường lối đối
ngoại linh hoạt mở ra khả năng tận dụng tối đa sức mạnh thời đại. Phương châm
trong đường lối quốc tế của Đảng ta là “đoàn kết rộng rãi với các lực lượng yêu
chuộng hòa bình trên tinh thần giữ vững độc lập tự chủ”. Có độc lập tự chủ mới
mở rộng được đoàn kết quốc tế rộng rãi.
Từ thực tế đường lối kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã đề ra phương châm
đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, song Đảng ta cũng chỉ rõ cần phải cố
gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành
thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Do vậy, “Chúng ta quyết động viên lực lượng của nhân dân cả nước tiến hành đấu
tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, dựa vào sức mình là chính, đồng thời
tranh thủ tới mức cao nhất sự đồng tình, ủng hộ của phe XHCN và của nhân dân
thế giới” [35,tr.22]. Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (12-1965) Đảng ta nhấn
mạnh: “Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, chúng ta cần nắm vững
phương châm dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ quốc tế, vì đó là một nhân tố quan trọng góp
phần quyết định vào thắng lợi của nhân dân ta” [35, tr.23].
Như vậy, ngay từ khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam,
Đảng ta đã nhận thức được sự kết hợp SMDT với SMTĐ là một nhiệm vụ quan

trọng. Đảng ta cho rằng, nếu chúng ta “tranh thủ” được tốt điều kiện quốc tế thuận
lợi cũng có nghĩa là chúng ta đã kết hợp được giữa SMDT với SMTĐ. Bởi lẽ,
“Tranh thủ” theo quan điểm của Đảng ta là “tranh thủ” sự đồng tình, ủng hộ, và viện
trợ quốc tế. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa SMDT với SMTĐ, Đảng ta luôn
nhấn mạnh “phương châm dựa vào sức mình là chính”, phát huy sức mạnh dân tộc,
yếu tố “nội lực” luôn là yếu tố quyết định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Với thắng lợi to lớn trên chiến trường, tháng 1 năm 1967, tại Hội nghị Trung
ương 13, Đảng ta đã ra nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến
công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trung ương
Đảng chủ trương: “Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần
tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt trận đấu tranh đó để giành
thắng lợi to lớn hơn nữa” [35, tr.38]. “Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần
phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay,
với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò
quan trọng, tích cực và chủ động” [35, tr. 38].
Đến đây Đảng ta đã xác định rõ thêm chủ trương kết hợp SMDT với SMTĐ,
không chỉ tranh thủ sự ủng hộ của các nước XHCN và nhân dân tiến bộ thế giới mà
còn chủ động tiến công địch trên mặt trận ngoại giao. Chính vì vậy chúng ta đã
tranh thủ được dư luận quốc tế, kể cả dư luận tiến bộ ở Mỹ, ngày càng kiên quyết
ủng hộ lập trường 4 điểm của Chính phủ ta đó là: phải chấm dứt không điều kiện
và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa; phải công nhận Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam là
người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam và phải thương lượng
với Mặt trận; phải rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam,
vấn đề Việt Nam do nhân dân Việt Nam tự giải quyết. Đồng thời, dư luận quốc tế
ủng hộ mạnh mẽ bản tuyên bố 5 điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam,
cực lực lên án đế quốc Mỹ xâm lược.
Tháng 1 năm 1968, Hội nghị Trung ương 14 (khóa III) đã đánh giá tình hình đế
quốc Mỹ “chuyển hướng từ thế phản công chiến lược sang thế bị động phòng ngự về
chiến lược” [35, tr. 62]. Việc đế quốc Mỹ phải chuyển sang thế bị động phòng ngự về

chiến lược trong “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, cộng với sự thất bại cơ bản của
chúng trong chiến tranh phá hoại miền Bắc “là một thất bại to lớn về chiến lược của
đế quốc Mỹ trong toàn bộ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam” [35, tr.62].
Trên cơ sở phân tích tình hình so sánh lực lượng địch, ta trong nước và trên
thế giới, Bộ Chính trị chủ trương tiến hành “tổng công kích và tổng khởi nghĩa”,
“chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời
kỳ mới – thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Mục tiêu chiến lược của “tổng công
kích và tổng khởi nghĩa” là nhằm tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân
ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, tiêu
diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân
Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam.
Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam,
chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc” [28, tr.465]. Đồng thời,
Đảng ta đã xác định “Cuộc tổng công kích và tổng khởi nghĩa sắp tới sẽ là một giai
đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức tạp”[35, tr.71].
Để thực hiện thắng lợi chủ trương đó, Đảng xác định phương châm đấu
tranh phải thực hiện đến mức cao nhất các mặt kết hợp và phối hợp sau đây:
Một là, Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngụy vận, địch
vận, thực hiện cho kỳ được khẩu hiệu “công nông binh liên hiệp”.
Hai là, Kết hợp hoạt động ở cả ba vùng chiến lược: thành thị, nông thôn, đồng
bằng và rừng núi, đặc biệt chú ý kết hợp chặt chẽ và khôn khéo hoạt động trong các
thành thị với hoạt động ở các vùng nông thôn kế cận. Phối hợp nhịp nhàng kế hoạch
hành động trong phạm vi từng vùng một và trên phạm vi toàn chiến trường...
Ba là, Kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự, tiến công chính trị trong nước với
tiến công ngoại giao.
Phối hợp cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và
Cămpuchia, thực hiện sự giúp đỡ nhau một cách thích hợp làm cho địch không thể
sử dụng được thế lực phản động ở Lào và Campuchia để chống lại phong trào cách
mạng ở Việt Nam, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và tích cực của các
nước XHCN anh em và của phong trào nhân dân thế giới chống Mỹ xâm lược.

Ngày 24-4-1968, Bộ chính trị họp nhận định về một cuộc tổng tiến công và nổi
dậy và chủ trương: động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phát huy khí thế chiến
thắng, tiếp tục tiến công toàn diện giành thắng lợi ngày càng lớn hơn, đẩy địch vào thế
thất bại liên tiếp, ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được nhằm đi tới
giành thắng lợi quyết định.
Nhờ có đường lối chủ trương đúng đắn kết hợp SMDT với SMTĐ, Đảng ta
đã lãnh đạo quân và dân ta tiến hành đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ”
của đế quốc Mỹ. Đồng thời, qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng còn bộc lộ
những hạn chế, khuyết điểm điều đó đã được Đảng ta sớm nhận thức và kịp thời
sửa chữa để có chủ trương lãnh đạo và sự chỉ đạo sát thực hơn, nhằm tiếp tục kết
hợp tốt hơn SMDT với SMTĐ trong những năm tiếp theo.
Trước những âm mưu thâm độc, xảo quyệt về chính trị, quân sự và ngoại
giao trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và căn cứ vào tình hình
thực tế của cách mạng miền Nam.
Tháng 5-1969, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt
Nam đã họp bàn về tình hình nhiệm vụ mới. Bộ chính trị nhận định:
Đế quốc Mỹ đã bị những thất bại rất nặng nề về mọi mặt, ý chí xâm lược của
chúng đã bị lung lay rõ rệt, chúng đã buộc phải xuống thang chiến tranh từng
bước, khó lòng duy trì cuộc chiến tranh xâm lược với quy mô hiện nay trong
một thời gian dài và nhất định sẽ thất bại. Tuy nhiên, bản chất chúng rất ngoan
cố, chúng còn có tiềm lực, còn có lực lượng lớn trên chiến trường, còn giữ
được các vị trí và khu vực quan trọng cho nên chúng mong muốn xuống thang
trên thế mạnh để giải quyết chiến tranh bằng thương lượng với điều kiện có
lợi cho chúng” [35, tr. 126].
Từ nhận định đó, Bộ Chính trị chủ trương:
Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả
hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích,
tổng khởi nghĩa, đẩy mạnh ba mũi giáp công, kết hợp với tiến công ngoại
giao, ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính trị, phát triển chiến lược
tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ, làm thất bại... âm mưu

kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trương “phi Mỹ hóa” chiến tranh
của chúng, đánh cho Mỹ phải rút quân, đánh cho Nguỵ phải suy sụp [35,
tr.134, 135].
Bộ chính trị cũng chỉ rõ: các cấp, các địa phương và lực lượng vũ trang cần
kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh quân sự, kết hợp với xây dựng và củng cố lực
lượng chính trị; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với tiến công chính trị
nhằm giữ và tạo thế cho ta.
Tiếp đó, tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lao động Việt Nam đã họp tại Hà Nội, nhấn mạnh nhiệm vụ cho cách mạng
miền Nam trong năm 1970 và những năm tiếp theo là: “Động viên sự nỗ lực cao
nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trên cả hai miền... đẩy mạnh tiến công
quân sự và tiến công chính trị, kết hợp với tiến công ngoại giao...” [7, tr. 140, 141].
Để tháo gỡ khó khăn tiếp tục đưa cách mạng miền Nam phát triển tiến tới giành
thắng lợi quyết định, chủ trương của Đảng thể hiện trong các Hội nghị của Bộ chính
trị, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng giai đoạn này là: Đẩy mạnh xây dựng
lực lượng cách mạng về mọi mặt, nhất là lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Đẩy
mạnh sự kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, trong
đó lấy những phát huy những yếu tố bên trong là nhân tố quyết định đó là chủ trương
nhất quán của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước.
Trong kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại
giao, đấu tranh quân sự là hình thức chủ yếu trực tiếp quyết định trong quá trình tiến
hành cuộc kháng chiến. Đây là quy luật cơ bản trong chiến tranh nhân dân chống đế
quốc Mỹ xâm lược. Trong chiến tranh, đây là lĩnh vực chủ yếu, giữ địa vị chi phối
và được kết hợp với các lĩnh vực đấu tranh khác như chính trị, kinh tế, ngoại giao,
tâm lý... nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng địch. Trong thời kỳ tiến
hành chiến tranh, đây là lĩnh vực đấu tranh cần thiết tạo cơ sở để kết hợp SMTĐ
nhằm tạo nên thế và lực có lợi hơn địch, giành chủ động trong mọi tình huống.
Đấu tranh quân sự là hình thức đấu tranh đặc trưng của chiến tranh, nó giữ
vai trò trực tiếp quyết định đến việc tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh

của đối phương làm thay đổi so sánh lực lượng và thế chiến lược trong chiến tranh.
Cùng với đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự là hai hình thức đấu tranh cơ bản
của bạo lực cách mạng, nó luôn được kết hợp chặt chẽ với nhau. Ngoài nhiệm vụ
đấu tranh quân sự còn có nhiệm vụ quan trọng là giữ đất, giành dân, bảo vệ dân, hỗ
trợ cho quần chúng đấu tranh chính trị và nổi dậy giành chính quyền.
Trong xây dựng lực lượng quân sự, Đảng ta chủ trương xây dựng ba thứ
quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, đẩy mạnh hoạt động và
sự phối hợp tác chiến của ba thứ quân một cách thích hợp với những phương châm
chiến lược, phương châm tác chiến, những chiến thuật và kỹ thuật thích hợp, nhằm
phát huy sức mạnh tổng hợp của lực lượng quân sự bảo đảm phương châm tiêu diệt
địch để làm chủ, làm chủ để tiêu diệt địch, càng đánh càng mạnh.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đấu tranh chính trị là một hình thức
đấu tranh cơ bản, góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Đấu tranh
chính trị quan trọng là hỗ trợ đấu tranh quân sự, góp phần làm suy yếu địch, làm
thất bại, hoặc ngăn chặn âm mưu, hành động chiến tranh của địch. Đấu tranh chính
trị làm cho quần chúng hiểu rõ đường lối kháng chiến chống Mỹ, đoàn kết một
lòng xung quanh Đảng, đấu tranh chống kẻ thù chung của toàn dân tộc. Đồng thời,
đấu tranh chính trị vạch rõ âm mưu, thủ đoạn thực dân mới của đế quốc Mỹ và bè
lũ tay sai bán nước, làm thất bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa
chiến tranh” của Mỹ – ngụy. Đấu tranh chính trị góp phần xây dựng, củng cố hậu
phương chiến tranh, xây dựng cơ sở chính trị, căn cứ địa cách mạng cho kháng
chiến. Xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, liên
minh chặt chẽ ba nước Đông Dương chiến đấu chống kẻ thù chung.
Trong đấu tranh chính trị, Đảng ta chỉ rõ phải biết nêu lên những khẩu hiệu
thích hợp, những hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh phù hợp với từng nơi,
từng lúc, phải biết sử dụng đúng đắn các lực lượng đấu tranh, dựa vào lực lượng
quần chúng cơ bản là công nhân và nông dân, đặc biệt chú ý lực lượng thanh niên
và phụ nữ trong nhân dân lao động, đồng thời tranh thủ các tầng lớp khác, kể cả
những phần tử có xu hướng chống Mỹ trong các tầng lớp trên, nhằm mục đích mở
rộng Mặt trận chống Mỹ, cô lập kẻ thù, giành quyền lợi dân sinh dân chủ hàng

ngày cho quần chúng, tiến lên đòi những yêu sách chính trị cao hơn, làm thất bại
mọi âm mưu, chính sách của chúng.
Thắng lợi của đấu tranh chính trị cùng với đấu tranh quân sự thu hẹp vùng
chiếm đóng, vùng tạm chiếm của địch, mở rộng vùng giải phóng của ta. Đấu tranh

×