Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TIEU LUAN CAO học, môn LICH SU tư TƯỞNG CHINH TRI thể chế chính trị thời lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.05 KB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam thời Lý một trong những vấn đề quan
trọng là việc nhìn nhận, đánh giá vị trí và vai trò của khuynh hướng dân chủ tư
sản ở Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Từ khi thoát khỏi ách thống trị của phong kiến ngoại bang, nhà nước
quân chủ dân tộc Việt Nam bắt đầu được xác lập. Trải qua các triều Ngô – Đinh
– Tiền Lê, Nhà nước quân chủ dân tộc đã dần dần được kiện toàn, nhưng vừa ra
đời sau đêm trường phụ thuộc, nhà nước thời kỳ này hãy còn non trẻ, chưa hoàn
thiện về mặt thiết chế, phải đợi đến những thế kỷ sau, bắt đầu từ thời Lý trở đi
mới có điều kiện phát triển và hoàn thiện hơn với những thể chế của nó.
Lúc lên ngôi vua tại kinh thành Hoa Lư, tiếp quản cơ đồ của nhà Tiền
Lê, trong buổi ban đầu vua Lý Thái Tổ vẫn giữ nguyên thể chế chính chính trị
cũ. Sau khi chuyển triều đình từ Hoa Lư ra Thăng Long, các vua nhà Lý mới bắt
đầu củng cố và xây dựng một chế độ chính trị riêng của nhà Lý cho phù hợp với
chính thể đương thời. Thể chế chính trị của nhà Lý được hoàn thiện trong các
thế kỷ XI – XIII (từ 1010 – 1225) là một chế độ chính trị ổn định và thống nhất,
trên có vua, dưới vua là hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất từ trung
ương tới địa phương. Điều hành hệ thống chính quyền nhà nước thống nhất của
nhà Lý là đội ngũ quan chức đông đảo được tuyển chọn bằng nhiều hình thức
khác nhau. Để bảo vệ vững chắc nhà nước quân chủ thống nhất và quốc gia Đại
Việt non trẻ, nhà Lý đã xây dựng một lực lượng quốc phòng vững mạnh và một
nền pháp chế phù hợp.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhiều tác giả, nhà nghiên cứu đã quan tâm nghiên cứu đề cập đến vấn
đề này ở nhiều phương diện khác nhau, song tất cả chỉ mới thu được những
thành công nhất định. Mặc dù vậy người viết vẫn muốn chọn đề tài này làm tiểu
luận, để khai thác sâu hơn khía cạnh của vấn đề và huy vọng sẽ tìm ra những nét
mới trong nội dung thể chế chính trị thời Lý.
1



3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu thể chế chính trị dừoi thời Lý từ thế
kỷ XI – XIII (từ 1010 – 1225)
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích: bài tiểu luận nhằm làm rõ cách thức tổ chức chính quyền
trong thể chế chính trị thời Lý
- Nhiệm vụ: bài tiểu luận nhằm làm rõ nhiệm vụ sau:
+ Cách tổ chức các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia
+ Cách tổ chức lực lượng quốc phòng thời Lý
+

Xây dựng nền nền pháp chế quốc gia

4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên phương pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp như: logic, lịch
sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu…
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liêu tham khảo, tiểu luận có
kết cấu gồm 2 chương và 13 tiết

2


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT DIỄN BIẾN CHÍNH TRỊ THỜI LÝ
1.1 Lý Thái Tổ (1009-1028):
Niên hiệu: Thuận Thiên.
Người khởi dựng triều Lý là Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn,

Bắc Ninh). Công Uẩn sinh năm Giáp Tuất (974), là con nuôi của thiền sư Lý
Khánh Văn từ 3 tuổi và truyền thuyết vẫn cho rằng ông là con của Vạn Hạnh,
anh ruột Khánh Văn.
Công Uẩn lớn tỏ rõ có chí lớn khác thường. Ông đến Hoa Lư làm quan
nhà Tiền Lê đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Khi vua Thiếu Ðế bị chết,
biết ông ôm thây vua khóc. Vua Ngoạ Triều khen là trung, cử ông là Tả tướng
quân chế chỉ huy sứ thống lĩnh hết quân túc vệ.
Khi Lê Long Ðĩnh mất, Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Vua kết tự Long
Ðĩnh còn nhỏ, Lý Công Uẩn chỉ huy quân túc vệ trong chốn cung cấm. Bây giờ
lòng người đã oán giận nhà Lê nên quan Chi hậu là Ðào Cam Mộc cùng các
quan trong triều tôn Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế vua Thái Tổ nhà Lý. Vua
Thái Tổ thấy Hoa Lư hẹp nên bèn dời đô về La Thành. Tháng bảy năm Thuận
Thiên nguyên niên (1010) vua khởi sự rời đô. Khi ra đến La Thành, Thái Tổ lấy
cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên liền đổi Ðại La thành Thăng Long
thành (tức Hà Nội bây giờ), đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An và Cổ Pháp thành
phủ Thiên Ðức. Vua Thái Tổ chỉnh đốn việc cai trị, chia nước làm 24 lộ, hội
Hoan Châu và Ái Châu là trại.
Vốn thông minh bẩm sinh, lại được nhập thân văn hoá cơ vùng đất văn
minh, văn hiến, lại được sự nuôi dạy của những vị cao tăng xuất chúng, Lý Công
Uẩn thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh
nước Ðại Việt, viết nên những trang sử oanh liệt dựng nước và giữ nước.
Chùa Ứng Tâm nơi ông sinh ra bây giờ có tên là chùa Dặn.
Ngôi huyệt chỗ giếng nước ở rừng Báng năm xưa, những gò ở xung quanh trông

3


giống như hoa sen nở 8 cánh nên nhà Lý truyền ngôi được 8 đời.
Vua Lý Thái Tổ trị vì 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi.
1.2 Lý Thái Tông (1028-1054):

Niên hiệu:
- Thiên Thành (1028-1033);
- Thống Thuỵ (1034-1038);
- Càn Phù Hữu Ðạo (1039-1041);
- Minh Ðạo (1042-1043);
- Thiên Cảm Thánh Võ (1044-1048);
- Sùng Hưng Ðại Bảo (1049-1054).
Vua Lý Thái Tổ sinh 5 Hoàng Tử: Thái Tông, Phật Mã, Dực Thánh Vương,
Khai Quốc Bồ, Ðông Chính Vương Lực, Võ Ðức Vương Hoảng, Phật Mã được
phong làm Thái Tử.
Vua Thái Tổ vừa mất chưa làm lễ tế táng, các Hoàng Tử: Võ Ðức
Vương, Dực Khánh Vương và Ðông Chính Vương đã đem quân vây thành để
tranh ngôi của Thái tử. Tướng Lý Nhân Nghĩa xin Hoàng thái tử đem quân ra
chống cự. Khi quân của Thái tử và quân của các vương giáp trận, võ vệ tướng
quân Lê Phụng Hiểu tuốt gươm xông tới chém chết Võ Ðức Vương, Thấy vậy,
Dực Khánh Vương và Ðông Chính Vương xin về chịu tội, được vua Thái Tông
tha tội và phục lại chức cũ.
Thái Tông luôn dạy dân tôn trọng phép nước, định rõ các bậc hình phạt,
đối với các tội nhẹ, cho được lấy tiền chuộc tội. Hễ năm nào đói kém, hoặc đi
đánh giặc về, vua đều giảm thuế cho dân. Ở trong cung, vua định rõ số hậu, phi
và cung nữ: Ví như, hậu và phi: 13 người, ngự nữ 18 người, nhạc kỹ: 100 người.
Tất cả các cung nữ đều phải học nghề thêu, dệt gấm vóc, khuyến khích triều
thần dùng chế phẩm của họ.
Thời ấy giặc giã còn nhiều nên vua phải thân chinh đi trận mạc. Năm
Mậu Dần(1038), có Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên (Lạng Sơn) làm
phản, tự xưng là ChiêuThánh hoàng đế, lập A Nùng làm Hoàng hậu, đặt quốc
hiệu là Trường Sinh rồi đem quân đi đánh phá các nơi. Năm sau, vua Thái Tông
4



thân đi đánh được Nùng Tốn Phúc và con là Nùng Trí Thông đem về kinh xử
tội. Còn A Nùng và con là Nùng Trí Cao chạy thoát.
Năm Tân Tị (1041) Nùng Trí Cao cùng với mẹ về lấy được châu Thắng
Do (gần châu Quảng Nguyên) lập ra nước Ðại Lịch. Thái Tông sai tướng lên
đánh, bắt được Nùng Trí Cao. Vua thương tình tha tội chết và cho làm Quảng
Nguyên Mục và gia phong cho tước Thái Bảo. Nhưng năm Mậu Tý (1048),
Nùng Trí Cao lại xưng là Nhân Huệ hoàng đế, quốc hiệu là Ðại Nam chống lại
triều đình.Vua sai tướng Quách Thịnh Dật lên đánh. Nùng Trí Cao đem quân
sang đánh Ung Châu rồi lần lượt 8 châu khác thuộc về Quảng Ðông, Quảng Tây
của nhà Tống. Vua Tống cử Ðịch Thanh cùng nhiều tướng giỏi đi đánh Nùng Trí
Cao. Nhưng đánh mãi không được. Chỉ đến khi người Ðại Lý vừa bắt Nùng Trí
Cao chém lấy đầu đem nộp nhà Tống, giặc Nùng mới tan. Năm Giáp Thân
(1044), Chiêm Thành nhiều lần đem quân quấy rối vùng biên giới, vua thân
chinh đánh dẹp, tiến vào kinh đô nước Chiêm, chém vua Chiêm.
Vua Lý Thái Tông cũng rất chú ý đến việc lập pháp. Dưới thời ông trị vì,
năm Nhâm Ngọ (1042), bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta được ban hành.
Ðó là bộ luật “Hình thử”. Vua Thái Tông trị vì được 27 năm, đến năm Giáp Ngọ
(1054) thì mất, thọ 55 tuổi.
1.3 Lý Thánh Tông (1054-1072):
Niên hiệu:
- Long Thuỵ Thái Bình (1054-1058);
- Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065);
- Long Chương Thiên Tự (1066-1067);
- Thiên Chúc Bảo Tượng (1068);
- Thần Võ (1069-1072).
Vua Lý Thái Tông có 2 con trai là Thái tử Nhật Tôn và hoàng tử Nhật Trung.
Vua Lý Thái Tông cũng giống các vua Lý đời trước, tuy đóng đô ở Thăng
Long nhưng tình cảm thường gắn bó với đồng ruộng và thương dân. Vì vậy, đến
mùa xuân vua thường về phủ Thiên Ðức xem hội hè, lễ Phật, xem cấy lúa, đánh
cá, mùa hè xem gặt hái, nghỉ mát và tu dưỡng.

5


Vua Lý Thánh Tông thương dân nên trăm họ đều yêu mến, nước ít giặc
giã. Vì muốn khai hoá cho dân, vua lập Văn Miếu, lập tượng Chu Công, Khổng
Tử và 72 vị tiên hiền để thờ. Văn Miếu được xây năm 1072.
Ngoài việc thực hiện nền chính trị nhân đạo thân dân, vua Lý Thánh Tông
còn là người để tâm đến đạo Phật, vua đã cho xây cất nhiều chùa chiền và là
người sáng lập phái Phật giáo Thảo Ðường. Lý luận của Thảo Ðường thoả mãn
sự đòi hỏi của vua muốn phát triển ý thức dân tộc, muốn tự lập tự cương, chống
sự xâm lăng của Bắc Tống, hoà hợp với Khổng học tạo nên sự thống nhất giữa ý
chí và hành động của giới tu hành, thứ dân, nhằm xây dựng một Ðại Việt hùng
mạnh. Khác với các triều đại trước, Lý Thánh Tông đem đạo vào đời, mà cuộc
đời ấy theo nhà vua, phải lấy việc phụng sự dân tộc, lấy sự đồng tâm nhất trí làm
mục đích để tập trung vào hành động thiết thực, cứu thế bằng đức tin. Vua đã
tìm thấy Phật học triết lý sinh thành dưỡng dục dại lâu dài nối tiếp, là phương
tiện dạy cho dân hiểu mình là ai, lấy ý chí tự cường để chiến thắng số mệnh,
phụng sự cho sự phồn vinh bền vững của quốc gia. Cũng do vậy dân chúng Ðại
Việt tìm thấy nguồn cảm hứng vừa sâu rộng vừa cao siêu của mình của tình yêu
hiện thực và đại đồng Phật giáo. Ở lòng từ bi bác ái cứu nạn cứu khổ, cứu vớt
chúng sinh. Nhân dân đến với đạo không phải vì chán ngán cuộc đời mà vì
muốn sống cuộc đời cao cả là đời sống tâm linh. Nhưng nhà tu hành đời Lý
không phải là những người chán đời đi ở ẩn mà là những người xuất thế để nhập
thế, những người có học vấn muốn giúp người, Vì vậy, đời Lý người tu hành
xuất hiện khắp nơi. Chùa và đình thất mọc lên khắp nước. Kiến trúc chùa chiền
thời ấy rất giản dị, dịu mát ẩn dưới bóng đa linh thiêng và tôn kính.
Binh pháp thời Lý Thánh Tông có tiếng là giỏi. Nhà Tống đã phải dụng
tâm học cách tổ chức phiên chế quân đội của ta.
Năm Nhâm Tí (1072), Lý Thánh Tông mất đột ngột, trị vì được 17 năm, thọ 50
tuổi.

1.4 Lý Nhân Tông (1072-1127):
Niên hiệu:
- Thái Ninh (1072-1075);
6


- Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084);
- Quang Hữu (1085-1091);
- Hội Phong (1092-1100);
- Long Phù (1101-1109);
- Hộ Tường Ðại Khánh (1110-1119);
- Thiên Phù Duệ Võ (1120-1126);
- Thiên Phù Khánh Thọ (1127).
Vua Lý Thánh Tông sinh được Thái tử Càn Ðức, con Nguyên phi Ỷ Lan. Thánh
Tông mất, Càn Ðức mới 7 tuổi lên nối ngôi lấy hiệu là Lý Nhân Tông.
Vua Nhân Tông còn nhỏ nhưng nhờ có Thái phi Ỷ Lan làm nhiếp chính,
lại thêm Thái sư Lý Ðạo Thành và Phụ quốc Thái uý Lý Thường Kiệt, những
khối óc lớn thời ấy giúp sức, nên nước Ðại Việt trở nên hùng mạnh.
Về đối nội, Vua Nhân Tông cho đắp đê Cơ Xá, khởi đầu việc đắp đê ngăn
lũ ở nước ta, nhằm giữ cho kinh thành khỏi ngập lụt.
Năm Ất Mão (1075) vua mở khoá thi tam trường, còn gọi là Minh Kinh
bác học để chọn người có tài văn học vào làm quan. Khoa thi ấy ở khoa thi đầu
tiên ở nước ta chọn 10 người, thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Về sau, Lê Văn Thịnh
làm đến chức Thái sư (tể tướng), tỏ rõ là người có tài xuất chúng. Cuối đời vua
nghi ngờ Lê Văn Thịnh làm phản, Thịnh bị đầy lên Thao Giang (Tam Nông, Phú
Thọ) và đã chết oan tại đó.
Năm Bính Thìn (1076), vua cho lập Quốc Tử Giám-trường đại học đầu
tiên của nước ta, chọn những nhà nho giỏi vào dạy. Ðến năm Bính Dần (1086)
mở khoa thi chọn người có tài văn học vào Hàn lâm viện. Khóa ấy có Mạc Hiền
Tích đỗ đầu, được bổ Hàn lâm học sĩ.

Năm Kỷ Tỵ (1089) vua Nhân Tông định quan chế, chia văn võ 9 phẩm,
quan đại thần có Thái Sư, Thái Phó, Thái uý, Thiếu sư, Thiếu uý, ở dưới những
bậc ấy, về văn ban có Thượng thư, tả hữu Tham trí, Tả hữu Gián nghị đại phu,
Trung thu thị lang. Về võ ban có Ðô Thống, Nguyên Suý, Tổng quản khu mật
sứ, khu mật tả hữu sứ, Kim ngô thượng tướng, Ðại tướng, Ðô tướng, Chư vệ
tướng quân...
7


Ở các châu quận, văn thì có tri phủ, tri châu; võ thì có Chư lộ trấn, lộ quan.
Năm Ðinh Tỵ (1077), khi Tống triều cử Quách Quý, Triệu Tiết đem đại
binh sang xâm lược Với toàn quyền điều khiển triều đình, Hoàng Thái hậu Ỷ
Lan và Phụ quốc thái uý Lý Thường Kiệt đã huy động được cả dân tộc vào trận,
tạo cho thế nước ở đỉnh cao ngàn trượng đè bẹp quân thù. Nước Ðại Việt đã ra
khỏi cuộc chiến tranh với hào quang chiến thắng quanh vương miện để bước
nhanh trên con đường cường thịnh, văn hiến.
Vua Lý Nhân Tông làm vua đến năm Ðinh Mùi (1127) thì mất, trị vì được
56 năm, thọ 63 tuổi.
1.5 Nguyên Phi Ỷ Lan:
Nói đến triều Lý không thể không nói đến Ỷ Lan, một trong những danh
nhân có tài trị nước của dân tộc. Trên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến, quê làng
Thổ Lỗi sau đổi thành siêu loại (Thuận Thành, Bắc Ninh) nay thuộc Gia Lâm,
Hà Nội. Vì mẹ mất từ lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế nên thân phận Ỷ Lan khổ như
cô Tấm trong chuyện cổ tích. Sử ghi, Ỷ Lan là cô tấm lộ Bắc, hay gọi đền thờ Ỷ
Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) là đền thờ Bà Tấm là vì thế.
Năm Nhâm Tuất (1072), vua Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, triều Lý
không tránh khỏi rối ren. Nhưng khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu nhiếp
chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền tể tướng thì Ðaị Việt lại khởi sắc, nhanh
chóng thịnh cường. Ỷ Lan đã thi hành những biện pháp dựng nước yên dân,
khiến cho thế nước và sức dân đã mạnh hẳn lên. Năm Ðinh Tỵ (1077), Tống

triều phát đại bệnh sang xâm lược. Ðể Lý Thường Kiệt rảnh tay lo việc trận mạc,
Thái hậu Ỷ Lan đã bỏ qua hiềm khích cũ, điều Lý Ðạo Thành từ Nghệ An về,
trao chức thái sư như cũ, để cùng mình điều khiển triều đình huy động sức người
sức của vào trận. Nhờ vậy nước Ðại Việt đã làm nên chiến thắng hiển hách.
Quân giặc hùng hổ toan làm cỏ nước Ðại Việt đã phải cam chịu thất bại, lủi thủi
rút quân về nước.
Làm nên chiến thắng này, công Thái hậu Ỷ Lan thực lớn. Nhưng trong đời
Ỷ Lan không phải không có tì vết. Sau khi vua Lý Thánh Tông qua đời, Hoàng
hậu Thượng Dương dựa vào thế lực của Thái sư Lý Ðạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra
8


khỏi triều đình. Mãi 4 tháng sau, có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại
nắm quyền nhiếp chính. Bà đã bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72
cung nữ vào lãnh cung, bỏ đói cho đến chết. Vì tội trạng ấy, sử sách phong kiến
đã xoá sạch mọi công lao của bà đối với dân nước, mà quên mất rằng trong
nghiệp làm chính trị, đó là chuyện thường thấy.
1.6 Lý Thần Tông (1128-1138):
Niên hiệu: Thiên Thuận; Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137).
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của hoàng đệ Sùng Hiền hầu
Dương Hoán lên làm Thái Tử, nay kế vị ngôi Hoàng đế tức là vua Thần Tông.
Thần Tông vừa lên ngôi liền đại xá cho các tù phạm và trả lại ruộng đất
tịch thu của quân dân ngày trước. Vua thực hiện chính sách ngụ binh ưa nông,
cho binh lính đổi phiên cứ lần lượt 6 tháng một lần được về làm ruộng. Do vậy,
sản xuất nông nghiệp phát triển. Dân no đủ nên giặc giã cũng ít. Thần Tông làm
vua được10 năm, thọ 23 tuổi.
1.7 Lý Anh Tông (1138-1175):
Niên hiệu:
- Thiên Minh (1138-1139)
- Ðại Ðinh (1140-1162)

- Chính Long Bảo Ứng (1163-1173)
- Thiên Cảm Chí Bảo (1174-1175)
Vua Lý Thần Tông có 2 con trai là Thiên Lộc và Thiên Tộ. Thần Tông
mất, triều đình tôn Thái tử Thiên Tộ lên làm vua, hiệu là Anh Tông.
Lý Anh Tông kế vị ngôi vua mới có 3 tuổi. Bởi vậy thái hậu Lê Thị cầm
quyền nhiếp chính. Lê Thái hậu lại tư thông với Ðỗ Anh Vũ, cho nên mọi việc
lớn nhỏ trong triều đều nằm trong tay vị đại thần họ Ðỗ này cả. Ðỗ Anh Vũ được
thể ra vào cung cấm, Thấy Anh Vũ lộng quyền, các quan Vũ Ðái, Nguyễn
Dương, Nguyễn Quốc và Dương Tự Minh bàn mưu trừ khử. Việc bại lộ, tất cả bị
Anh Vũ giết hại. May thay triều đình lúc đó có nhiều tôi giỏi như Tô Hiến
Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên tham vọng của Ðỗ Anh Vũ đã bị
chặn lại. Tô Hiến Thành chẳng những giúp vua đánh Ðông dẹp Bắc, giữ cho
9


nước được yên mà còn luyện tập quân lính, kén trọn những người tài giỏi cho
làm tướng, coi quân trị dân. Bởi vậy, nước Ðại Việt hồi ấy trở nên hùng mạnh.
Năm Tân Mão và năm Nhâm Thìn (1171-1172), vua dầy công đi qua
những vùng núi non hiểm trở, quan sát sinh hoạt của dân rồi sai quan làm tập
bản đồ nước Ðại Việt.
Khi biết mình sức yếu, Vua phong cho Tô Hiến Thành làm Thái phó Bình
chương quân quốc trọng sự và gia phong tước vương, đồng thời uỷ thác Thái tử
là Long Cán cho Tô Hiến Thành giúp dạy Anh Tông mất, trị vì được 37 năm, thọ
40 tuổi, đổi niên hiệu 4 lần.
1.8 Lý Cao Tông (1176-1210):
Niên hiệu:
- Trịnh Phù (1176-1185)
- Thiên Tư Gia Thuỵ (1186-1201)
- Thiên Gia Bảo Hựu (1202-1204)
- Trị Bình Long Ứng (1205-1210)

Vua Anh Tông mất, Thái tử Long Cán chưa đầy 3 tuổi. Bà Chiêu Linh thái
hậu muốn lập con cả của mình tên là Long Xưởng lên làm vua bèn đem vàng
bạc đút lót cho vợ Tô Hiến Thành. Nhưng Tô Hiến Thành nhất định không nghe
cứ theo di chiếu lập Long Cán, tức vua Lý Cao Tông.
Năm Mậu Thìn (1208), ở Nghệ An có Phạm Du làm phản chiêu nạp bọn
côn đồ đi cướp phá của dân. Vua Cao Tông sai quan quân đánh được Phạm Du,
tịch biên gia sản, đốt phá nhà cửa của hắn. Phạm Du cho người về kinh lấy vàng
đút lót các quan trong triều rồi vu cho Bỉnh Di làm việc hung bạo, giết hại người
vô tội. Triều đình cho Phạm Du vào triều kêu oan. Nghe lời Phạm Du, vua Cao
Tông triệu Bỉnh Di hội triều rồi bắt giam ngay. Hay tin, một bộ tướng của Bỉnh
Di là Quách Bốc đem quân phá cửa thành vào cứu Bỉnh Di. Thấy biến Cao Tông
vội cho giết Bỉnh Di rồi đem gia quyến chạy lên vùng Tam Nông (Phú Thọ).
Thái tử Sản thì chạy về Hải Ấp (Làng Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình). Quách Bốc
đem xác Bỉnh Di mai táng rồi vào điện tôn Hoàng tử Thẩm lên làm vua.
Thái tử Sản chạy về Hải Ấp vào ở nhà Trần Lý làm nghề đánh cá. Thấy
10


con gái Trần Lý là Trần Thị Dung khoẻ mạnh, xinh đẹp bèn lấy làm vợ và phong
cho Trần Lý tước Minh Tự, Tông Trung Tự, cậu Trần Thị Dung chức Ðiện tiền
chỉ huy sứ.
Anh em họ Trần mộ quân giúp Thái tử Sản thu phục kinh thành rồi lên
vùng Tam Nông, rước Cao Tông về kinh được 1 năm thì mất (1210) trị vì được
35 năm, thọ 38 tuổi, đổi niên hiệu 4 lần, thờ ở đền Ðô.
1.9 Lý Huệ Tông(1210-1224):
Niên hiệu: Kiến Gia.
Thái tử Sản là con trưởng của vua Cao Tông, sinh năm Giáp Dần (1194)
khi vua Cao Tông mất Thái tử Sản lên nối ngôi lấy hiệu là Huệ Tông rồi sai
quan quân đi đón Trần Thị Dung về phong làm Nguyên Phi. Lúc ấy Trần Lý đã
bị quân cướp giết, con thứ là Trần Tự Khánh nắm binh quyền, Huệ Tông bèn

phong cho Tự Khánh làm Chương Tín hầu và Tô Trung Từ làm Thái uý Thuận
Lưu Bá.
Vốn không ưa Nguyên phi Trần Thị Dung, lại thấy họ Trần nắm giữ binh
quyền. Ðàm Thái hậu, mẹ vua Huệ Tông ra mặt hắt hủi Thị Dung. Trần Tự
Khánh thấy em mình bị đối xử tệ bạc liền đem quân về Kinh sư xin vua rước Thị
Dung đi, Lý Huệ Tông nghi Trần Tự ngự nữ. Tự Khánh thấy vận thân đến quân
môn xin lỗi và vẫn xin rước đi. Huệ Tông càng nghi, vội cùng với Ðàm Thái hậu
chạy lên Lạng Châu (Lạng Sơn). Tư Thái hậu về Bình Hợp, Ðàm Thái hậu cho
rằng họ Trần muốn làm phản, thường chỉ mặt Trần Thị Dung xỉ vả và xui Huệ
Tông bỏ Thị Dung, nhưng vì mê đắm Thị Dung xinh đẹp bội phần, vua không
nghe. Ðàm Thái hậu mấy lần bỏ thuốc độc toan giết Thị Dung, nhưng vua đều
cản được. Thường đến bữa vua ăn một nửa, một nửa dành cho người đẹp và
ngày đêm giữ luôn bên mình không cho đi đâu. Về sau, Thái hậu làm dữ quá,
Huệ Tông đang đêm mang Trần Thị Dung trốn đến nhà Tướng quân Lê Mịch và
cho đòi Trần Tự Khánh đến chầu. Tự Khánh đem quân đến hộ giá Vua về kinh.
Huệ Tông phong cho Trần Thị Dung làm Hoàng Hậu, Trần Tự Khánh làm Phụ
chính và người của Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.
Tháng chạp năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh mất, vua Huệ Tông
11


cho Trần Thừa làm Phụ Quốc thái uý, và năm sau, giao cho em họ Hoàng hậu là
Trần Thủ Ðộ làm Ðiện tiền chỉ huy, Từ đó, mọi việc trong Triều đều do vị tướng
trẻ Trần Thủ Ðộ định đoạt.
Vua Huệ Tông về cuối đời thường rượu chè say khướt ngủ cả ngày, không
quan tâm đến việc triều chính. Vua không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị chỉ
sinh được hai công chúa. Người chị là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng
Kiều Vương Trần Liễu, con cả của Trần Thừa. Người em là Chiêu Thánh công
chúa tên là Phật Kim, mới 7 tuổi, được lập làm Thái Tử.
Tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho Chiêu

Thánh công chúa rồi vào ở chùa Chân Giáo sau mất ở đó. Huệ Tông trị vì được
14 năm.
1.10 Lý Chiêu Hoàng(1225):
Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Ðạo.
Chiêu Thánh công chúa còn có tên là Phật Kim, sinh vào tháng 9 năm
Mậu Dần (1218).
Chiêu Thánh công chúa lên ngôi năm Giáp Thân (1224), tức là Lý Chiêu
Hoàng. Vua còn nhỏ lên quyền binh ở cả Trần Thủ Ðộ. Trần Thủ Ðộ đưa các
cháu vào cung cấm giữ các chức vụ lớn nhỏ.

12


Chương 2: THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ DƯỚI THỜI NHÀ LÝ
2.1. Cách tổ chức các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia
2.1.1. Các cơ quan thuộc nền hành chính Trung ương
Bắt đầu từ thời Lý, các cơ quan thuộc nền hành chính trung ương (hay còn
gọi là Tổ chức chính quyền Trung ương) đã được kiện toàn và hoàn thiện hơn so
với thời Đinh và Tiền Lê trước đó, gồm ba bộ phận chủ yếu là: Những văn thư
phòng giúp việc bên cạnh vua, Các cơ quan đầu não tại triều đình và Các cơ
quan chuyên môn.
Những văn thư phòng giúp việc bên cạnh vua, vào thời Lý đặt chưa đầy
đủ như ở thời Trần và thời Lê sơ sau đó. Từ thời Trần và đặc biệt là thời Lê Sơ
về sau, những văn thư phòng giúp việc cho vua bao gồm đủ cả ba bộ phận, đó
là: các Sảnh ( hay còn gọi là các Tỉnh như Thượng thư tỉnh, Trung thư tỉnh, Môn
hạ tỉnh, Hoàng môn tỉnh và Nội thị tỉnh); Hàn lâm viện và Bí thư giám. Nhưng
dưới thời Lý, Bí thư giám chưa được đặt nên chỉ mới có hai văn phòng bên cạnh
vua và giúp việc cho vua là Sảnh và Hàn lâm viện.
Sảnh (gồm có Thượng thư sảnh và Trung thư sảnh), không rõ được đặt ra
như thế nào và vào lúc nào dưới thời Lý. Theo sách Lịch triều hiến chương loại

chí thì “đến đời vua Lý Thần Tông (1128 – 1138) có đặt chức Viên ngoại lang ở
Thượng thư sảnh, dự bàn chính sự, danh vị cũng trọng. Quan trong, quan ngoài
thường gia thêm chức ấy, như Nội thị là Lý Công Tín, Hàn Quốc Bảo đều gia
chức Viên ngoại lang”. Như vậy, vào thời Lý đã có cơ quan là Sảnh, nên mới có
việc đặt các chức quan của Thượng thư sảnh và Trung thư sảnh như sử sách vừa
ghi.
Hàn lâm viện được lập ra đầu tiên ở nước ta bắt đầu từ thời Lý, dưới triều
vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) và đứng đầu Hàn lâm viện là chức quan Hàn
lâm học sĩ.
Các cơ quan đầu não tại triều đình:
Cùng với việc đặt các cơ quan đầu não tại triều đình, nhà Lý đã đặt ra
những chức quan đứng đầu triều. Những chức quan đứng đầu triều đều là những

13


quan lại được vua uỷ nhiệm trực tiếp điều khiển toàn bộ nền cai trị trong nước.
Đó là Tể tướng và Á tướng.
Chức vụ Tể tướng từ thời Đinh trở về trước gọi là gì không rõ, đến thời
Tiền Lê, Lê Đại Hành mới đặt ra chức Tổng quản coi việc quân dân, tóm giữ
việc nước, tức là công việc của Tể tướng. Bắt đầu từ thời Lý, khi mới dựng
nước, vua Lý Thái Tổ đã cho Trần Cảo làm tướng công tức giữ chức Tể tướng.
Đến đời vua Lý Thái Tông “dùng chức Phụ quốc Thái uý giữ chính sự, chức
nhiệm cầm cân, tức là Tể tướng”.
Tiếp đến đời Lý Nhân Tông lại thêm vào mấy chữ “Kiểm hiệu bình
chương quân quốc trọng sự”, xem ra chức vụ càng trọng. Có người làm chức vụ
này lại mang danh chức trong hàng Tam thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo) và
Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo). Vào thời Lý đã có những ng-ười
từng giữ chức vụ Tể tướng với nhiều danh vọng như: Lý Thường Kiệt làm Thái
phó phụ quốc thượng tướng quân dưới triều vua Lý Thánh Tông; Lý Đạo Thành

làm Thái phó Bình chương quân quốc trọng sự dưới triều vua Lý Nhân Tông; Tô
Hiến Thành giữ chức Nhập nội kiểm hiệu Thái phó Bình chương quân quốc
trọng sự dưới triều vua Lý Anh Tông và sau đó có Thái sư Đỗ An Di cũng kiêm
chức Đồng bình chương sự ở triều Lý Anh Tông…
Á tướng là chức vụ của viên quan đứng sau Tể tướng và đứng ở vị trí thứ
hai tại triều đình. Vào thời Lý, chức Á tướng là Tả, Hữu tham tri chính sự. Á
tướng có nhiệm vụ giúp Tể tướng điều khiển mọi việc trong nước, còn gọi là
Phó tướng. Vào thời kỳ này, nhà Lý còn cho đặt thêm chức Hành khiển cũng là
chức đứng sau Tể tướng và chuyên lấy trung quan (hoạn quan) để đảm đương
chức vụ ấy
Dưới Tể tướng và Á tướng – hai chức quan đứng đầu và đứng thứ hai
trong triều, là các cơ quan chính yếu như: Khu mật viện và các Bộ.
Khu mật viện được lập ra từ thời Lý. Đứng đầu Khu mật viện là hai chức
quan Tả sứ và Hữu sứ trông coi việc binh. Làm việc trong Khu mật viện đều là
những quan thân cận nhà vua và chỉ bàn tới các việc cơ mật trong triều. Dưới
triều vua Lý Thái Tổ có Ngô Đinh được làm Khu mật sứ16. Sang thời Lý Thái
14


Tông thì có Lý Đạo Kỷ làm Tả khu mật và Xung Tân làm Hữu khu mật17.
Những người này đều là công thần thân cận được vua Lý Thái Tổ và Lý Thái
Tông ban chức tước ngay từ sau khi nhà vua lên ngôi.
Các Bộ, vào thời Lý nói chung chưa thấy có sự phân định rõ ràng. Tuy
vậy, ở thời kỳ này, chức Thượng thư đứng đầu bộ đã bắt đầu được đặt, ví dụ
dưới triều vua Lý Nhân Tông, Mạc Hiển Tích, Đoàn Văn Khâm, Nguyễn Công
Bật vv…đều được giữ chức Thượng thư
- Các cơ quan chuyên môn:
Để giúp việc cho các cơ quan đầu não tại triều đình, các vua nhà Lý cũng
như các vua nhà Trần và nhà Lê sau đó đều đặt ra các cơ quan chuyên môn,
gồm: Quốc sử viện, Thái chúc viện, Quốc tử giám, Các cơ quan coi về hình án

(Đình uý ty, Ngũ hình viện), Ngự tiền tam cuộc (Cận thị, Chi hậu và Học sĩ –
trông coi về việc binh của nhà vua)… Nhưng, vào thời Lý chưa đặt đầy đủ các
cơ quan chuyên môn này. Cơ quan chuyên môn đầu tiên được đặt vào thời Lý là
Quốc Tử giám. Quốc Tử giám là cơ quan có nhiệm vụ trông coi về việc giáo dục
trong nước.
Các cơ quan thuộc nền hành chính Trung ương của thời Lý dễ nhận thấy,
vào thời kỳ này so với những thời kỳ sau đó, bộ máy chính quyền Trung ương
của thời Lý tuy chưa được hoàn thiện và chưa đặt đầy đủ các cơ quan, song đã
có sự kiện toàn đáng kể so với những thời kỳ trước. Đó là những cố gắng rất lớn
của nhà Lý trong buổi đầu dựng nghiệp.
2.1.2. Các cấp hành chính ở địa phương
Ngay trong năm 1010, khi đã ổn định một số công việc lớn mang tầm
quốc gia như dời chuyển kinh đô, kiến lập kinh thành, kiện toàn bộ máy bộ máy
chính quyền ở cấp Trung ương, vua Lý Thái Tổ cũng đã tiến hành xây dựng bộ
máy hành chính các cấp cơ sở, làm nền tảng vững chắc cho toàn bộ hệ thống
chính quyền nhà nước.
Công việc đầu tiên mà nhà vua tiến hành là cho chia lại các khu vực hành
chính trong nước. Đơn vị hành chính đứng đầu cấp chính quyền địa phương thời
Lý gọi là phủ, Lộ. Ngay từ khi vừa dời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã
15


cho đổi châu Cổ pháp, quê hương của nhà Lý làm phủ Thiên Đức, đổi vùng kinh
thành Hoa Lư cũ của nhà Đinh – Tiền Lê thành phủ Trường Yên32. Đến cuối
năm đó (tháng 12 năm 1010), nhà vua bắt đầu cho đổi 10 Đạo có từ thời Đinh và
Tiền Lê làm 24 Lộ. Vùng núi thì gọi là châu hay trại. Một số nơi ở xa kinh đô
cũng gọi là trại, như việc cho đổi châu Hoan, châu Ái làm trại33. Năm 1014, lại
cho đổi phủ Ứng Thiên (Ứng Hoà, Hà Nội ngày nay) thành Nam Kinh34. Năm
1023, đổi trấn Triều Dương( thuộc Quảng Ninh ngày nay) thành châu Vĩnh An.
Năm 1036, đổi châu Hoan thành Nghệ An châu trại. Sau lại đổi châu Ái thành

phủ Thanh Hoá.
Như vậy, ta có thể hình dung được toàn bộ cấp hành chính địa phương của
thời Lý theo một hệ thống từ trên xuống dưới như sau :
Trên là cấp phủ, lộ (ở đồng bằng) và châu hay trại (ở vùng xa kinh đô
hoặc miền núi). Dưới phủ, lộ, châu là cấp huyện hoặc (hương), giáp và cuối
cùng là thôn. ở Kinh đô thì nhà Lý đặt ra thành các phường, gồm 61 phường
(như phường Thái Hoà, phường Cơ Xá, phường Yên Thái…).
Nhìn chung cách gọi phủ, lộ, châu hay trại ở thời kỳ này vẫn chưa được
nhất quán. Có thể do phương thức quản lý khác nhau của từng vùng đất mà nhà
Lý đặt ra tên gọi khác nhau. Như những vùng đồng bằng phía bắc thì gọi thống
nhất là phủ và lộ. Còn những miền xa kinh đô như Thanh Hoá, Nghệ An thì gọi
là châu, có lúc đổi là trại, rồi lại đổi thành châu, thành phủ vv…Lại có những
nơi ở vùng núi xa thì không gọi là châu mà gọi là đạo. Ví dụ vùng Tây Bắc (dọc
theo sông Đà) lúc bấy giờ lại không gọi là châu mà gọi là đạo Lâm Tây vv.
Mỗi phủ (lộ, châu) được chia ra làm nhiều huyện. Đứng đầu đơn vị hành
chính cấp huyện là viên Huyện lệnh. Tên đơn vị hành chính cấp huyện ở thời Lý
không được ghi trong chính sử mà chỉ thấy ghi trong tài liệu văn bia.
Cấp hương dưới thời Lý cụ thể thế nào không thấy sử sách nói rõ, nhưng
sử cũ lại nhắc tới tên hương, qua nhiều sự kiện khác nhau. Như những sự kiện
sau đây:
- Năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã hạ lệnh cho các hương ấp, nơi nào có
chùa quán đổ nát đều phải sửa chữa lại.
16


- Năm 1027, trong vụ dẹp loạn ba vương giữ ngôi báu cho vua Lý Thái
Tông, Lê Phụng Hiểu, một trong những công thần được sử nhắc đến là người
hương Băng Sơn ở Ái châu (nay thuộc huyện Hoằng Hóa, Thanh Hoá). Sau ông
còn được nhà vua ban cho lộc điền gọi là ruộng ném đao ở hương Đa Mi.
- Năm 1068, vua Lý cho đổi hương Thổ Lỗi thành hương Siêu loại vì

là nơi sinh của Nguyên phi
- Năm 1128, người Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ
An.
- Năm 1131, người ở hương Thái Bình là Nguyễn Mãi dâng hươu
trắng.
- Đến năm 1198, vào cuối thời Lý biên niên sử vẫn còn ghi tên hương,
như “người hương Cao Xá ở châu Diễn là Ngô Công Lý chiêu tập những kẻ vô
lại…làm loạn”45. Hoặc sách Việt sử lược khi viết về thời Lý cũng nhắc nhiều
đến tên hương, như “trong hương vua ở, có cây gạo bị sét đánh…”, “con chó ở
chùa ứng Thiên hương Cổ Pháp đẻ một con chó trắng…”.
Đơn vị hành chính cấp hương được đặt ở nước ta từ thời thuộc Đường
(năm 662) dưới thời Thứ sử Khâu Hoà. Lúc này hương được chia làm đại hương
và tiểu hương. Trong khoảng đời Trinh Nguyên (785 – 805), viên đô hộ Triệu
Xương bỏ tên đại, tiểu hương chỉ gọi chung là hương. Đến thời Hàm Thông
(860 – 874), Cao Biền chia đặt lại hương thuộc, có tất cả 159 hương. Khi chính
quyền về tay họ Khúc, Khúc Hạo lại cho đổi hương thành giáp. Sách An Nam
chí nguyên ghi: “Giữa niên hiệu Khai Bình (907 – 910) nhà Lương, Tiết độ sứ
Khúc Hạo lại đổi hương làm giáp, đặt thêm 150 giáp, cộng với số giáp đã có từ
trước tất cả là 314 giáp”.
Qua các triều Ngô, Đinh và Tiền Lê không thấy biên niên sử nhắc đến tên
hương, nhưng có lẽ đơn vị hương đã phải có từ trước khi triều Lý thành lập, vì
ngay từ đầu triều Lý đã thấy sử ghi tên hương và trong suốt thời Lý cho đến cuối
triều Lý vẫn thấy biên niên sử ghi rất nhiều về đơn vị hành chính cấp hương.
Vậy, hương phải là một đơn vị hành chính cấp cơ sở vì nó được tồn tại khá phổ
biến dưới thời Lý. Hương lúc này qui mô chắc cũng lớn, có lẽ phải lớn hơn tổng
17


và tương đương với huyện sau này. Vì năm 1068, vua Lý cho đổi hương Thổ Lỗi
– nơi sinh của Nguyên phi ỷ Lan thành hương Siêu loại, thì sau này hương Siêu

Loại lại được đổi làm huyện Siêu Loại. Huyện Siêu loại còn tồn tại cho đến thế
kỷ XIX, huyện này có tới 6 tổng và 68 xã thôn50.
Như vậy, hương thời Lý có thể tương đương với cấp huyện hoặc có nơi
gọi hương là huyện và có nơi lại gọi huyện là hương do chưa có sự nhất quán về
tên gọi các đơn vị hành chính của thời kỳ này như vừa nhắc ở trên.
Giáp ở thời Lý cụ thể như thế nào cũng không thấy sử sách ghi chép đầy
đủ nhưng chắc chắn vào thời kỳ này, đơn vị giáp hãy còn tồn tại vì vào thời
Khúc – Ngô – Đinh – Tiền Lê, giáp là đơn vị hành chính khá phổ biến. Các chức
Quản giáp và Phó quản giáp đã được đặt ra để trông nom công việc của giáp.
Đến thời Lý, vẫn còn thấy sử nhắc tới tên giáp, như năm 1029 “Giáp Đãn Nãi ở
Ái châu làm phản…vua thân đi đánh giáp Đãn Nãi”51. Vào thời vua Lý Thái
Tông, khi Uy Minh Vương Lý Nhật Quang được cử làm Tri châu châu Nghệ An,
ông đã cho nhân dân khai phá mở mang xây dựng và phát triển vùng đất này rồi
lập hộ tịch, kê khai được 6 huyện, 4 trường, 60 giáp52 như vừa nhắc ở trên. Như
vậy, đơn vị Giáp cho đến thời Lý vẫn còn hiện tồn khá quen thuộc.
Đơn vị thôn cũng được nhắc đến vào thời Lý qua sự kiện Lê Phụng Hiểu
đi đánh dẹp cuộc tranh giành địa giới của hai thôn Đàm Xá và Cổ Bi53 ở châu
Ái.
Tại những đơn vị hành chính các cấp của chính quyền địa phương, nhà Lý
cũng đã đặt một hệ thống quan chức để giúp triều đình quản lý công việc ở đây.
Quan lại đứng đầu cấp phủ, lộ thời kỳ này là Tri phủ, Phán phủ. Đứng đầu
cấp châu là Tri châu, có những châu ở xa (biên giới) nhà Lý đều đặt chức Quan
mục, thường dùng những hào trưởng (hay tù trưởng – TG) tại địa phương để giữ
những chức đó. Những châu có địa thế quan yếu như châu Nghệ An, vua Lý đã
cử tôn thất nhà Lý đến để trấn trị, như dưới thời vua Lý Thái Tông, triều đình đã
cử Uy Minh vương Lý Nhật Quang làm Tri châu coi giữ châu đó trong suốt 16
năm. Đối với những miền biên viễn xa triều đình, một mặt nhà Lý đã dùng chính
sách Ki mi để ràng buộc và một mặt dùng các tù trưởng người địa phương theo
18



chế độ thế tập để cai quản. Vào thời kỳ này, ở châu Qui Hoá và Chân Đăng có
họ Lê, ở châu Lạng có họ Thân, ở châu Vị Long có họ Hà, ở châu Phú Lương có
họ Dương, châu Quảng Nguyên có họ Nùng… Chính sách của nhà Lý là cho
phép họ thực sự được quản lý vùng đất của mình theo chế độ thế tập nhưng phải
thần phục triều đình và phải giữ chế độ cống phú đều đặn.
Ở cấp huyện, như đã nói ở trên là có chức Huyện lệnh. Tại hương không
thấy có tài liệu ghi chép, song có lẽ chức quan làm việc tại đây cũng tương
đương với chức quan ở cấp huyện. Còn chức quan quản lý cấp giáp có lẽ là
Quản giáp và Chủ đô. Những viên quan này kiêm thêm cả nhiệm vụ thu thuế. Vì
vào thời Lý, khi triều đình giao cho quan lại đi thu thuế Hoành đầu, nhà nước đã
cho phép những viên Quản giáp và Chủ đô được cùng với người đi thu thuế,
ngoài 10 phần phải nộp vào nhà nước, họ được lấy một phần, nếu không làm
đúng thì bị xử tội.
Nhìn lại toàn bộ cách thức tổ chức nền hành chính quốc gia thời Lý,
chúng ta có thể thấy được bước tiến đáng kể của vương triều Lý trong việc củng
cố, xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị trong bối cảnh đất nước ổn định về
mọi mặt ở các thế kỷ XI – XII. Đây là đóng góp đáng kể của nhà Lý sau đóng
góp to lớn có ý nghĩa lịch sử trọng đại là việc dời chuyển Kinh đô và kiến lập
Kinh thành Thăng Long.
Phương thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy hành chính quốc gia:
Để điều hành bộ máy hành chính quốc gia, nhà Lý đã chú ý ngay tới việc
xây dựng một hệ thống quan chức theo phong cách riêng của dòng họ Lý. Để
xây dựng được một hệ thống quan chức theo phong cách riêng của dòng họ Lý,
các vua nhà Lý một mặt đã tìm cách đẩy nhanh quá trình quí tộc hóa tầng lớp
quí tộc dòng họ Lý, một mặt đã sử dụng cất nhắc những công thần khai quốc và
cuối cùng là xúc tiến dần dần việc đào tạo đội ngũ quan lại nho sĩ mới, bổ sung
vào bộ máy chính quyền Nhà nước. Phương thức tuyển dụng quan lại dưới thời
Lý được tiến hành bằng ba con đường chính là Tuyển cử, Nhiệm tử và Khoa cử.
Tuyển cử: Buổi ban đầu nhà Lý rất coi trọng phương thức tuyển cử để bổ

sung thêm đội ngũ quan lại mới, vào giúp việc triều đình. Được dự vào hàng
19


tuyển cử đều thuộc tầng lớp trên, từ những người trong thân tộc và những người
có công.
Tuy vậy, chất lượng của đội ngũ quan chức làm việc trong bộ máy hành
chính nhà nước thời Lý khá đảm bảo, vì đội ngũ quan lại thời Lý vừa không
được hưởng chế độ lương bổng thường xuyên của triều đình lại vừa phải trải qua
một chế độ tuyển chọn tương đối qui củ và chế độ khảo khóa nghiêm ngặt. Nhờ
thế, vương triều Lý cũng như thể chế chính trị thời Lý mới có điều kiện tồn tại
vững vàng trong hơn hai thế kỷ, góp phần đưa quốc gia Đại Việt thời Lý phát
triển lên một bước mới.
2.2. Cách tổ chức lực lượng quốc phòng thời Lý
Để tăng cường bảo vệ nhà nước quân chủ cũng như bảo vệ quốc gia Đại
Việt non trẻ, nhà Lý đã xây dựng được một lực lượng quốc phòng khá hùng hậu,
thể hiện ở cách thức tổ chức quân đội của nhà Lý.
Quân đội thời Lý được phiên chế thành hai loại: Quân trong và quân
ngoài. Quân trong còn gọi là cấm quân, hay cấm binh. Loại quân này luôn đóng
ở trong thành và có nhiệm vụ bảo vệ kinh thành. Quân ngoài là quân ở các phủ,
lộ, châu, tức là quân đội ở các địa phương, gọi là lộ quân hay sương quân. Ngoài
ra, vào thời kỳ này còn có thêm lực lượng dân binh, tức hương binh ở đồng bằng
và thổ binh ở miền núi. Dưới thời Lý, cấm binh tinh nhuệ hơn binh lính ở các
phủ, lộ, châu, nhưng khi có chiến tranh thì quân ở các phủ, lộ, châu với số lượng
đông đảo lại là lực lượng đóng góp quan trọng.
2.2.1.Tổ chức quân cấm vệ
Ngay từ những năm đầu triều Lý, để chỉnh đốn lực lượng bảo vệ vua và
triều đình, vua Lý Thái Tổ đã chú ý ngay tới lực lượng cấm quân, năm 1011 nhà
vua đã cho đặt quân Tả Hữu túc xạ (tức quân theo hầu xe vua, gồm 2 đội tả và
hữu). Mỗi đội 500 người60.

Năm 1028, khi vừa lên ngôi, vua Lý Thái tông cũng đã tăng cường ngay
lực lượng cấm quân để bảo vệ kinh thành. Đặt 10 vệ cấm quân là: Quảng Thánh,
Quảng Vũ, Ngự Long, Bổng Nhật và Trừng Hải. Mỗi vệ lại chia ra làm hai Tả,
Hữu trực, đi quanh để bảo vệ cấm thành61. Mỗi vệ quân có 200 người, đều có tả
20


hữu và phải túc trực thường xuyên62. Năm 1051, Vua Lý Thái Tông còn cho đặt
Tuỳ xa long quân ở trong và ngoài thành63 (tức quân theo xe vua). Tả kiêu vệ
tướng quân Trần Nẫm được cử trông coi đội quân này.
Năm 1059, vua Lý Thánh Tông cho định quân hiệu, tên gọi là: Ngự Long,
Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược và Vạn
Tiệp. Mỗi loại quân hiệu này đều chia ra làm: tả và hữu. Cấm quân thì đều phải
thích lên trán ba chữ Thiên tử quân.
Năm 1104, Vua Lý Nhân Tông đã cho định lại binh hiệu của quân cấm vệ.
Tiếp đến năm 1118, lại cho tuyển đại hoàng nam, người nào khoẻ mạnh thì sung
vào làm binh các đô Ngọc Giai, Hưng Thánh, Vũ Đô và Ngự Long, tất cả 350
người.
Năm sau (1119), trước khi đi đánh dẹp động Ma Sa, vua Lý Nhân Tông đã
cho duyệt cấm binh ở các binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm vv… người nào khoẻ mạnh
cho làm hoả đầu ở các đội quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng
Thánh, Vũ Đô, người nào kém hơn thì cho làm binh.
Cấm binh ngoài việc thích trên trán ba chữ Thiên tử quân, còn được xăm
mực hình rồng vào người. Năm 1118, vua Lý Nhân Tông còn ra lệnh “cấm nô
bộc của các nhà dân trong ngoài kinh thành không được thích dấu mực vào chân
như cấm quân cùng là xăm hình rồng ở mình, ai phạm thì sung làm quan nô”.
Quân đội nhà Lý nói chung và cấm quân nói riêng phải tuân theo một kỷ
luật nghiêm ngặt. Năm 1028, khi đem quân đến đánh dẹp quân của Khai Quốc
vương ở phủ Trường Yên, vua Lý Thái Tông đã hạ lệnh cho quân sĩ rằng: “ai
cướp bóc của cải của dân thì chém”. Quân lính mà bỏ trốn cũng bị phạt rất nặng.

Năm 1042, triều đình có chiếu chỉ rằng: “các quan chức đô (chức quan chỉ huy
quân cận vệ), ai bỏ trốn thì phạt 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ và xử tội đồ.
Các quân sĩ trốn vào núi rừng và đồng nội cướp của người thì xử 100 trượng,
thích vào mặt 30 chữ. Người coi trấn trại mà bỏ trốn thì cũng phạt như thế ”.
Năm sau (1043), triều đình lại tiếp tục xuống chiếu rằng: “quân sĩ bỏ trốn quá
một năm, xử 100 trượng, thích vào mặt 50 chữ, chưa đến 1 năm thì xử theo mức

21


tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì cho về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử
trượng như thế và thích vào mặt 10 chữ”.
Cấm quân thời Lý có vai trò quan trọng hơn quân ở ngoài các châu, lộ.
Ngoài nhiệm vụ bảo vệ kinh đô mới của quốc gia Đại Việt trong đó có nhà vua
và hoàng tộc, cấm quân còn là lực lượng chủ yếu để dẹp trừ bạo loạn, đặc biệt là
các sự biến cung đình. Vì cấm quân đóng vai trò quan trọng như vậy nên vào
thời Lý cấm quân được hưởng chế độ lương lộc của triều đình. Cấm quân cứ
mỗi năm mỗi người được cấp 10 bó lúa. Ngày Khai hạ (mồng 7 tháng giêng)
hàng năm mỗi người được cấp 3 tiền và một tấm vải nhỏ. Ngày tết Nguyên Đán,
trong lễ đại triều hội, ban ăn thì có các thứ bánh tây, cá mắm và cơm gạo nếp
cái. Lương bổng thì đều cấp bằng gạo tẻ.
2.2.2. Tổ chức quân ở các phủ lộ châu
Ngoài việc tăng cường lực lượng quân chính qui bảo vệ kinh thành và
chính quyền quân chủ, nhà Lý còn chú ý tăng cường lực lượng quân đội đóng ở
các phủ, châu, lộ do các trấn thủ chỉ huy.
Quân đội loại này dưới thời Lý không có số lượng nhất định. Dân đinh cứ
đến tuổi hoàng nam (18 tuổi) và đại hoàng nam (20 tuổi) là phải ghi vào sổ vàng
và phải có nghĩa vụ vào quân đội. Quân đội ở các phủ, lộ, châu được chia làm
hai hạng. Binh lính ở các châu miền xuôi gọi là chính binh. Binh lính ở miền
thượng du và các châu xa gọi là phiên binh. Phiên binh được chia thành từng đội

riêng không cho lẫn lộn với chính binh.
Từ thời Lý Thần Tông (1128 – 1138), nhà vua đã đặt lệ cho quân lính các
lộ chia nhau phục dịch mỗi phiên một tháng, hết hạn lại trở về làm ruộng, để
phiên khác ra thay gọi là chế độ ngụ binh ư nông. Lực lượng chính của quân đội
ở các châu lộ hay là quân ngoài vào thời Lý phần lớn đều xuất thân từ nông dân
các làng xã. Nên với chính sách ngụ binh nông của nhà Lý, những nông dân mặc
áo lính khi hữu sự họ sẵn sàng ra trận, khi hết chiến tranh, họ lại trở về với đồng
ruộng của mình. Vì thế chỉ có cấm binh mới được hưởng chế độ lương lộc của
triều đình, còn quân các phủ, châu, lộ thì phải tự túc. Sách Lịch triều hiến
chương loại chí, mục Binh chế chí cũng nói rõ rằng “ngoại binh thì không có
22


lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để
tự cấp”. Trong sách Việt sử tiêu án Ngô Thì Sĩ cũng đánh giá cao về chế độ “tự
túc binh cường”này của nhà Lý “Chế độ binh lính của nhà Lý…mỗi tháng lên cơ
ngũ một lần gọi là đi canh, hết hạn canh lại về làm ruộng, quân không phải cấp
lương…không cần phí tổn nuôi lính mà có công hiệu dùng sức lính, cũng là chế
độ hay”.
2.2.3. Phép chọn lính
Để có được một lực lượng quân đội hùng hậu bảo vệ đất nước và
vương triều, nhà Lý đã đề ra phép tuyển chọn binh lính bằng cách cho kiểm soát
hộ tịch thật là nghiêm ngặt. Dân đinh đến 18 tuổi đều phải biên tên vào sổ bìa
vàng, gọi là hoàng nam, đến 20 tuổi thì gọi là đại nam (hay đại hoàng nam). Nhà
Lý qui định, ai nuôi tư nô chỉ được nuôi những người chưa đến tuổi hoàng nam.
Người nào nuôi giấu những hạng hoàng nam, đại nam thì phải phạt tội. Năm
1043, vua Lý Thái Tông xuống chiếu cho các quan chức đô( quan chức đô –
quan giữ việc cai quản quân cấm vệ), cứ ba người cùng được nuôi một người
làm gia nô, nếu người nào nuôi ẩn giấu một đại nam thì cả ba người cùng phải
tội. Để bảo vệ đại hoàng nam một lực lượng quan trọng sung vào quân ngũ, vua

Lý tiếp tục “xuống chiếu cho các quan chức cứ 3 người cùng đảm bảo cho một
người, nếu có ai chứa giấu đại nam thì ba người bị tội cả”76. Sau đó, năm 1083,
vua Lý Nhân Tông còn cho kiểm soát lại số hoàng nam, định làm ba bậc (Đại
hoàng nam, Hoàng nam và Tiểu hoàng nam)77. Sách Toàn thư ghi cụ thể hơn là
năm 1083 vào “mùa xuân, vua thân duyệt các hoàng nam định làm 3 bậc”. Nhờ
có cách kiểm soát dân đinh chặt chẽ nhà Lý mới tiến hành tuyển dân vào lính
được thuận tiện.
Năm 1160, vua Lý Anh Tông sai Tô Hiến Thành và Phí Công Tín
tuyển dân đinh, người nào mạnh khoẻ thì sung vào quân ngũ và cho chọn các
tướng hiệu, người nào thông thạo binh pháp, am tường võ nghệ thì chia cho cai
quản.
Đến đời vua Lý Cao Tông (năm 1179), triều đình lại cho tuyển các
đinh nam, người nào mạnh khoẻ sung vào quân ngũ .
23


Tuy nhiên, vào thời Lý và cả thời Trần sau đó, phép tuyển binh cụ thể
ra sao chưa thể biết rõ. Nói chung, người nào trúng tuyển thì sung vào quân ngũ,
người hạng kém thì biên tên vào sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn cũng không
nhất định và bao nhiêu đinh lấy một lính cũng không rõ82.
Với việc xây dựng lực lượng quân đội và cách tuyển chọn như trên,
nhà Lý đã có được một tổ chức quân đội khá vững mạnh. Khi bàn về nền binh bị
qua các thời đại, Phan Huy Chú đã viết trong sách Lịch triều hiến chương loại
chí, mục Binh chế chí rằng: “Cái chiến công dẹp quân Chiêm, phá quân Tống
(Lý Thái Tông dẹp quân Chiêm Thành, Lý Nhân Tông phá quân Tống), cái oai
hùng hai lần đánh bại quân Nguyên (Trần Nhân Tông hai lần phá quân Nguyên),
cũng đủ cho biết cái binh lực của hai đời cường thịnh thế nào”.
Quân đội thời Lý có hai bộ phận là: quân bộ và quân thuỷ. Quân bộ có
các binh chủng: bộ binh, tượng binh, kỵ binh và lính cung nỏ. Quân thuỷ có
những đội thuyền lớn như chiến hạm và thành thạo thuỷ chiến, từng hành quân

sang đất Tống trong chiến dịch “tiên phát chế nhân”của Lý Thường Kiệt
2.3. Xây dựng nền nền pháp chế quốc gia
Cùng với việc xây dựng lực lượng quốc phòng, bảo vệ quốc gia Đại
Việt non trẻ và tăng cường sức mạnh cho nhà nước quân chủ, nhà Lý cũng đã
chú ý tới nền pháp chế của đất nước. Nền pháp chế của quốc gia Đại Việt thời
Lý được hình thành với việc ban hành bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử,
đó là bộ Hình thư. Vào năm 1042, vua Lý Thái Tông sai quan Trung thư san
định các luật lệnh cũ và châm chước thói tục trong dân gian biên soạn thành bộ
Hình thư. Về việc này biên niên sử đã ghi cụ thể rằng: “Trước kia, việc kiện tụng
trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc
nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai
Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra
môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để
cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện.
Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng”86.

24


Bộ Hình thư ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong đời sống
pháp luật của đất nước. Vì trước đó vào thời Đinh và Tiền Lê, nhà nước chưa có
một hệ thống pháp luật. Khi bộ luật được ban hành giúp cho việc xử án trong
nước được thuận lợi và rõ ràng. Nên cùng lúc ban bố bộ luật, vua Lý đã cho đổi
niên hiệu là Minh Đạo và cho đúc tiền mang niên hiệu Minh Đạo87.
Hình thư thời Lý – bộ luật thành văn đầu tiên được soạn gồm 3 quyển
nhưng đến nay đã bị thất truyền. Tuy bộ luật không còn, để tiếp cận với từng
luật định nhưng qua nhiều pháp lệnh còn ghi lại trong biên niên sử, chúng ta
cũng có thể hình dung phần nào về tính chất của nền luật pháp thời Lý.
Tháng 11 năm 1042, ngay sau khi ban bố Hình thư, nhà Lý đã có
những điều luật qui định bổ sung về việc chuộc tội cho những đối tượng là

người già và trẻ em, người đau yếu và những thân thuộc của nhà vua, bao gồm
“những người từ 70 tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở
xuống và những người ốm yếu cho đến những thân thuộc của nhà vua để tang từ
9 tháng, 1 năm trở lên, phạm tội thì cho chuộc, nếu phạm tội thập ác thì không
được theo lệ này”. Năm 1071, lại qui định thêm về mức nộp tiền chuộc là
“người được nộp tiền chuộc tội phải tuỳ theo tội nặng hay nhẹ mà bắt nộp tiền
nhiều ít khác nhau”.
Đối với nhà nước quân chủ cũng như lợi ích của tầng lớp quí tộc quan
liêu, luật pháp thời Lý luôn đứng ra bảo vệ. Nhà Lý đã ban hành những điều luật
nghiêm ngặt bảo vệ nơi ở và làm việc của vua và triều đình, như khu vực Hoàng
thành, cung điện… Năm 1060, vua Lý Thánh Tông ban lệnh cấm “lính Ngự
thuyền hoả, Củng thánh hoả, Tuỳ long hoả và bọn nhà bếp không được ra vào
thềm Ngự, không được nói chuyện với bọn tiểu chi hậu và đưa tin tức, trao đồ
vật, đi lại với nhau. Kẻ nào trái lệnh bị tội chết, gặp khi xá tội cũng không được
tha”. Năm 1150, vua Lý Anh Tông xuống chiếu “cấm bọn hoạn quan không
được tự tiện vào trong cung, ai phạm thì bị tội chết. Nếu canh giữ không cẩn
thận để người khác vào cung cũng bị tội như thế”. Đối với các quan làm việc
trong triều, cũng có lệnh cấm “không được đi lại nhà các vương hầu, ở trong
cung cấm không được hội họp nhau năm ba người bàn luận chê bai, ai phạm thì
25


×