MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cách mạng nước ta, cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo
quản lý nhà nước nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của đất nước. Trong điều kiện hiện nay, trước những biến động lớn lao
đầy phức tạp trên thế giới, cũng như yêu cầu phát triển của đất nước, vai trò
này càng trở nên to lớn hơn bao giờ hết.
Để lãnh đạo quản lý nhà nước thúc đẩy đất nước phát triển theo
mục tiêu Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, người cán bộ lãnh đạo, quản lý
phải có cả đức lẫn tài trong đó đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng:
"Người cán bộ cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [32, 253].
Sau hơn 10 năm đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo số
đông cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước luôn trau dồi và giữ vững được phẩm
chất đạo đức cách mạng: yêu nước, yêu CNXH, chí công vô tư, có lối sống
lành mạnh, giữ gìn được phẩm chất của người cán bộ cách mạng.
Tuy nhiên, trước những sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường,
không ít cán bộ đã bị thoái hóa, biến chất, sự sa sút về đạo đức của một bộ
phận cán bộ này thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân phát triển mạnh: kèn cựa địa vị,
lợi dụng chức quyền trục lợi, tha hóa về lối sống... Đáng chú ý sự suy thoái về
phẩm chất này trong cán bộ đang có chiều hướng gia tăng, làm xói mòn bản
chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, suy giảm
niềm tin của nhân dân đối với chế độ
. Sự sa sút về phẩm chất đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản
lý, một mặt do sự tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, nhưng mặt
khác cũng phải thấy rằng do trong một thời gian dài chúng ta chưa chú ý đúng
mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, buông lỏng việc quản lý
cán bộ và ít tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển đạo đức.
Vậy việc nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ nói chung,
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng đang là một vấn đề
hết sức bức bách hiện nay.
Chính vì lý do đó, tôi chọn đề tài " Vấn đề nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta " làm đề tài mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào việc
nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức của người cán bộ cách mạng đã thu hút được rất nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu, tuy nhiên đây là vấn đề rất lớn và cũng không
kém phần phức tạp. Vấn đề còn đặt ra trước chúng ta nhiều khía cạnh cần
được tiếp tục làm rõ và đòi hỏi phải có tính thiết thực hơn. Hơn nữa trên thực
tế các luận án, các bài báo... xung quanh đề tài này thường được nghiên cứu
về dưới góc độ xây dựng Đảng, ít nghiên cứu về phương diện triết học, nhất
là chưa đi sâu vào khảo sát một loại cán bộ cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ
- Mục đích: Trên cơ sở những yêu cầu mới về đạo đức và thực trạng
đạo đức của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, luận văn làm rõ sự cấp thiết
của việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước,
từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong điều kiện hiện nay.
- Để thực hiện mục tiêu đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
+ Vạch ra yêu cầu đạo đức cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
nhà nước hiện nay từ đó nêu ra những đòi hỏi khách quan của việc nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong giai đoạn
cách mạng mới.
+ Nêu một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng
cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong điều kiện hiện nay.
2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đạo đức
học Mác - Lênin; các quan điểm đạo đức của Đảng Cộng sản Việt Nam và
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận của nghiên cứu, thực hiện luận
văn này.
- Đề tài kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lôgíc và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, kế thừa có chọn lọc những thành quả nghiên cứu đã có.
5. Những cái mới của tiểu luận
- Tiểu luận bước đầu đã xác định được một số yêu cầu cơ bản về đạo
đức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước trong tình hình hiện nay
- Phân tích góp phần làm rõ thêm một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước ở nước ta nói
chung, ở Kiên Giang nói riêng trong điều kiện hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Với kết quả đã đạt được, đã góp phần nhỏ bé vào nâng cao đạo đức
cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, đáp ứng nhu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
3
NỌI DUNG
Chương 1:
ĐẠO ĐỨC CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
NẢY SINH
1.1. Yêu cầu đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, Quản lý nhà nước
trong giai đoạn hiện nay
1.1.1. Vai trò đạo đức cách mạng của người cán bộ trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
Vấn đề đạo đức của con người đã được mọi giai cấp, mọi xã hội, mọi
thời đại quan tâm. Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy, đạo đức đã xuất
hiện, từ đó dần dần được phát triển hoàn thiện trên cơ sở phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Giống như các hình thái ý
thức xã hội khác, đạo đức bị quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội và luôn
luôn kế thừa và phát triển để tiến bộ không ngừng.
Từ thế kỷ XVI trước công nguyên, Khổng Tử đã khuyên học trò của
mình "Tiên học lễ, hậu học văn". Ông mong muốn xã hội phát triển bình ổn,
gia đình sống hạnh phúc, con người giữ được đạo lý. Để thực hiện được ý
tưởng đó, ông đề ra nguyên tắc vua tôi, ông, bà, cha mẹ, con cháu đều phải
theo luật nước, phép nhà. Tuy không phải là người đầu tiên bàn đến đạo đức,
nhưng công lao chính của ông là đã tổng kết được kinh nghiệm thực tiễn của
đời sống xã hội, trên cơ sở đó xây dựng nên học thuyết đạo đức, trong đó
chứa đựng nhiều nội dung: Đó là ý thức với bản thân, ý thức với xã hội, đặt
các mối quan hệ của con người trong mối tương quan xã hội, cách ứng xử và
hành vi của con người...
Trong xã hội ấn Độ cổ đại, học thuyết của đạo phật do Thích Ca Mâu
Ni sáng lập cũng đã đề cập nhiều đến vấn đề đạo đức. Cái cốt lõi nhất trong
4
hệ thống đạo đức Phật giáo là khuyên con người sống thiện, biết thương yêu
nhau, giúp đỡ nhau, tránh điều ác.
Trong xã hội Hy Lạp - La Mã cổ đại, người ta đề cao những giá trị đạo
đức, như tính trung thực, lòng dũng cảm, sự trong sáng và cao thượng trong
tình bạn, tình yêu... ở nước ta, vấn đề đạo đức được đề cập rất sớm, từ trong
các truyền thuyết, ca dao, tục ngữ... nhân dân ta đã xây dựng những nguyên
tắc, chuẩn mực giá trị đạo đức nhằm giáo dục con người, chăm làm, chăm học
để nâng cao trí tuệ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau và có nhân cách cao đẹp
trong cuộc sống.
Theo quan điểm mácxít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc
biệt, bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, nguyên
tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội.
Nhờ nó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi
ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa
con người với con người, giữa cá nhân với xã hội.
Trong đời sống xã hội loài người có những mối quan hệ rất phức tạp, đa
dạng, chúng tồn tại đan xen nhau: quan hệ huyết tộc, nhân chủng, các giới,
các thế hệ, các giai cấp... mặt khác, do trình độ nhận thức của mọi người cũng
khác nhau, nên về tập tục, lợi ích, văn hóa, trình độ phát triển cũng khác nhau.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển, mỗi xã hội đòi hỏi phải xây dựng những
nguyên tắc, chuẩn mực sống, trên cơ sở đó con người tự ý thức, hành động.
Nói cách khác là những nguyên tắc đó được xây dựng trên cơ sở tính tự
nguyện, tự giác của mỗi người; biến thành ý thức xã hội để con người tự giác
tuân theo.
Đạo đức là nhu cầu tất yếu khách quan, nhưng lại là vấn đề có tính lịch
sử. Xã hội nào cũng cần hình thành những nguyên tắc sống để con người tự
nguyện tuân theo, nhằm đảm bảo trật tự xã hội, duy trì sự tồn tại, phát triển
của xã hội và của cá nhân. Trong cuộc sống, có những nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức chung cho mọi thời đại (sống thiện, yêu quí lao động, trung thực)
5
nhưng vẫn có những nguyên tắc, chuẩn mực chỉ phù hợp với từng giai đoạn
lịch sử nhất định.
Từ xã hội cộng sản nguyên thủy, đến xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, những yếu tố đạo đức tiến bộ
được hình thành và ngày càng phát triển. Đó là sự say mê lao động, sáng tạo,
đề cao tính trung thực, khiêm tốn, phẩm hạnh, danh dự con người, căm ghét áp
bức tàn bạo, ghét sự dối trá, sự tương trợ hợp tác lẫn nhau, nguyên tắc bình
đẳng về lợi ích và lao động. Những yếu tố đạo đức tốt đẹp đó luôn đối lập với
chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, hiếu danh, lười biếng, ăn bám, xa hoa, lãng phí.
Như vậy đạo đức là một hiện tượng phổ biến của xã hội, của mọi thời
đại. Nó tồn tại một cách tất yếu khách quan nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi,
quan hệ ứng xử của con người với nhau trong xã hội. ở đâu có con người thì ở
đó có quan hệ đạo đức, và con người có nhu cầu hướng tới những giá trị đạo
đức, sống thiện, có ích, nhân đạo, làm tròn các nghĩa vụ đạo đức đối với xã
hội. Những giá trị đạo đức khi đã được hình thành ở con người thì có tác động
trở lại xã hội theo chiều hướng tốt đẹp.
Đạo đức còn giúp cho con người hoàn thiện nhân cách của mình. Những
người có nhân cách bao giờ cũng có những phẩm chất đạo đức cao quý. Trong
các tiêu chuẩn giá trị làm nên cái đẹp của con người, sự lựa chọn của nhân
dân cũng hướng đến cái giá trị đạo đức "Cái nết đánh chết cái đẹp", "Tốt gỗ
hơn tốt nước sơn"... Đạo đức là nhu cầu, là cội nguồn của hạnh phúc. Một xã
hội hạnh phúc chính là ở chỗ xã hội đã tạo ra những con người có ý thức, có
năng lực thực tiễn hành động vì người khác. Một người có lòng vị tha hay
giúp đỡ người khác chính là bản thân anh ta đã "làm phúc" cho mọi người và
chính anh ta cũng cảm thấy hạnh phúc. Những người gặp hoàn cảnh éo le sẽ
hạnh phúc biết nhường nào khi được người khác giúp đỡ vô tư. Nhờ có hành
vi đạo đức tốt, con người mới đem lại hạnh phúc cho người khác. Chủ thể đạo
đức khi thực hiện hành vi đạo đức cũng trở nên hạnh phúc. Người giúp đỡ
người khác sẽ cảm thấy cuộc sống của mình trở nên tốt đẹp hơn, có ý nghĩa
6
hơn. Người hạnh phúc nhất là người biết đem lại niềm vui, hạnh phúc cho
người khác.
Lịch sử đã chứng minh đạo đức có vai trò tích cực trong đời sống xã
hội, nó như một động cơ có sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống
lại những cái ác, cái xấu đi ngược lại lợi ích của xã hội; nó giữ gìn và phát
triển những cái tốt, cái thiện, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Trong thời
đại ngày nay, đạo đức càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh vì
hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đạo đức đang tham gia
tích cực vào cuộc đấu tranh vì quyền con người, chống lại chủ nghĩa vô nhân
đạo, bảo vệ môi sinh, chống nghèo đói, tạo ra mọi khả năng và điều kiện
thuận lợi để con người thực hiện nhu cầu của mình. Đạo đức còn là một tiêu
chuẩn giá trị cao của đời sống con người, nó loại bỏ sự thấp hèn, vị kỷ, đê
tiện, xấu xa, hướng con người đi tới cái tốt đẹp, cái thiện và cái tiến bộ. Đối
với mỗi con người, đạo đức là cơ sở, là nền tảng để xây dựng lý tưởng sống,
hướng con người xác định đúng mục đích sống. Trong cuộc sống, người nào
cũng đặt cho mình một câu hỏi: mình sống như thế nào, vì mục đích gì? Tồn
tại để làm gì? Nói chung, người có đạo đức là người sống vì xã hội, sống vì
hạnh phúc của người khác, sống để cống hiến và đem lại lợi ích nhiều nhất
cho xã hội. Điều này không có nghĩa là quên lợi ích cá nhân. Bởi vì, nếu
không có cá nhân thì không thể có xã hội, nên sự tồn tại của cá nhân là một
tất yếu khách quan.
Những điều kiện tồn tại của cá nhân không thể bỏ qua, nhưng đó không
phải là tất cả. Do đó, con người sống phải vì lợi ích chung của xã hội và người
khác, đó là một nhận thức đầy tính nhân văn và cách mạng. Nó thể hiện quan
niệm, tồn tại của con người là mục đích chứ không phải đơn thuần là phương
tiện như những kẻ vụ lợi tham lam. Đạo đức giúp cho con người sáng tạo ra
hạnh phúc. Nếu con người sinh ra chỉ biết hưởng thụ, sống thụ động, không
có trách nhiệm thì của cải tự nhiên sẽ bị nghèo nàn, khô kiệt và khan hiếm
dần đi; những giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần sẽ không nảy sinh, họ luôn
7
nhìn đời bằng con mắt chán chường, cảm thấy sống thừa, vô vị. Còn một khi
con người đã xác định sống phải có lý tưởng để cống hiến tài năng cho xã hội,
thì mọi người sẽ tích cực tự giác làm việc, đem lại những thành quả có ích
cho xã hội, và cũng chính lúc đó con người tạo ra những giá trị cao cho chính
mình. Hạnh phúc chân chính biểu hiện mối quan hệ hài hòa giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội. Mối quan hệ ấy thúc đẩy lẫn nhau, làm cho con người
và xã hội ngày càng phát triển. Đạo đức còn làm cho mỗi người biết giữ gìn
phẩm giá, danh dự sống cao cả, biết hòa nhập, gắn bó với tập thể; tránh tư
tưởng bè phái, cục bộ, vị kỷ, cá nhân và những thói đạo đức giả. Đạo đức đem
lại cho con người niềm lạc quan yêu đời, nó phát huy và khơi dậy ở con người
tính tích cực tự giác, kiên trì khắc phục khó khăn, khát khao vươn tới cuộc
sống chân, thiện, mỹ. Trải qua các quá trình lao động sáng tạo và cải biến xã
hội, con người càng thấy rõ hơn giá trị to lớn của đạo đức.
Đạo đức không chỉ đóng vai trò điều chỉnh ý thức và hành vi của con
người mà còn có tác dụng cảm hóa con người, giúp con người nhận thức và
hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người.
Đồng thời, đạo đức còn làm thức dậy trong mỗi con người những tình cảm tốt
đẹp, đó là lòng nhân ái, tính trung thực thẳng thắn. Cùng với sự tiến lên của
xã hội, đạo đức sẽ có mặt ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nó giúp con
người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội, đánh giá tư cách,
ý thức và hành vi của bản thân mình, làm cho hoạt động của con người phù
hợp với lợi ích của xã hội, của cộng đồng. Xã hội muốn ổn định và phát triển,
đòi hỏi phải xây dựng những chuẩn mực đạo đức để giúp cho con người điều
chỉnh hành vi của mình nhằm đáp ứng những yêu cầu chung của nền đạo đức
xã hội. Chế độ xã hội nào cũng chú ý quan tâm đến cán bộ, vì nó liên quan
đến vận mệnh và sự hưng thịnh của mỗi chế độ, mỗi quốc gia. ở nước ta,
trong các thời kỳ cách mạng, cán bộ luôn là vấn đề nổi lên hàng đầu và giữ
một vai trò hết sức trọng yếu. Nó chẳng những có ý nghĩa quyết định đối với
công tác xây dựng Đảng và việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, mà
8
còn là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh
của Đảng, của đất nước và chế độ; vì cán bộ "vừa là người lãnh đạo lại vừa là
người đầy tớ trung thành của nhân dân". Đảng muốn lãnh đạo cách mạng phải
có đường lối chính trị đúng đắn. Nhưng để xây dựng đường lối đúng và làm
cho đường lối đó trở thành hiện thực sinh động trong cuộc sống thì nhất thiết
phải có đội ngũ cán bộ vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [30, 269] và "Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém", cán bộ là cái dây
chuyền của bộ máy nếu dây chuyền không tốt hoặc không chạy thì động cơ dù
tốt mấy thì toàn bộ máy cũng bị tê liệt. Cán bộ là nhân tố quyết định trong
việc thực hiện sự lãnh đạo của Đảng. Kiên trì sự lãnh đạo của Đảng là bảo
đảm thành công sự nghiệp đổi mới, nhưng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng,
ngoài sự tự giác nhận thức, bảo vệ và kiên trì của toàn Đảng và của toàn dân,
thì cán bộ là nhân tố quyết định. Cán bộ là người định ra đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước và vận động tổ chức nhân dân thực
hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra, đưa đất nước ngày càng phát triển và tiến
bộ. Trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ cách mạng cần có một đội ngũ cán bộ
thích ứng, vừa có phẩm chất đạo đức, vừa có năng lực để đáp ứng được sự đòi
hỏi của nhiệm vụ cách mạng.
Hiện nay đất nước ta đang bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi mới, nhưng cũng
có nhiều khó khăn, thách thức mới. Nhiệm vụ cách mạng mới rất nặng nề,
khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ ngang
tầm, có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng cao. Chính vì thế, trong
điều kiện cách mạng hiện nay, đạo đức cần phải được nhấn mạnh trong mỗi
con người, đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức đoàn thể quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, làm cách mạng để cải
tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là
một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ.
9
Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cán bộ phải có đạo
đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang. Vì vậy, người cán bộ có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại cũng không lùi bước. Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng,
của giai cấp, của dân tộc người cán bộ sẽ không ngần ngại hy sinh lợi ích của
cá nhân mình. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng
không tiếc. Trong mọi hoàn cảnh khi thuận lợi, thành công cũng như lúc gặp
khó khăn gian khổ họ luôn thể hiện tinh thần "Lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ"; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Họ ra sức
làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng; đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên lợi ích
riêng của cá nhân mình; hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, gương mẫu trong
mọi công việc, biết hòa mình với quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần
chúng, từ lời nói đến việc làm đều làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
Như vậy, đạo đức không thể thiếu đối với mỗi người và càng không
thể thiếu đối với mỗi cán bộ. Nó giúp cho người cán bộ nhìn đúng, làm đúng.
Đạo đức cách mạng là động lực thôi thúc nội tâm của người cán bộ vượt lên
mọi khó khăn để nâng cao trình độ trí tuệ, không có động lực này thì khó có
thể nâng cao được trình độ cho bản thân, hoặc nếu có thì rất có thể những hiểu
biết và tài năng của họ được sử dụng nhiều khi không đúng mục đích mà Tổ
quốc và nhân dân mong muốn. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống bao
gồm nhiều lĩnh vực, phản ánh gần như toàn bộ những vấn đề quan trọng nhất
của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Nhưng có thể nói, vấn đề đạo đức của người cách mạng được Người
đặt ở vị trí hàng đầu và được nói đến nhiều nhất trong suốt cả cuộc đời hoạt
động cách mạng của mình. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta thấy
Người rất đề cao vai trò của đạo đức. Người coi đạo đức là cái gốc của người
cán bộ. Suốt cuộc đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
10
giai cấp, giải phóng con người, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đạo đức cách
mạng, đạo đức làm người. Người nêu lên những tiêu chuẩn về đạo đức cách
mạng và chính Người là một kiểu mẫu về đạo đức cách mạng. Khi đã trở
thành người Cộng sản, Hồ Chí Minh thấy có trách nhiệm tuyên truyền giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cứu nước đúng đắn cho người cách
mạng Việt Nam. Đồng thời, người truyền thụ đạo đức cách mạng cho họ.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh, ở chương đầu tiên, Người nêu: "Về tư
cách người cách mệnh". Tháng 10 năm 1947, khi Người viết cuốn Sửa đổi lối
làm việc, Người nhấn mạnh đến đạo đức mới, vì chỉ có thực hiện đạo đức mới
thì người cán bộ mới nhận thức đầy đủ ý thức trách nhiệm của mình và hoàn
thành nhiệm vụ của tập thể, của dân tộc, của giai cấp và của loài người. Người
nói: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [34, 252-253].
Trong sự nghiệp cách mạng, một trong những vấn đề Hồ Chí Minh quan tâm
hàng đầu là đạo đức. Suốt đời, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến việc giáo
dục lý tưởng cách mạng và đạo đức cách mạng cho những người yêu nước,
cho thanh niên, cho quần chúng, đặc biệt là cho cán bộ đảng viên. Phải khẳng
định rằng, Hồ Chí Minh không chỉ là người giáo dục đạo đức cách mạng, mà
còn là hiện thân của đạo đức cách mạng đã nêu gương cho toàn Đảng, toàn
dân ta.
Trong quá trình cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm, lo lắng đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý của Đảng bởi vai trò của họ
đối với quần chúng, đối với sự nghiệp cách mạng là rất lớn. Người cho rằng,
người cán bộ cách mạng phải có nhiều ưu điểm, nhiều đức tính tốt, khái quát
lại là phải có đạo đức cách mạng và năng lực làm việc. Một cán bộ lãnh đạo
quản lý tốt phải được xác định trên cơ sở tổng hợp một cách biện chứng giữa
hai mặt đức và tài. Xét trong mối quan hệ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đạo
đức cách mạng của người cán bộ là gốc, vì không có đạo đức cách mạng thì
11
có giỏi mấy cũng không làm được cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của Đảng
và Nhà nước. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rèn luyện đạo đức
cách mạng và năng lực làm việc. Người cho rằng, quần chúng nhân dân theo
Đảng không phải vì cái mác "cộng sản" mà là vì tư cách, đạo đức của người
cán bộ cộng sản. Nội dung chủ yếu của đạo đức cách mạng đó là: xây dựng
chủ nghĩa tập thể xã hội chủ nghĩa, chống chủ nghĩa cá nhân, lao động tự
giác, sáng tạo, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư... những tư tưởng đó của
Người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta. Hồ Chí Minh không phải là
người đầu tiên đề cao vị trí, vai trò của đạo đức. Trước đây hàng chục thế kỷ
Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo đều đã đề cao vị trí của đạo đức, đặc biệt là
Khổng giáo. Khổng Tử là một nhà đạo đức lớn. Ông chủ trương xây dựng
một nền chính trị đạo đức lấy chữ "nhân" làm nền tảng. Hồ Chí Minh đánh
giá cao Nho giáo chủ yếu ở đạo đức học. Người cho rằng "Học thuyết của
Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân". Nhưng đừng
vì thế mà nghĩ rằng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cũng giống như tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử. Hồ Chí Minh chỉ lấy cái hay, cái đúng của Nho
giáo ở chỗ nó đề cao đạo đức nhưng không phải là thứ đạo đức trừu tượng mà
là đạo đức của con người trần gian, đặc biệt là đạo làm người "tu thân" của
Nho giáo là để trở thành người có nhân, có đức. Về mặt nào đó chữ "nhân"
của Nho giáo cũng như quan niệm về đạo đức của Khổng Tử dễ gần với chủ
nghĩa nhân đạo mácxít. Nho giáo đề ra "cần, kiệm, liêm, chính". Hồ Chí Minh
cũng nói tới: Cần, kiệm, liêm, chính, nhưng với một nội dung khác về cơ bản.
Quan điểm Nho giáo đề ra "cần, kiệm, liêm, chính" là chỉ để người khác thực
hiện chứ không phải cho vua, chúa, quan lại phong kiến thực hiện, như Hồ
Chí Minh đã từng có nhận xét. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức
học mà đúng hơn phải nói Người là nhà cách mạng về đạo đức. Người tiếp
thu tất cả những cái hay, cái đúng của Nho giáo về quan điểm đạo đức, song
về cơ bản, Người đã có sự cải tạo lại phát triển lên khiến nó trở thành những
12
giá trị phù hợp với thực tế Việt Nam, với đường lối cách mạng nước ta. Từ đó
ở Người hình thành một hệ thống quan điểm riêng về đạo đức bổ sung cho
quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo thành một triết lý phát
triển lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng cho cách mạng nước ta. Triết lý đạo
đức Hồ Chí Minh là triết lý phát triển hướng về con người, thực hiện sự
nghiệp cách mạng để giải phóng con người, nhất là người lao động bị áp bức,
bóc lột. Đó cũng là triết lý về đạo đức thể hiện sự đoàn kết tất cả mọi người
cần lao trên thế giới để thực hiện sứ mệnh cách mạng cao cả là giải phóng con
người khỏi áp bức bóc lột, khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu, để xây dựng một xã
hội phồn vinh, bình đẳng, dân chủ, văn minh. Phải chăng, cũng từ bài học của
bản thân là nhờ có tấm lòng yêu nước, thương dân được xem như một động
lực lớn, Hồ Chí Minh mới xem đạo đức là cái gốc của người cách mạng, để từ
đó Người đặt vấn đề đạo đức có tầm quan trọng như một triết lý phát triển của
xã hội nói chung, của sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng. ở đây còn có
ý nghĩa sâu xa nữa mà có lẽ chúng ta chưa phải ai cũng đã thấy hết, đó là việc
Hồ Chí Minh không chỉ đặt đối tượng của sự nghiệp cách mạng mà mình theo
đuổi là giải phóng con người, mà quan trọng là chủ thể cách mạng cũng là con
người. Con người nói ở đây không phải là một siêu nhân nào đó có sứ mệnh
giải phóng cho người khác mà chính là người dân, người cùng khổ, người bị
áp bức. Tóm lại, "số phận dân ta ở trong tay ta, văn hóa soi đường cho quốc
dân đi "như Hồ Chí Minh khẳng định là với ý nghĩa đó. Nói văn hóa soi
đường là nói đến tầm trí tuệ của mỗi người, yêu cầu về dân trí, nhưng cũng là
nói đến vai trò của đạo đức. Bởi lẽ, nếu thiếu đạo đức thì dù có văn hóa con
người cũng không làm nên trò gì, hơn nữa, đạo đức mà Hồ Chí Minh đòi hỏi
ở đây là đạo đức cách mạng. Bản chất đạo đức cách mạng đã tiềm ẩn một nội
lực khiến cho con người phải vươn lên không ngừng để thực hiện những hoài
bão của mình. Hồ Chí Minh là một tấm gương như vậy và Người mong muốn
mọi người cũng như mỗi người, nghĩ đến thân phận của mình và số phận của
dân ta thì trước hết phải tự mình nâng mình lên, tự mình phát huy mọi tiềm
13
năng mà mình có được để phụng sự cho nước, cho dân trong đó có bản thân
mình. Hồ Chí Minh được mọi người tôn vinh là siêu nhân và chính Người đã
có nhiều công lao vĩ đại đối với đất nước ta, nhân dân ta và cả thế giới. Thế
nhưng Hồ Chí Minh lại không bao giờ xem mình là siêu nhân. Điều đó chẳng
những xuất phát từ phẩm chất khiêm tốn của Người mà còn xuất phát từ một
quan niệm về triết lý phát triển, xem sự nghiệp cách mạng là công việc của
mọi người, của dân và do dân. Một người dù tài giỏi đến mấy nếu không có
nhân dân cũng không làm gì được. Chỉ có nhân dân mới là nhân tố quyết định
của phát triển. Đó là một quan điểm mới về triết lý phát triển mà không phải
ai cũng thấy, cũng quán triệt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cách
mạng của mình. Đây là một nội dung đạo đức hết sức quan trọng hầu như
chúng ta chỉ thấy rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi lẽ, Hồ Chí Minh không
chỉ nói mà chính Người đã làm như vậy. Bản thân người là một hình ảnh sinh
động của triết lý xem đạo đức như một động lực của phát triển xã hội nói
chung, của sự nghiệp cách mạng nước ta nói riêng. Nhìn lại thực tế lịch sử
của dân tộc, chúng ta có thể thấy rõ chỉ những triều đại nào biết dựa vào dân,
coi dân thực sự là gốc của nước, dân mới là sức mạnh "vừa có khả năng đẩy
thuyền vừa có khả năng lật thuyền", thì triều đại đó sẽ chẳng những đứng
vững được mà còn vượt qua được những sóng gió, giữ cho đất nước được độc
lập, thịnh vượng, nhân dân được tự do. Đó là những tấm gương của Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung và nhiều vị vua hiền, tôi giỏi
khác. Đương nhiên, không chỉ có đạo đức mà phải nói đến tài năng vốn được
xem là một điều kiện cũng có vai trò quyết định trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Song, như Hồ Chí Minh đã từng nói giữa đức và tài thì
đức cần có trước, bởi lẽ, nếu không có đức thì dù có tài cũng không thể làm
gì, thậm chí có tài mà không có đức có khi còn trở thành tai họa cho dân, cho
cách mạng.
Nhìn lại sự nghiệp cách mạng nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám
đến nay, chúng ta càng thấy rõ quan điểm xem "đạo đức là gốc của người
14
cách mạng" của Hồ Chí Minh quan trọng và đúng đắn như thế nào. Có thể
trước đây khi nói đến quan điểm xem đạo đức là gốc của người cách mạng, có
người còn e ngại nghĩ rằng chắc Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của Nho giáo
nên mới đề cao vai trò của đạo đức như vậy. Nhưng đến nay, sau những thực
tiễn sinh động, nhất là sau thời kỳ đất nước đổi mới, phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, đồng thời có sự mở cửa
giao lưu, hội nhập với thế giới chúng ta mới thấm thía với những quan điểm
đúng đắn của Hồ Chí Minh trong việc đề cao vai trò của đạo đức. Không phải
ngẫu nhiên mà trong Di chúc để lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn tiếp tục nhấn
mạnh "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư...
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục
đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên"... Đảng cần phải có kế hoạch
thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân [33, 510-511].
1.1.2. Đặc điểm của cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước, những yêu
cầu đạo đức của họ trong giai đoạn hiện nay
Cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước là gì? Nó khác với những loại cán
bộ khác như thế nào? Đây là những vấn đề chưa thật được giới nghiên cứu
quan tâm. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương
(khóa VIII), khi nói về tiêu chuẩn của các loại cán bộ, Đảng ta đã phân cán
bộ thành bốn loại: cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán
bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý
kinh doanh.
Như vậy ở đây cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước chưa được phân
thành một loại cán bộ riêng biệt trong mối quan hệ với các loại cán bộ khác.
Điều đó chứng tỏ loại cán bộ này vẫn có những đặc điểm chung với các loại
15
cán bộ khác, nhất là cán bộ lãnh đạo Đảng và các đoàn thể nhân dân. Ngay
việc phân biệt hai thuật ngữ "lãnh đạo" và "quản lý" hiện nay cũng đang có
nhiều cách phân biệt và có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho
rằng, lãnh đạo chỉ là một bộ phận, một chức năng của công tác quản lý. Nghĩa
là, quản lý bao trùm trong nó cả công tác lãnh đạo. Đối với nhà quản lý, lãnh
đạo chỉ là một trong những phẩm chất mà thôi. Cũng có quan điểm lại cho
rằng, "lãnh đạo" bao gồm trong nó cả "quản lý", "quản lý" chỉ là một bộ phận
hay một khía cạnh của "lãnh đạo". Theo Từ điển tiếng Việt (1992): "lãnh đạo
là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, đảng viên thực hiện" [42, 540]; còn
"quản lý" - một là: trông coi và giữ gìn theo những yêu cầu nhất định, hai là:
tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định" [42, 789].
Nếu theo cách hiểu trong Từ điển tiếng Việt thì rõ ràng lãnh đạo bao trùm lên
quản lý và quản lý chẳng qua là thực thi một nhiệm vụ nào đó được cấp trên
chỉ đạo, được lãnh đạo. Nghĩa là, quản lý không chỉ là một bộ phận cấu thành
công tác lãnh đạo mà quản lý thực chất là sự triển khai cụ thể của lãnh đạo.
Trong luận văn này chúng tôi không có ý phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý.
Hai thuật ngữ này được dùng đôi khi thay thế nhau trong các văn cảnh tương
thích không phân biệt. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước ở đây chúng tôi
muốn nói tới những người có chức vụ, quyền hạn, sử dụng chức vụ, quyền
hạn mà Nhà nước giao cho để thực hiện những nhiệm vụ của Nhà nước, quản
lý, điều tiết xã hội. Khái niệm cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước có liên quan
tới khái niệm cán bộ công chức Nhà nước. Cán bộ công chức Nhà nước bao
gồm những người trong biên chế, hoặc được tuyển dụng, bổ nhiệm. Họ là
những người hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên, hoặc những người do
bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ hưởng lương từ ngân sách Nhà
nước và làm việc trong các nhiệm sở của Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã
hội; những người là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp đang làm việc trong
các cơ quan quân đội, công an. Như vậy đội ngũ cán bộ, công chức không
phải chỉ có những người làm việc trong các cơ quan hành chính Nhà nước, mà
16
cả những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước khác, miễn là họ có đặc
điểm chung: giữ một công việc thường xuyên, được xếp vào ngạch bậc cán bộ
công chức nhà nước và được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Thực tiễn
lãnh đạo, quản lý nhà nước trong thời gian qua đã khẳng định rằng muốn công
việc Nhà nước được thông suốt, thống nhất, kịp thời, linh hoạt không thể
không cần có một đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp có đủ phẩm chất
và năng lực. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước là những người có chức vụ,
quyền hạn để thực thi quyền lực của Nhà nước. Trong chế độ ta chức vụ
quyền hạn, quyền lực Nhà nước không phải là của bản thân người cán bộ, của
bản thân Nhà nước. Quyền lực Nhà nước vốn là quyền lực công cộng của xã
hội, của nhân dân "trao cho", ủy nhiệm cho. Những người cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhà nước được nhân dân và xã hội "ủy nhiệm" thay mặt xã hội, thay
mặt nhân dân để quản lý xã hội. Xã hội muốn vận động, phát triển đòi hỏi
phải có sự tổ chức và quản lý chặt chẽ. Xét về nguyên tắc và xu thế phát triển
thì mọi thành viên trong xã hội đều tham dự vào quá trình này. Đây là xu thế
tất yếu trong chủ nghĩa xã hội. Nhưng trên thực tế, thực hiện đầy đủ nguyên
tắc này lại là một quá trình lịch sử lâu dài, đòi hỏi quần chúng nhân dân phải
có một mặt bằng dân trí cao và có một trình độ phát triển kinh tế, văn hóa cao.
Lúc đó việc quản lý nhà nước sẽ không còn là "chức năng đặc biệt của lớp
người đặc biệt" nữa.
Trong tình hình hiện nay, nhất là ở nước ta còn rất cần thiết phải có một
bộ máy quản lý chuyên nghiệp bao gồm một đội ngũ cán bộ, viên chức thành
thạo chuyên môn nghiệp vụ quản lý, tận tâm tận lực phục vụ lợi ích chung của
nhân dân, của xã hội. Như vậy cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước vẫn là một
tầng lớp đặc biệt được trao cho những quyền hạn và quyền lực nhất định,
nhưng quyết họ không phải là tầng lớp đặc biệt "có đặc quyền đặc lợi". Sử
dụng chức quyền và việc lợi dụng, lạm dụng chức quyền là hai vấn đề hoàn
toàn khác nhau. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, là Nhà
nước mà tất cả quyền lực của nó đều thuộc về nhân dân. Khi nói về bản chất
17
của Nhà nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc
đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là
công việc của dân. Quyền hành và lực lượng đều ở dân" [34, 199]. Để thể
hiện và thực hiện được bản chất của Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi
người cán bộ Nhà nước phải là "công bộc", là "người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân". Được nhân dân "ủy quyền", "trao cho" do đó Nhà nước, cũng
như cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước là những người có chức vụ, quyền
hạn, có quyền lực trong xã hội và do đó cũng rất dễ dẫn tới sự chuyển hóa từ
chỗ là công bộc, công cụ của nhân dân trở thành "ông chủ" đứng lên trên xã
hội đè đầu cưỡi cổ nhân dân; rất dễ coi quyền lực được ủy quyền là quyền lực
của mình và sử dụng nó nhằm mục đích trục lợi.
Do đó, đối với những cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước bên cạnh
những yêu cầu cần phải có năng lực để thực thi nhiệm vụ, còn đòi hỏi phải có
phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, tận tâm vì tập thể, hết lòng hết sức vì nhân
dân, có tinh thần trách nhiệm cao nhất trước nhân dân. Trong suốt quá trình
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã hết sức quan tâm đến việc
nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ nói chung, cán bộ lãnh đạo quản lý
nhà nước nói riêng. Nói về tiêu chuẩn của người cán bộ, Đảng ta luôn thấm
nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: coi trọng cả đức và tài, trong đó
đức là gốc. Hiện nay đất nước ta đang bước sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh có những thời cơ, thuận lợi mới,
nhưng cũng có nhiều khó khăn thách thức mới. Nhiệm vụ chính trị mới rất
nặng nề, khó khăn và phức tạp, đặt ra rất nhiều vấn đề cho công tác cán bộ,
đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang tầm, có đủ bản lĩnh
chính trị, phẩm chất cách mạng, năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, góp
phần thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
18
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng những yêu cầu của nhiệm
vụ cách mạng mới. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 (khóa
VIII) đã đề ra những tiêu chuẩn chung cho đội ngũ cán bộ là: - Có tinh thần
yêu nước sâu sắc, có tinh thần phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có hiệu quả đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. - Cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý
thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân,
được nhân dân tín nhiệm. - Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, nắm
vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Trong điều kiện kinh tế thị trường
và mở cửa, trước sự cám dỗ của tiền tài, vật chất, trước những đòn tiến công
hiểm độc của các thế lực thù địch, nhiều cán bộ lơi lỏng tu dưỡng, rèn luyện
phấn đấu, bị thoái hóa biến chất về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống... thì
việc tiếp tục nhấn mạnh đức là gốc là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. Từ đại
hội toàn quốc lần thứ VI Đảng ta đã khẳng định quan điểm, đường lối của
Đảng là lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Đạo đức cách mạng được hình
thành và phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đồng thời kế thừa truyền thống đạo đức của dân tộc. Đó là sự kết hợp
giữa bản chất cách mạng của giai cấp vô sản, những tinh hoa của văn hóa, văn
minh nhân loại và những nét ưu việt trong truyền thống đạo đức của dân tộc.
Sự kết hợp đó tạo nên một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng Việt Nam.
Muốn xây dựng được nền đạo đức mới cho toàn xã hội thì trước hết đội ngũ
cán bộ của Đảng và Nhà nước phải là lực lượng tiên phong, là tấm gương cho
toàn thể quần chúng nhân dân. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình thì
mỗi cán bộ phải không ngừng học tập, rèn luyện, trau dồi phẩm chất cách
mạng. Đạo đức cách mạng không phải là những tiêu chuẩn trừu tượng, mà
gắn với yêu cầu đặc điểm của từng thời kỳ cách mạng. Trong thời kỳ đẩy
19
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, những yêu cầu đặt ra về phẩm
chất đạo đức của người cán bộ nói chung và của người cán bộ lãnh đạo, quản
lý nhà nước nói riêng là:
Thứ nhất, Có lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, tin tưởng vào sự
nghiệp đổi mới của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phấn đấu
tích cực góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Phẩm chất này là cái gốc của người cán bộ nói chung và người cán bộ
lãnh đạo, quản lý nhà nước nói riêng, là chuẩn mực và giá trị cao nhất về
đạo đức cách mạng của người cán bộ, nó phải được trở thành tình cảm và ý
chí cách mạng của mỗi người cán bộ. Bởi vậy, sự tự rèn luyện để có được
tình cảm tốt đẹp của bản thân mỗi cán bộ là công việc của chính họ. Làm sao
để trái tim mỗi người cán bộ rung động trước niềm vui của dân tộc cũng như
đau buồn trước cảnh nghèo nàn và lạc hậu của quần chúng nhân dân, coi đó
như niềm vui và nỗi buồn của chính bản thân, gia đình mình. Phải có tình
cảm cách mạng đó thì mới thôi thúc người cán bộ hăng say làm việc, tìm
cách hoàn thành nhiệm vụ. Không có sự say sưa thì không thể có sự tìm tòi
sáng tạo. Nhờ có ngọn lửa nhiệt tình cách mạng mà có sự say sưa với công
việc và sáng tạo trong hành động, tìm kiếm những phương án tối ưu cho
công việc. Bất luận vì nguyên cớ gì mà để ngọn lửa nhiệt tình, lý tưởng hoài
bão tắt đi, chắc chắn không thể có điều kiện để nâng cao và thâu tóm được
tri thức. Giai đoạn cách mạng hiện nay, hơn bao giờ hết cần phải có nhiệt
tình cách mạng một cách bền bỉ, lặng lẽ nhưng lại là sự đấu tranh quyết liệt
với bản thân trước những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, một cơ
chế thường làm triệt tiêu nhiệt tình cách mạng của mỗi người, làm tăng động
lực cho chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, óc vị kỷ. Nhiệt tình cách mạng
của mỗi người cán bộ là biểu hiện của tính nhân văn cao cả. Để bảo vệ con
người chống lại những hành vi "phi nhân tính", người cán bộ không ngần
ngại chấp nhận sự hy sinh. Tình cảm và ý chí cách mạng tạo cho người cán
20
bộ lãnh đạo dũng cảm dám nhìn thẳng vào sự thật, đấu tranh bảo vệ cái
đúng, chống lại cái sai không vì lợi ích, địa vị cá nhân hoặc do sự áp đặt cá
nhân độc đoán nào chi phối.
Thứ hai, Cán bộ phải trau dồi chủ nghĩa tập thể, chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa quan liêu và thói đặc quyền, đặc lợi. Chủ nghĩa tập thể đòi
hỏi mọi người gắn bó đoàn kết để tạo nên sức mạnh to lớn của cách mạng. Sự
đoàn kết gắn bó chặt chẽ đó phải đi liền với sự tôn trọng cá nhân, không lấy
danh tập thể coi thường cá nhân, sáng kiến của cá nhân, xâm phạm nhân cách
cá nhân... Chủ nghĩa tập thể phải tạo điều kiện thuận lợi đúng hướng cho sự
phát triển tiến bộ của cá nhân, cho sự tự do sáng tạo cũng như phát triển cá
tính, nhân cách phong phú của mỗi con người. Trong sự nghiệp đổi mới của
đất nước, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể phải được kết hợp và giải quyết
một cách hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể
theo phương châm "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Phải
kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân, vì nó là thứ bệnh rất nguy hiểm đẻ ra
hàng loạt những căn bệnh khác, như tham ô, hối lộ, hủ hóa, đặc quyền, đặc
lợi, lãng phí của công, công thần địa vị, kéo bè, kéo cách, tự do vô tổ chức vô
kỷ luật, cơ hội, xu nịnh, bợ đỡ, quan liêu, với rất nhiều biểu hiện xấu xa tệ hại
như mệnh lệnh, cửa quyền, giấy tờ, quan cách, hách dịch, gia trưởng, độc
đoán chuyên quyền, ức hiếp quần chúng, đẳng cấp, xa quần chúng, xa thực tế,
vô trách nhiệm, bảo thủ, trì trệ... Chủ nghĩa cá nhân và bệnh quan liêu là kẻ
địch ở bên trong con người "một thứ giặc trong lòng chúng ta". Nó thường ẩn
náu kín đáo, hơn nữa còn được bao che bởi chính chúng ta. Do đó, yêu cầu
mọi người phải kiên quyết chống lại, phải quét sạch nó đi. Muốn củng cố
nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ phải chống chủ nghĩa cá nhân, tham
nhũng, quan liêu. Đây là công việc vừa mang tính cấp bách vừa mang tính cơ
bản trong chiến lược xây dựng và nâng cao chất lượng tổ chức Đảng của mỗi
cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người giữ cương vị trọng trách trong hệ
thống chính trị, trong Nhà nước.
21
Thứ ba, Cán bộ phải gương mẫu, trung thực trong lao động, cần kiệm,
liêm chính, chí công, vô tư. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ,
đảng viên phải: cần, kiệm, liêm, chính, chí công tô tư. "Cần" là cần cù trong
lao động, biết khuyến khích và giúp đỡ người khác làm tốt công việc. "Cần"
trong giai đoạn hiện nay còn phải là tích cực, chủ động, sáng tạo trong công
việc được giao, mang lại hiệu quả cao trong công việc mình đảm nhiệm. Tính
hiệu quả là yêu cầu bức thiết trong điều kiện kinh tế thị trường, nhất là đối với
cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước. Cho nên, "cần" trong giai đoạn hiện nay là
yếu tố không thể thiếu được đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước.
"Kiệm" có nghĩa là không hoang phí thời gian, của cải của mình và của nhân
dân. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm trong sản xuất để mang lại hiệu quả sản
xuất cao. Tiết kiệm trong đời sống, trong sinh hoạt, tránh xa hoa, lãng phí của
cải của cá nhân, gia đình và xã hội. Những điều đó vẫn giữ nguyên giá trị và
vai trò trong điều chỉnh hành vi của cán bộ, đảng viên hiện nay. Tuy nhiên,
cũng phải có sự đổi mới nhận thức, không nên hiểu chữ "kiệm" với nghĩa hạn
hẹp, đòi hỏi cán bộ quản lý phải "thắt lưng, buộc bụng", "nắm cơm với quả
cà" để xây dựng CNXH, cán bộ không được mua sắm và sử dụng những
phương tiện hiện đại...
Cái chúng ta cần đấu tranh, giáo dục đối với cán bộ là lối sống gấp,
sự xa xỉ, lãng phí chạy theo thị hiếu không lành mạnh về văn hóa và đạo
đức. "Liêm" là không tham ô, tôn trọng tài sản của công dân và của nhân
dân. Chúng ta muốn xây dựng thành công CNXH thì trước hết đội ngũ cán
bộ lãnh đạo quản lý nhà nước phải là tấm gương về "liêm". Cán bộ lãnh đạo,
quản lý không nghiêm, vi phạm các thói xấu như tham ô, móc ngoặc, hối lộ,
tư lợi bất minh... thì không mang lại được niềm tin cho quần chúng, làm suy
yếu xã hội. Đây chính là một trong những vấn đề nhức nhối hiện nay ở nước
ta mà Chính phủ xem là một tệ nạn xã hội. Nhiều cán bộ lãnh đạo quản lý
trở thành tội phạm chỉ vì danh lợi bất minh, bất "liêm". "Chính" là việc phải
thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh. Tức là đòi hỏi cán bộ
22
phải có tính thẳng thắn, trung thực, làm theo lẽ phải, đấu tranh chống sự giả
dối, không trung thực, cơ hội, lợi dụng chức quyền làm việc bất minh. Đó
chính là một trong những phẩm chất tư cách tốt của người cán bộ lãnh đạo
quản lý nhà nước. Ngày nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, cán bộ lãnh
đạo quản lý nhà nước càng cần phải được giáo dục, rèn luyện phẩm chất đó.
"Chí công vô tư" trong điều kiện kinh tế thị trường được hiểu với nghĩa
quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người bao giờ cũng gắn với xã hội, không
tách rời, cô lập một cách tuyệt đối khỏi lợi ích xã hội. Hoạt động của cá
nhân phải trên cơ sở nền tảng của xã hội, vì xã hội trong đó có quyền lợi trực
tiếp của bản thân mình. Trong từng nhiệm vụ cụ thể, mọi người phải lấy lợi
ích chung của tập thể, của quốc gia, của dân tộc đặt lên trên lợi ích cá nhân
mình. Cán bộ lãnh đạo quản lý không được vì quyền lợi (nhất là quyền lợi
không chính đáng) của riêng bản thân mình mà vi phạm tới lợi ích tập thể,
lợi ích quốc gia. Chí công vô tư với nghĩa như vậy vẫn phải là nội dung giáo
dục và xây dựng đạo đức cho cán bộ lãnh đạo quản lý nhà nước ở nước ta
hiện nay Thực tế cho thấy, sự hiểu biết kết hợp với nhiệt tình cách mạng là
cơ sở, điều kiện tạo nên hành động đúng đắn của người cán bộ. Chính bằng
hành động, bằng những việc làm cụ thể, bằng tấm gương của mình về cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cán bộ sẽ thuyết phục, quy tụ, tổ chức
được mọi người xung quanh thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Sẽ là giả dối và lý thuyết suông khi cán bộ "nói một đằng làm
một nẻo", nói những điều viển vông trừu tượng mà không chú ý giải quyết
những công việc đời thường. Có người thường dạy dỗ người khác những
điều to tát nhưng khi phải ủng hộ lẽ phải, bảo vệ lợi ích chân chính cho một
con người cụ thể, mà việc đó đụng chạm đến lợi ích, địa vị của mình thì họ
lại né tránh, làm như vậy họ tự đánh mất mình và làm mất đi lòng tin và sự
tín nhiệm của mọi người. Người Việt Nam giàu tình cảm và rất thực tế, họ
coi một tấm gương sáng của người cán bộ, có giá trị gấp trăm, gấp nghìn lần
lời lẽ tuyên truyền đẹp đẽ nhưng lại không thực tế. Phẩm chất đạo đức có
23
sức thuyết phục nhất của người cán bộ hiện nay là tấm gương, là hành vi
gương mẫu, là lòng trung thực của họ. Khi người cán bộ không còn trong
sáng, phẩm chất đạo đức giảm sút, hành động không xuất phát từ trách
nhiệm phục vụ nhân dân, mà đặt quyền lợi của cá nhân lên trên hết, thì tất
yếu dẫn đến hành vi tham nhũng, vụ lợi, vị kỷ, vô trách nhiệm...
Thứ tư, Cán bộ có tinh thần nỗ lực học tập, cần cù, có chí tiến thủ.
Công cuộc đổi mới của đất nước ta là sự nghiệp to lớn và khó khăn, đòi hỏi
mọi cán bộ phải học hỏi nắm vững kiến thức, mà trước hết là kiến thức trong
lĩnh vực hoạt động của mình, khắc phục được chủ nghĩa giáo điều và chủ
nghĩa kinh nghiệm. Đảng ta coi việc nỗ lực học tập, cầu tiến bộ của cán bộ
cũng là một phẩm chất đạo đức cách mạng. Đảng ta cho rằng: "Học tập là
nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành
chế độ. Lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những
thông tin mới, những hiểu biết mới, cũng là biểu hiện của sự thoái hóa" [5,
141]. Nếu người cán bộ ngại học tập, thỏa mãn với những trí thức đã có thì sẽ
dẫn đến sự lạc hậu, không tiên phong về trí tuệ, do đó không đủ khả năng để
lãnh đạo quần chúng nhân dân vượt qua những thử thách mới.
Thứ năm, Người cán bộ phải có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, có ý
thức tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự thống nhất trong Đảng và liên hệ mật
thiết với nhân dân, biết lắng nghe những ý kiến của nhân dân. Người cán bộ
có đạo đức cách mạng là người có ý thức tổ chức kỷ luật cao, không độc đoán
cá nhân, tự cho phép mình cao hơn tổ chức, tự cho phép mình đứng ngoài kỷ
luật. ý thức tổ chức kỷ luật của người cán bộ phải được thể hiện cả trong suy
nghĩ lẫn trong hành động, cả trong cách nói năng lẫn trong giao tiếp ứng xử
hàng ngày; đồng thời phải được thể hiện ở ý thức tự phê bình và phê bình cao.
Có như vậy mới đảm bảo cho Đảng không những thống nhất về tư tưởng,
quan điểm mà còn thống nhất về tổ chức và hành động, làm cho toàn Đảng là
một khối thống nhất.
24
Trong điều kiện đổi mới hiện nay, Đảng đòi hỏi người cán bộ phải nêu
cao tinh thần sáng tạo, song điều đó không có nghĩa là vượt qua các nguyên
tắc, vi phạm các quy chế của Đảng. Cán bộ phải chấp hành nghiêm các chính
sách, pháp luật của Nhà nước, tôn trọng các quy định của cơ quan Nhà nước,
gắn bó và quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, khéo léo tổ chức và
lãnh đạo nhân dân; thành tâm học hỏi quần chúng nhân dân, kiên trì dựa vào
quần chúng, giáo dục và phát động quần chúng thực hiện mọi chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, phải luôn chăm lo đến đời sống của quần
chúng. Thứ sáu, Phẩm chất đạo đức của người cán bộ còn được biểu hiện ở
lòng trung thành với quyền lợi của giai cấp công nhân quốc tế và phong trào
cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới; cách mạng của các nước có ảnh hưởng, tác động lẫn nhau trong mối
quan hệ tương hỗ, các nước đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở bình đẳng,
cùng có lợi và tôn trọng các điều ước quốc tế. Ngày nay, trước những biến
động phức tạp của tình hình quốc tế, thì sự trung thành với chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân và phong trào cách mạng thế giới được coi như là một
phẩm chất cao quý của người cán bộ cách mạng. Các cán bộ lãnh đạo quản lý
nhà nước phải thể hiện được phẩm chất đạo đức đó bằng hành động cách
mạng như phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, tăng cường đoàn
kết với phong trào đấu tranh cách mạng thế giới, làm thất bại âm mưu "diễn
biến hòa bình" của kẻ thù, nhằm góp phần đấu tranh vì mục tiêu của thời đại
hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tóm lại, trong tình hình hiện nay, việc tu dưỡng đạo đức phải là việc là
thường xuyên của người cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước. Việc rèn luyện
đạo đức trong điều kiện thuận lợi thường phức tạp hơn lúc khó khăn; lúc sung
sướng khó hơn lúc gian khổ, trong hòa bình khó hơn trong chiến tranh; đặc
biệt trong tình hình hiện nay khi chúng ta thực hiện xây dựng nền kinh tế thị
trường thì việc rèn luyện nâng cao đạo đức của người cán bộ lãnh đạo quản lý
nhà nước càng khó khăn hơn nhiều. Vì vậy không ai được chủ quan cho rằng
25