Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Quá trình lãnh đạo đổi mới từng phần tiến lên đổi mới toàn diện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.71 KB, 16 trang )

Chơng 2
Quá trình Đảng lãnh đạo đổi mới
từng phần tiến lên đổi mới toàn diện
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta đã trải qua 20 năm ở miền Bắc
(1954 1975), trong điều kiện có chiến tranh, đó là chủ nghĩa xã hội thời chiến. Từ
sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đợc tiến
hành trên cả nớc độc lập, thống nhất, quá trình đó diễn ra nhiều thời kỳ khác nhau. Từ
năm 1975 đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, là thời kỳ Đảng lãnh đạo đổi mới
từng phần tiến lên đổi mới toàn diện đất nớc, đây là thời kỳ có ý nghĩa rất quan trọng
đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
I. Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa thời kỳ 1975 - 1979
1. Đảng lãnh đạo thống nhất nớc nhà về mặt Nhà nớc.
Sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, nhân dân ta làm chủ đất nớc, nhng về
mặt Nhà nớc ở hai miền vẫn còn hai chính phủ, có hai mặt trận và các đoàn thể chính
trị xã hội riêng. Tháng 8 năm 1975. Hội nghị lần thứ hai mơi bốn Ban Chấp hành
Trung ơng Đảng (khóa III) đã quyết định: Hoàn thành thống nhất nớc nhà, đa cả nớc
tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai mơi bốn, tháng 10 năm 1975 ủy
ban Thờng vụ Quốc hội nớc Việt Nam dân chủ cộng hòa hợp phiên đặc biệt bàn việc
thống nhất nớc nhà và cử đoàn đại biểu hiệp thơng với đoàn đại biểu miền Nam.
Tháng 11 năm 1975, ủy ban Trung ơng Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam, ủy ban Trung ơng Liên minh các lực lợng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt
Nam, Hội đồng Vố vấn Chính phủ và đại biểu nhân sỹ, trí thức đã họp hội nghị liên
tịch bàn thống nhất nớc nhà và cử đoàn đại biểu hiệp thơng với đoàn đại biểu miền
Bắc.
Từ ngày 15 đến ngày 21 tháng 11 năm 1975, Hội nghị hiệp thơng chính trị của
hai đoàn đại biểu Bắc, Nam họp tại Sài Gòn ra thông báo khẳng định: Nớc Việt Nam,
dân tộc Việt Nam là một, nớc nhà cần sớm thống nhất về mặt Nhà nớc.
Thực hiện chủ trơng thống nhất nớc nhà về mặt Nhà nớc của Đảng, ngày 25
tháng 4 năm 1976, đã tiến hành Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội chung của nớc Việt


Nam thống nhất.
Từ ngày 24 tháng 6 năm 1976 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976, kỳ họp thứ nhất
Quốc hội của nớc Việt Nam thống nhất đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Quốc hội quyết
định đặt tên nớc ta là nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyết định quốc kỳ,
quốc huy, quốc ca, Thủ đô là Hà Nội, thành phố Sài Gòn đợc mang tên là thành phố
Hồ Chí Minh. Quốc Hội bầu Chủ tịch và các Phó Chủ tịch nớc, Chủ tịch Quốc hội,
Thủ tớng Chính phủ và các thành viên Chính phủ.
Tháng 6 năm 1976, các tổ chức quần chúng: thanh niên, phụ nữ, công đoàn và
Mặt trận Tổ quốc cũng họp hội nghị hợp nhất, thống nhất cơ quan lãnh đạo trong toàn
quốc, hoàn thành thống nhất nớc nhà về mặt Nhà nớc.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976).
Sau khí hoàn thành thống nhất nớc nhà về mặt Nhà nớc, tháng 12 năm 1976,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã
thông qua Báo cáo Chính trị, phơng hớng nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm lần
thứ hai (1976 1980), Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ
Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ơng mới.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm cơ bản của đất nớc khi bớc vào thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Báo cáo chính trị vạch ra đờng lối chung cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nớc ta trong giai đoạn mới là: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát
huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhând ân lao động, tiến hành đồng thời ba
cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật,
cách mạng t tởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt;
đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền văn hóa mới, xây dựng con ngời mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ ngời bóc
lột ngời, xóa bỏ nghèo nèn lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thờng xuyên củng
cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ
quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội".

Báo cáo Chính trị nêu lên đờng lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn cách mạng mới ở nớc ta là: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đa nền kinh tế nớc ta từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công
nghiệp và nông nghiệp cả nớc thành một cơ cấu kinh công nông nghiệp; vừa xây
dựng kinh tế trung ơng, vừa phát triển kinh tế địa phơng phong một cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất, kết hợp phát triển lực lợng sản xuất với xác lập và hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cờng quan hệ phân công
hợp tác, tơng trợ với nớc xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội
chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nớc khác trên cơ sở giữ vững
độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nớc Việt Nam trở thành một nớc
xã hội chủ nghĩa có kinh tế công nông nghiệp hiện đại; văn hóa, khoa học kỹ thuật
tiên tiến; quốc phòng vững mạnh có đời sống văn minh hạnh phúc". Đồng thời, Đại
hội quyết định phơng hớng nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976
1980 là: xây dựng một bớc cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bớc đầu hình
thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nớc mà bộ phận chủ yếu là cơ sở công nông
nghiệp; cải thiện một bớc đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng là Đại hội thống nhất Tổ quốc,
đa cả nớc tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục khẳng định con đờng mà Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta đã chọn, xác định đờng lối chung, đờng lối kinh tế cho cả nớc đi lên
chủ nghĩa xã hội.
3. Đảng chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV trong những năm 1976 1979.
a. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Sau 30 năm chiến tranh giành độc lập dân tộc, tự do cho Tổ quốc, nguyện vọng
thiết tha của nhân dân ta là đợc sống trong hòa bình để xây dựng đất nớc, tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Nhng do sự phản bội của tập đoàn Pôn pốt ở Campuhia, chúng đã thi
hành chính sách cực kỳ phản động ở trong nớc và gây chiến tranh ở biên giới phía
Tây Nam Tổ quốc ta.

Ngày 3 tháng 5 năm 1975 chính quyền Pôn pốt cho quân đổ bộ lên đảo Phú
Quốc và sau đó chiếm đảo Thổ Chu của ta. Tháng 4 năm 1977, họ coi Việt Nam là kẻ
thù số một tiến hành chiến tranh quy mô lớn chống Việt Nam ...
Trớc hành động thù địch của tập đoàn Pôn pốt đối với cách mạng nớc ta, Đảng
và Chính phủ Việt Nam nhiều lần đề nghị hai bên cùng đàm phán để giải quyết bằng
con đờng thơng lợng, nhng họ đã khớc từ.
Để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, từ đầu tháng 12
năm 1977 đến đầu tháng 1 năm 1979, quân và dân ta đã mở chiến dịch lớn đánh đuổi
quân Pôn pốt ra khỏi đất nớc. Đồng thời theo lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân
tộc cứu nớc Campuchia, quân và dân ta đã giúp đỡ nhân dân Campuchia nổi dậy đánh
đổ chính quyền phản động Pôn pốt. Hành động chính đáng của quân tình nguyện việt
Nam một lần nữa thể hiện tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung, vì lợi ích của
hai dân tộc. Ngày 7 tháng 1 năm 1979, Thủ đô Nông Pênh đợc giải phóng, nhân dân
Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Ngày 18 tháng 2 năm 1979, Việt Nam và
Campuchia ký Hiệp ớc hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Theo nội dung Hiệp ớc, Quân
đội Việt Nam tiếp tục ở lại Campuchia để cùng với bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của cả hai nớc,
Việt Nam và Trung Quốc là hai nớc láng giềng có mối quan hệ hữu nghị,
truyền thống lâu đời với nhau. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhng ngời cộng sản và nhân dân hai nớc đã đoàn kết, ủng hộ
giúp đỡ lẫn nhau rất to lớn và có hiệu quả. Đảng, Nhà nớc, nhân dân Việt Nam biết
ơn sâu sắc sự ủng hộ, giúp đỡ của Đảng, Nhà nớc và nhân dân Trung Quốc đối với
cách mạng Việt Nam. Nhng tháng 2 năm 1979, bọn phản động đã gây ra chiến tranh
biên giới phía Bắc, nhân dân ta phải đứng lên chiến đấu giữ vững độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của quân và dân ta có ý nghĩa lịch sử
to lớn, đã kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng với bảo vệ tổ quốc, làm nghĩa cụ quốc
tế cao cả, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, tiếp tục tăng
cờng tình hữu nghị và hợp tác giữa các nớc, góp phần củng cố hòa bình, ổn định ở
Đông Nam á và trên thế giới.

b. Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xác định, đến năm 1980 cơ
bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Đối với xí nghiệp t bản t
doanh cải tạo bằng con đờng công t hợp doanh, xóa bỏ ngay thơng nghiệp t bản chủ
nghĩa, chuyển phần lớn tiểu thơng sang sản xuất. Kết quả cải tạo công thơng nghiệp,
t bản t doanh ở miền Nam trong những năm 1976 1979 nh sau:
Đối với công thơng nghiệp t bản t doanh, đã cải tạo đợc 3.452 cơ sở trong tổng
số 3.560 cơ sở với các hình thức xí nghiệp quốc doanh, công t hợp doanh và xí nghiệp
hợp tác gia công.
Đối với tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp, đã tổ chức đợc 4.000 tổ đoàn
kết sản xuất, thu hút 70% lao động chuyên nghiệp trong các ngành nghề quan trọng.
Đối với thơng nghiệp, đã chuyển gần 5.000 hộ t sản thơng nghiệp và 9 vạn hộ
tiểu thơng sang sản xuất.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp.
Năm 1979 toàn miền Bắc có 4.154 hợp tác xã quy mô toàn xã. Đến năm 1980 quy
mô của một số đội sản xuất đã lớn gấp đôi so với năm 1970. Trong các hợp tác xã đều
hình thành các đội chuyên, thu hút phần lớn lực lợng lao động trẻ, khỏe làm việc theo
chế độ khoán việc, vừa chịu sự điều hành của ban quản trị hợp tác xã, vừa chịu sự
điều động của huyện. Các đội cơ bản phần lớn là lao động nữ và lao động già yếu,
làm việc theo chế độ ba khoán rất chặt chẽ, thu nhập rất thấp. Đó là cách thức đa quy
trình lao động trong công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp nhng không phù hợp với
thực tiễn lúc đó. Mô hình hợp tác xã, tập thể hóa đợc đẩu tới trình độ cao, bộc lộ
những nhợc điểm của nó. Tình trạng thất thoát, mất mắt, t hao tiền vốn, tài sản cố
định trong các hợp tác xã trở nên phổ biến. Tình hình đó làm cho nông dân trễ nải
trong công việc hợp tác xã, hiện tợng ruộng đất bị bỏ hoang, xã viên không thiết tha
với đồng ruộng ra thành thị tìm việc làm ngày càng nhiều ... Từ cuối những năm 1970
đã xuất hiện hiện tợng "khoán chui" ở một số nơi.
Tháng 8 năm 1977 Ban Bí th ra chỉ thị 15 về việc làm thí điểm cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam.
Từ cuối năm 1978 đến cuối năm 1980. phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở

miền Nam đợc đẩy mạnh. Tính đến tháng 7-1980 toàn miền Nam đã xây dựng đợc
1.518 hợp tác xã, 9.350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6% nông dân vào làm ăn tập
thể.
Các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên đến đầu năm 1979 đã căn bản hoàn thành
việc đa nông dân vào làm ăn tập thể dới hai hình thức: hợp tác xã và tập đoàn sản
xuất. ở Nam Bộ đã lập đợc 12.246 tập đoàn sản xuất.
Trong những năm 1976 1980 trên phạm vi cả nớc, đầu t cho nông nghiệp
không ngừng tăng lên (chiếm tỉ trọng từ 19%-23%) nhng năng suất lúa, sản lợng lơng
thực giảm mạnh, không đáp ứng nhu cầu trong nớc. Nhà nớc buộc phải nhập khẩu l-
ơng thực ngày càng lớn.
Về phát triển sản xuất công nghiệp, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng đề ra cho ngành công nghiệp phấn đấu đến năm 1980 đạt các chỉ tiêu sau: 10
triệu tấn than, 5 tỷ KW giờ điện, 2 triệu tấn xi măng, 1,3 triệu tấn phân bón hóa học,
25-30 vạn tấn thép, 450 triệu mét cải, 13 vạn tấn bông ... Trong vài năm đầu công
nghiệp phát triển đều, nhng sau đó tụt dần xuống. Tốc độ tăng bình quân hàng năm
thời kỳ 1976 1980 là 0,6%. Các mục tiêu do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
đề ra đều không đạt. Tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân hàng năm là 1,4%, thu
nhập quốc dân tăng 0,4%, trong khi đó dân số tăng 2,24% một năm.
Nền kinh tế nớc ta thời kỳ 1976 1980 có chiều hớng đi xuống. Từ cuối
những năm bảy mơi của thế kỷ XX, nớc ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã
hội; sản xuất trì trệ, năng suất, chất lợng, hiệu quả thấp; giá cả tăng vọt, đồng tiền
mất giá; đời sống nhân dân, nhất là cán bộ, viên chức nhà nớc, lực lợng vũ trang rất
khó khăn.
Nguyên nhân tình hình trên là:
Về khách quan: Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh để lại hậu quả rất nặng nề. Từ sau năm 1975,
nguồn viện trợ nớc ngoài đối với ta giảm nhiều, tác động không nhỏ đến công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta.
Về chủ quan: Do chúng ta còn lạc hậu về nhận thức, lý luận trong việc hoạch
định đờng lối, chủ trơng chính sách; vừa "tả" khuynh, vừa "hữu" khuynh trong tổ

chức thực hiện; vận dụng kinh nghiệm nớc ngoài một cách máy móc; thiếu tính sáng
tạo; trình độ đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế, nhất là kiến thức kinh tế, trình độ
quản lý xã hội cha theo kịp yêu cầu trong giai đoạn mới.
Thừa nhận khuyết điểm, sai lầm và nguyên nhân của tình trạng trên, một mặt
nói lên Đảng ta đã nghiêm khắc nhìn nhận, đánh giá đúng thực trạng tình hình kinh tế
xã hội của đất nớc. Mặt khắc, cũng chỉ rõ, nếu chúng ta cứ tiếp tục thực hiện theo đ-
ờng mòn, lối cũ, cách mạng sẽ gặp khó khăn, thậm chí thụt lùi hoặc thất bại. Yêu cầu
khách quan đòi hỏi Đảng phải tìm tòi đổi mới cách nghĩ, cách làm để đa cách mạng
nớc ta tiến lên.
II. Đảng lãnh đạo đổi mới từng phần từ năm 1979 đến
năm 1985
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Từ cuối
những năm 70, đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX, cách mạng nớc ta giành đợc
nhiều thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song còn
nhiều khuyết điểm sai lầm, đất nớc lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Yêu
cầu bức thiết đòi hỏi đa cách mạng nớc ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, ổn
định tình hình mọi mặt đa cách mạng tiến lên. Vào thời điểm lịch sử đó, tình hình thế
giới có nhiều biến đổi nhanh chóng, phức tạo, tác động vào cách mạng nớc ta. Đó là
sự phát triển của khoa học công nghệ; sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa t
bản; công cuộc cải tổ, cải cách của các nớc xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành
tựu đạt đợc, còn nhiều khuyết điểm sai lầm, chủ nghĩa xã hội trên thế giới có nguy cơ
sụp đổ, tan rã.
Tình hình trong nớc và thế giới đặt ra đòi hỏi Đảng phải tìm tòi, đổi mới. Từ
năm 1979 đến năm 1985 là thời kỳ đổi mới từng phần, có vị trí rất quan trọng đối với
quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
1. Đảng lãnh đạo đổi mới từng phần từ năm 1979 đến năm 1981.
Mở đầu của quá trình đổi mới từng phần là Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp
hành Trung ơng khóa IV (8-1979), họp bàn về những vấn đề cấp bách về kinh tế
xã hội và sản xuất hàng tiêu dùng. Hội nghị đã có những đổi mới t duy quan trọng,
thể hiện trên những nội dung cơ bản sau:

Trớc hết, hội nghị đã nhìn thẳng vào sự thật, vạch rõ những khuyết điểm, sai
lầm trong lãnh đạo kinh tế: xây dựng kế hoạch tập trung quan liêu, cha kết hợp chặt
chẽ kế hoạch hóa với sử dụng thị trờng, cha sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế,
cha khắc phục sự bảo thủ, trì trệ trong việc xây dựng các chính sách kinh tế cụ thể
Hai là, hội nghị chủ trơng phải ban hành các chính sách phát triển sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, ng nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Trớc hết là sản
xuất nông nghiệp, với các chính sách nhằm ổn định mức nghĩa vụ lơng thực trong 5
năm, phần còn lại bán cho nhà nớc với giá thỏa thuận và đợc tự do lu thông.
Ba là, hội nghị xác định rõ: Phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh, tập thể kể cả t bản t nhân đợc kinh nghiệm hợp pháp để tận dụng mọi khả
năng lao động, cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ quản lý, nhằm phát triển sản xuất.
Bốn là, về cải tạo đối với nông nghiệp ở miền Nam phải nắm vững phơng
châm tích cực và vững chấc, hiện nay phải nhấn mạnh tính vững chắc, chống t tởng
nóng vội, chủ quan, cỡng ép theo mệnh lệnh, làm ồ ạt gây thiệt hại cho sản xuất và
đời sống của nhân dân.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ơng Đảng (khóa IV), đánh dấu bớc
mở đầu của quá trình tìm tòi đổi mới của Đảng về con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nớc ta. Tuy cha toàn diện, đầy đủ nhng đó là bớc mở đầu có ý nghĩa quan trọng. T t-
ởng cơ bản của nghị quyết là "làm cho sản xuất bung ra", khắc phục những khuyết
điểm, sai lầm trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, sử dụng các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh và tập thể để phát triển sản xuất, ổn định cải thiện đời sống nhân dân.
Nghị quyết ra đời đợc nhân dân cả nớc hồ hởi đón nhận, bớc đầu phát huy tác dụng
tích cực. Nhng sau một thời gian thực hiện lại xuất hiện những tiêu cực mới: sản xuất
bung ra ít hơn so với dịch vụ; sản xuất quốc doanh bung ra ít hơn so với sản xuất tập
thể và cá thể; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều giá cả ngày càng tăng cao. Điều đó
chứng tỏ những tìm tòi, đổi mới của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ơng
Đảng khoá IV cha đủ sức tháo gỡ khó khăn do thực tiễn đặt ra, đòi hỏi Đảng phải tiếp
tục tìm tòi, đổi mới.
Thực hiện Nghị quyết Trung ơng sáu, tháng 9 năm 1979, Hội đồng Chính phủ
ra quyết định tận dụng đất đai nông nghiệp hoang hoá để phát triển sản xuất. Tháng

10 năm 1979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xoá bỏ các trạm kiểm soát
không cần thiết, xoá bỏ ngăn sông, cấm chợ. Ngời sản xuất sau khi làm tròn nghĩa vụ
với Nhà nớc có quyền đợc đa sản phẩm d thừa ra trao đổi trên thị trờng. Những chính
sách trên đợc lòng dân, khuyến khích nông dân tận dụng hoang hoá để phát triển sản
xuất. Nhà nớc và nhân dân ngày càng đầu t cao cho sản xuất nông nghiệp. Do đó,
năm 1979 sản lợng lơng thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978.
Trong khó khăn ở một số địa phơng, quần chúng nhân dân mạnh dạn tìm tòi,
đổi mới tìm lối thoát, khoán chui trong các hợp tác xã nông nghiệp, xé rào trong
các doanh nghiệp Nhà nớc xuất hiện, ở những nơi đó sản xuất phát triển, đời sống
nhân dân đợc cải thiện. Nhờ sớm nắm bắt nhu cầu thực tiễn, kịp thời tổng kết thực

×