Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

SKKN kinh nghiệm giúp các em học sinh học tốt môn mỹ thuật THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.73 KB, 25 trang )

PHÒNG GD&ĐT THỊ XÃ BUÔN HỒ
TRƯỜNG THCS NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

Sáng kiến kinh nghiệm
Đề tài:
GIÚP CÁC EM HỌC SINH HỌC TỐT
MÔN MỸ THUẬT THCS

GIÁO VIÊN: ĐỖ THỊ TRÀ MY
MÔN : MỸ THUẬT
TỔ :SỬ-ĐỊA GDCD-NHẠC-HỌA

Năm học 2018-2019


MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài
2. Mục tiêu ,nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn của để tài
5.Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
2 Thực trạng vấn đề vấn đề nghiên cứu
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN MỸ THUẬT THCS
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ mục tiêu chung “Nâng cao tính chủ động, phát huy tính tích cực,
tư duy của học sinh”. Môn Mỹ Thuật ở trường THCS góp phần thực hiện mục tiêu
trên đó là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ , thể chất, thẩm mỹ và
kỹ năng cơ bản để hình thành nhân cách con người, hiểu được cuộc sống và luôn biết
vươn đến cái: Chân - Thiện - Mỹ.
Phần lớn, tầng lớp trí thức là tất cả mọi đối tượng, mọi tầng lớp trong xã hội.
Mỗi lứa tuổi lại có những cách cảm nhận, suy nghĩ và lí giải về cái đẹp khác nhau.
Người lớn có cách cảm nhận logic, còn trẻ em thì có cái nhìn vô tư, trong sáng.
Chúng ta biết rằng: Mỹ Thuật là một trong những môn học đặc thù, giữ vai trò quan
trọng trong giáo dục thẩm mỹ ở trường phổ thông hiện nay. Đó là môn học về cái đẹp,
khơi dậy tư duy sáng tạo trong tâm hồn trong sáng, thơ ngây và đáng yêu của lứa tuổi
thiếu nhi. Dạy nghệ thuật nói chung và dạy Mỹ Thuật nói riêng, không phải là đưa ra
một công thức cứng nhắc để làm, để vẽ mà điều cốt lỏi quan trọng là lối tư duy, tạo
điều kiện cho sự phát triển tưởng tượng, khả năng sáng tạo của trẻ em.
Nhu cầu thẩm mỹ ngày càng cao cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, cho
nên việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp của đại bộ phận nhân dân là vấn đề tất yếu
khách quan, không chỉ là đối với người sáng, nhìn sự vật qua lăng kính màu hồng,
không vướng những nguyên tắc, trăn trở mà tập trung tình cảm, sự yêu thích của
mình vào mỗi bài vẽ.
Đồng thời, đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Những năm qua, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của giáo dục, đặc biệt là chất lượng của nó,
cùng với sự phát triển ngày càng cao của con người về đức dục, trí dục, thể dục thì mỹ
dục cũng không ngừng phát triển và dần có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi
con người và nhất là thế hệ trẻ.
Dạy – học Mĩ Thuật ở trường THCS không phải nhằm đào tạo họa sĩ hay người
làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho các em. Chủ yếu tạo điều

kiện cho các em tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp, vận
dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng học sinh muốn có những


cảm nhận, những cái nhìn đúng không lệch lạc thì cần truyền đạt vốn kiến thức bổ
ích.
Đối với môn học Mĩ Thuật việc truyền thụ kiến thức là một công việc quan trọng.
Qua đây, học sinh hình thành kỹ năng cảm thụ thẩm mĩ và kỹ năng thực hành.
Mặt khác, hiện nay phương pháp dạy học truyền thống “ đọc chép” thụ động
không đáp ứng được lối tư duy sáng tạo, năng động và tích cực của học sinh. Có một
câu nói rằng: “Dù đã dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống nước
được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dù có bắt được chúng ngồi ngay ngắn học
tập nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt được. Chính vì vậy ngoài việc
truyền đạt kiến thức cho học sinh của người thầy, chúng tôi nghĩ rằng mình cần phải
biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh động. Học
sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép.
Vậy làm sao để học sinh thêm hứng thú học tập bộ môn này nên tôi đã nghiên cứu
và làm đề tài: “PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT MÔN MỸ
THUẬT THCS’’
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
a. Mục tiêu:
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, nắm bắt kiến thức của một số giai đoạn lịch sử
trong chương trình mĩ thuật THCS.
- Nắm vững kiến thức cơ bản của lịch sử thông qua những bài học Thường thức
mĩ thuật, biết kết hợp, vận dụng linh hoạt các kỹ năng và tư duy sáng tạo khi học mĩ
thuật cũng như các môn học khác.
- Học sinh biết trân trọng và yêu thích nền nghệ thuật dân tộc nói riêng và lịch
sử dân tộc nói chung.
b. Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu phương pháp dạy và học hiệu quả, phù hợp với các phân môn mĩ

thuật thcs
- Tìm hiểu một số phương pháp dạy
- Tìm hiểu những kĩ năng hoạt động phù hợp
- Tìm hiểu những chi tiết, tình huống lịch sử phù hợp để đưa vào bài học.
- Từ những tìm hiểu trên đưa ra một số ý kiến góp phần giúp học sinh và giáo
viên đi đến những tiết học mĩ thuật đạt hiệu quả hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh từ khối 6 đến khối 9 của Trường THCS nói chung và Trường THCS
Nguyễn Trường Tộ nói riêng.


4. Giới hạn của đề tài
- Phân môn thường thức mĩ thuật trong chương trình sách giáo khoa mĩ thuật
Trung học cơ sở.
- Giới hạn trong một số phương pháp giúp học sinh tìm hiểu lịch sử thông qua
các phân môn mĩ thuật.
5. Phương pháp nghiên cứu.
• Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết (Nghiên cứu qua các văn bản,
chương trình, giáo trình, tài liệu sách báo về phương pháp dạy học môn Mĩ thuật.)
• Phương pháp nghiên cứu thực tiễn :
- Điều tra phỏng vấn tình hình học sinh.
- Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới.
- Tìm giải pháp rút kinh nghiệm.
- Cho HS hoạt động ngoài trời, tham quan, toạ đàm.
- Phương pháp thực nghiệm dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp mà
mình đề ra.
II/ PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Mĩ thuật là một trong những môn học, đặc trưng của môn học là không nhằm

đào tạo hoạ sĩ tương lai hay tạo ra những người chuyên làm về công tác mĩ thuật mà
nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản của cái đẹp để các em tiếp xúc và
làm quen với cái đẹp, cảm thụ cái đẹp, biết vận dụng vào trong cuộc sống hàng ngày.
Hỗ trợ các em ở các môn học khác giúp các em phát triển toàn diện, lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Việc giảng dạy môn Mĩ thuật dân tộc đảm bảo cho các em có thể giải quyết
được các bài tập hàng ngày và hiểu về vẻ đẹp, về nền mĩ thuật truyền thống và hơn
thế nữa đó là giúp các em thêm yêu thích lịch sử và tìm hiểu về lịch sử.
Tìm hiểu lịch sử ta hiểu cội nguồn dân tộc, để tự hào, để biết ơn ông cha ta đã
dựng nước và giữ nước gian khó thế nào. Như thế mọi người dân sẽ cố gắng phấn đấu
để dân tộc mình vẻ vang hơn, phát huy hơn truyền thống dựng nước và giữ nước của
cha ông ta.
Tìm hiểu lịch sử cũng là để phán xét đúng công, tội của từng nhân vật lịch sử,
để dạy lại, kể lại, truyền lại cho đời sau. Nếu không, thế hệ sau sẽ không biết nguồn
cội và sẽ sống buông thả, không còn duy trì những phẩm chất văn hóa, đạo đức tốt
đẹp của dân tộc ta.


Biết lịch sử để vận dụng những cái hay của cha ông ta như Nguyễn Trãi biết
dùng chiến tranh tâm lý vận động toàn dân ủng hộ cuộc kháng chiến chống quân
Minh ( Viết chữ lên lá bằng mật ong, kiến ăn theo tạo chữ: Lê Lợi vi quân, Nguyễn
Trãi vi thần). Sau này chúng ta cũng dùng chiến tranh toàn dân để thắng được giặc
Mỹ.
Hiểu biết lịch sử cũng giúp ta hiểu biết về địa lý, văn hóa của dân tộc như: Phú
Thọ có Đền Hùng, nơi tổ chức Lễ hội quốc gia Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3, Hà Nội có
Văn Miếu Quốc Tử Giám, Nghệ An có Làng Sen quê hương Bác Hồ ,Cồng Chiêng thì
xuất phát ở Tây Nguyên, …
Biết yêu cái đẹp trong thiên nhiên.
Và trên hết, trong việc học tập để dễ dàng tìm hiểu một tác phẩm mĩ thuật nào

đó học sinh phải biết được tác phẩm đó có ở thời điểm nào, tình hình xã hội, kinh tế,
… ở thời đó ra sao học sinh mới có thể hiểu và biết được giá trị thực sự của tác phẩm
đó.
Tuy nhiên, tùy theo từng trình độ nhận thức và năng khiếu của từng em, từng
độ tuổi khác nhau mà giáo viên biết quá trình nhận thức diễn ra ở từng em. Vậy không
thể tác động đến quá trình nhận thức của các cá nhân bằng một biện pháp như nhau.
Có học sinh ta phải tác động từ từ, có học sinh phải vừa trực tiếp và vừa gián tiếp ở
nhiều phía mới nắm bắt được. Có học sinh chỉ cần tác động ít lâu đã nắm bắt ngay
được nội dung bài học. Nếu như không có sự gợi mở gây hứng thú của giáo viên thì
học sinh không có sự ham thích tìm tòi học tập.
Là một giáo viên mĩ thuật, tôi luôn muốn truyền cho các em không chỉ những
kiến thức mĩ thuật mà đồng thời với những kiến thức đó là những kiến thức bổ ích
khác như cách vận dụng phương pháp học của mĩ thuật vào những môn học khác để
mỗi em có thể xây dựng cho mình những phương pháp học tập hiệu quả hơn.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
a. Thuận lợi – Khó khăn
• Thuận lợi :
Mĩ thuật là môn học bổ ích, lý thú và tươi vui, có tính giáo dục đạo đức, thẩm
mĩ cao và là môn học bổ trợ tích cực cho các môn học khác. Vì thế các em đón nhận
tiết học một cách nhiệt tình và hào hứng
+ Quan điểm nhận thức về môn Mĩ thuật :
- Môn Mĩ thuật là môn học nghệ thuật, thu hút rất nhiều học sinh,.
- Cho đến nay các trường đã có giáo viên dạy mĩ thuật, phong trào học Mĩ thuật
ngày càng một sôi nổi, hầu hết các em học sinh hào hứng với môn học và môn học đã
được chú ý.


+ Trang thiết bị dạy học
- Để giảng dạy môn mĩ thuật trong chương trình đào tạo được thành công, điều
này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như : tài liệu, phương tiện, đồ dùng trực

quan, ...
- Có một số đồ dùng cần thiết cho việc giảng dạy Mĩ thuật cho học sinh như :
bộ đồ dùng dạy học các phân môn từ lớp 6 đến lớp 9 sách tham khảo, một số tranh
ảnh về tượng, phù điêu, ...
+ Cơ sở vật chất :
Nhà trường quan tâm đầu tư công nghệ thông tin cho dạy học. Vì thế góp phần
thuận tiện cho việc dạy và học của giáo viên, học sinh. Học sinh lúc nào cũng có đủ
đồ dùng, không bị quên ở nhà.
Khó khăn
+ Về nhận thức :
- Do quan niệm của một số giáo viên, một số bậc phụ huynh ,sự thiếu quan tâm
mua sắm đồ dùng học tập cho học sinh, ... Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
học tập của giáo viên và học sinh gây cho học sinh cảm giác chán nản, không tự tin
làm bài. Trên thực tế điều tra tôi còn thấy có giáo viên giảng dạy bộ môn về phương
pháp sư phạm còn hạn chế, lời nói còn chưa hấp dẫn, lôi cuốn học sinh, trình bày
bảng còn vụng về, lúng túng,... dẫn đến học sinh không lắng nghe, không tập trung
tìm hiểu bài còn mơ hồ, không nắm được mục tiêu của bài học. Điều đó khiến cho các
em không thích thú với bài học, vì thế không thấy được cái hay, cái đẹp và vận dụng
vào cuộc sống hàng ngày.
- Trình độ nhận thức của các em không đồng đều, các em xem bộ môn Mĩ thuật
chỉ là môn phụ nên các em không quan tâm nhiều về môn này và nhất là phân môn
thường thức Mĩ thuật các em càng không chú trọng hơn,,,
+ Trang thiết bị dạy học :
- Trang thiết bị, đồ dùng dạy học môn mĩ thuật nói chung và phân môn thường
thức mĩ thuật nói riêng còn thiếu nhiều, đa phần đều in lại từ SGK, tranh ảnh mĩ thuật
dù có nhưng hạn chế, tranh ảnh hoạ sĩ Việt Nam và mĩ thuật hiện đại Phương Tây hầu
như không có để các em quan sát. Nhất là những bài tìm hiểu về tượng , các tài liệu
liên quan đến mĩ thuật Việt Nam cũng như mĩ thuật thế giới ở thư viện không có vì
vậy phần nào hạn chế những hiểu biết của các em.
- Máy vi tính ở trường có kết nối internet nhưng còn giới hạn học sinh chưa thể

cho các em thoải mái sử dụng nên học sinh không có điều kiện tìm hiểu trên mạng do
đó những thông tin bên ngoài các em vẫn chưa cập nhật đuợc.


- Ngoài ra điều kiện nhà trường còn thiếu thốn như : phòng học chức năng, vật
mẫu cho giáo viên và học sinh, phương tiện, đồ dùng trực quan, Có một phòng học
riêng giúp các em có thể thỏa mái khi nào làm thực hành,thảo luận có thể không ảnh
hưởng đến lớp bên cạnh.
... Vì thế ảnh hưởng lớn đến kết quả học tập và giảng dạy của giáo viên và học
sinh. Bộ môn mĩ thuật là bộ môn yêu cầu phải sử dụng nhiều đến phương pháp trực
quan,theo định hướng phát triển năng lực, tuy nhiên đồ dùng dạy học còn ít, phần lớn
giáo viên dạy phải tự chuẩn bị.
b. Thành công – Hạn chế
• Thành công
- Giúp giáo viên tìm được phương pháp phù hợp dạy các phân môn mĩ thuật.
- Học sinh hình thành thói quen tốt khi học mĩ thuật.
- Học sinh có hứng thú khi đến với tiết học thức mĩ thuật, củng cố cho các em
một số kiến thức về mỹ thuật.
• Hạn chế
- Các kiến thức khó tạo thành một hệ thống kiến thức dẫn đến học sinh giữ
kiến thức không lâu.
c. Mặt mạnh – Mặt yếu
• Mặt manh :
- Học sinh nắm bắt và tiếp thu kiến thức hiệu quả hơn.
- Nâng cao khả năng truyền đạt của giáo viên.
• Mặt yếu:
- Yêu cầu học sinh phải đầu tư nhiều thời gian để tìm tòi, thích nghi mới có thể
đạt hiệu quả. Về phương pháp học nhóm, cần thiết phải đầu tư nhiều thời gian, học
sinh phải luyện tập trong một thời gian mới thích nghi và giờ học mới có hiệu quả.
- Giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian, chuẩn bị đồ dùng trực quan tương đối

phong phú. Trong một tiết dạy – học gợi cảm hứng cho học sinh là điều rất cần thiết
mà không phải người giáo viên nào cũng làm được, sự chuẩn bị tốt sẽ góp thêm phần
nhiều thành công cho tiết dạy – học , cần nhất là hình ảnh phải phong phú, mới lạ,
những hình ảnh bổ trợ và mở rộng phải phù hợp với nhận thức của các em. Việc tự
giáo viên phải chuẩn bị nhiều hình ảnh gây tốn kém nhiều công sức và thời gian.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.
- Tình trạng thầy đọc trò chép hoặc giảng giải xen kẽ vấn đáp, giải thích minh
họa bằng tranh ảnh, dẫn đến học sinh quen lối học thụ động, gây khó khăn cho việc áp
dụng lối dạy hoạt động tích cực.


- Nhiều giáo viên còn lúng túng, thiếu những phương pháp cụ thể, tham khảo,
học tập vận dụng phương pháp dạy học tích cực.
- Việc kiểm tra thi cử vẫn theo lối cũ, chưa khuyến khích cách học tự học, tự
tìm tòi sáng tạo.
- Phương tiện, thiết bị dạy học môn mĩ thuật vẫn còn chưa đáp ứng được yêu
cầu chương trình, còn có thể nêu thêm những nguyên nhân khác, đáng chú ý là giáo
viên chưa giác ngộ ý nghĩa việc đổi mới phương pháp dạy học trong mục tiêu đào tạo
lớp người mới, năng động sáng tạo phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nên chưa quyết tâm từ bỏ thói quen dạy học theo kiểu truyền đạt kiến thức sách vở thụ
động.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Mĩ thuật là môn học nghệ thuật nên khả năng diễn giải hết kiến thức bài học
chỉ mang tính tương đối, giaó viên có thể hướng dẫn, phân tích cho các em hiểu được
phần cơ bản của bài học, nhưng để cảm thụ hết tác phẩm nghệ thuật nào đó còn tùy
thuộc vào khả năng của mỗi em. Cũng giống như khi nhìn vào một bức tranh, có thể
người này thấy là đẹp, nhưng một người khác thì nói rằng chưa đẹp…vì thế, nghệ
thuật, hay môn học nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều vào khả năng và quan điểm nghệ
thuật của mỗi người học, mà nhất là phân môn thường thức mĩ thuật, đòi hỏi người
dạy phải biết linh hoạt kết hợp giữa cách thức giảng dạy môn mĩ thuật với các kiến

thức lịch sử, xã hội của bài học sao cho dễ hiểu, các phương pháp phải phù hợp với
đại đa số các đối tượng học sinh,
Mĩ thuật là môn học trực quan vì vậy phương tiện dạy học chiếm một phần lớn
thành công của tiết dạy. Ví dụ như để giúp học sinh hiểu được một tác phẩm mĩ thuật
nào đó, yêu cầu ở đây không chỉ là khả năng phân tích, diễn giải của giáo viên mà ít
nhất các em phải được nhìn thấy hình ảnh, các thông tin liên quan của tác phẩm mĩ
thuật đó; hay ví dụ như đến một tiết học vẽ tượng của chương trình mĩ thuật lớp 9,
giáo viên không thể tự mình chuẩn bị tượng vì chi phí cao, nguồn mẫu vật khó tìm
được nơi cung cấp và để vẽ được giáo viên chỉ còn cách là cho học sinh xem tranh
ảnh vậy để vẽ được tượng theo yêu cầu bài đề ra thì theo tôi yêu cầu này đã vượt quá
khả năng của giáo viên và học sinh. Tất nhiên là mức độ thành công đã bị hạn chế rất
nhiều. Ông bà ta có câu" Trăm nghe không bằng một thấy" Tôi thấy nó đúng khi vận
dụng vào dạy học môn mĩ thuật. Vậy câu hỏi đăt ra ở đây là gì? Người dạy, người học
phải biết tận dụng tối đa những nguồn nguyên liệu sẵn có làm sinh động tiết học,
người dạy phải gửi những yêu cầu cần thiết của mình lên cấp quản lí, đồng thời là sự
quan tâm đáp ứng kịp thời của các cấp quản lí.
Trên đây là những vấn đề tồn tại trong thực tế giảng dạy, vì vậy tôi đã tìm ra
một số phương hướng nhằm phát triển kĩ năng học phân môn thường thức mĩ thuật


cho học sinh các khối 6,7,8,9 thêm yêu thích và tìm hiểu về lịch sử trong nước cũng
như thế giới.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
- Các giải pháp, biện pháp phải đúng trọng tâm vấn đề nghiên cứu, ngắn gọn,
xúc tích, phù hợp với các đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Học sinh nâng cao khả năng nhạy bén với những tình huống, đặc điểm của
lịch sử mĩ thuật.
- Các giải pháp, biện pháp phải đúng trọng tâm vấn đề nghiên cứu, ngắn gọn,
xúc tích, phù hợp với các đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

- Học sinh nâng cao khả năng nhạy bén với những tình huống, đặc điểm của
lịch sử mĩ thuật.
b.Nội dung và cách thực hiện giải pháp
Xác dịnh mục tiêu bài học
- Kiến thức, kĩ năng cơ bản cần đạt được sau giờ học.
- Những kĩ năng hợp tác rèn luyện cho học sinh.
- Thái độ học tập của học sinh trong giờ học.
Các phương tiện dạy học
- Giáo án được soạn theo phương pháp dạy học mới.
- Tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, tranh ảnh, sách báo tư liệu liên quan
đến bài.
- Bảng phụ hoạt động nhóm, nam châm, phấn màu…
Các phương pháp chuẩn bị
Hướng dẫn cho các em cách chuẩn bị bài ở nhà
Ở tuổi các em việc tìm hiểu tài liệu tự học là việc làm rất cần thiết, tôi cung
cấp cho các em tên một số đầu sách phù hợp với chương trình học của các em để các
em tự tìm hiểu, để làm cơ sở cho các em tìm tòi, sưu tầm thông tin.
Đối với những em có điều kiện lên mạng, tôi cung cấp cho các em một số địa
chỉ các trang web riêng của hội họa Việt Nam và nước ngoài để các em truy cập các
thông tin cần thiết cho bài học của mình.
• Giáo viên phải chuẩn bị bài kĩ lưỡng
Nếu như đối với những bài vẽ trang trí hoặc vẽ tranh đề tài, chúng ta có thể dựa
vào năng khiếu bản thân để hướng dẫn các em thì thường thức mĩ thuật lại mang
phong cách đặc trưng riêng. Đó là tài liệu và hình ảnh liên quan đến bài sẽ mang tính
chất quyết định cho thành công của giờ học. Vì thế giáo viên cần phải sưu tầm những


hình ảnh, những tình huống lịch sử liên quan đến bài từ nhiều nguồn khác nhau. Nắm
rõ và đảm bảo độ tin cậy về thông tin. Đa số đồ dùng dạy học môn thường thức mĩ
thuật đều tự tay chuẩn bị và làm ra. Nhất thiết phải có các loại tranh ảnh, các bức

tranh tiêu biểu, liên quan đến kiến thức chính của bài bởi vì ở lứa tuổi THCS, các em
vẫn còn rất hiếu động và tò mò. Khi giáo viên nêu ra một kiến thức nào đó mà có
tranh ảnh kèm theo thì các em sẽ chú ý đến lời giảng của giáo viên hơn đồng thời các
em cũng tin tưởng giáo viên hơn. Bên cạnh đó việc xen kẽ các hình ảnh vào trong giờ
học sẽ giúp các em đỡ nhàm chán và mệt mỏi.
• Xây dựng kế hoạch giờ học
- Xác định số lượng thành viên nhóm phù hợp với từng phương pháp dạy học
khác nhau. Có thể 1 nhóm là một tổ, là 3-5 em hoặc thực hiện cá nhân. Khi lập nhóm
thực hiện theo tiêu chí bốc thăm hoặc chia theo tổ.
- Tổ chức lớp học sao cho đạt được hiệu quả tiết học theo bài hoặc theo chủ đề.
- Phân công nhiệm vụ các thành viên trong nhóm, trưởng nhóm, người báo cáo,
thuyết trình, người viết bảng phụ….
- Điều khiển thực hiện hoạt động của các thành viên trong nhóm.
- Ngoài ra giáo viên cũng cần phải hình dung những tình huống xảy ra ngoài dự
kiến như thế nào để có biện pháp xử lý.
• Hướng dẫn tiến hành giờ học
- Giải thích các tiêu chí cần đạt được:
- Giải thích nhiệm vụ học tập của học sinh
- Nâng cao hợp tác hoạt động giữa các nhóm.
• Theo dõi và can thiệp
- Giáo viên đi một vòng quanh lớp để xem thử các em đã hiểu yêu cầu hoạt
động và hướng thực hiện hoạt động chưa.
- Giáo viên có thể giải thích thêm nếu các nhóm thắc mắc.
 Hoạt động của học sinh
- Hoạt động nhóm một cách tích cực, thảo luận về nội dung, kế hoạch trong học
tập, vạch ra phương hướng thực hiện kế hoạch đó nhằm đạt kết quả cao nhất.
- Đoàn kết, lắng nghe ý kiến của các thành viên trong nhóm.
- Tuân thủ theo tín hiệu điều khiển của giáo viên cũng như thay phiên nhau làm
nhóm trưởng, thư kí hoặc người báo cáo, thuyết trình.
- Có ý thức thái độ hoạt động nghiêm túc, tích cực.

Quy trình tiến hành các phương pháp dạy học tích cực vào trong các bài Thường thức
mĩ thuật:


• Hoạt động của Giáo viên:
Xác định mục tiêu bài học:
- Kiến thức, kĩ năng cơ bản cần đạt được sau giờ học.
- Những kĩ năng hợp tác rèn luyện cho học sinh.
- Thái độ học tập của học sinh trong giờ học.
Các phương tiện dạy học:
- Giáo án được soạn theo phương pháp dạy học mới.
- Sử dụng đồ dùng dạy học là một phần quan trọng trong một tiết dạy. Vì ngôn
ngữ của mĩ thuật là hình ảnh, là trực quan sinh động cụ thể. Do đó phát huy tối đa
hiệu quả đồ dùng dạy học là một trong những phương pháp đổi mới tốt nhất.
- Bảng phụ hoạt động nhóm, nam châm, phấn màu…
• Kĩ năng hướng dẫn học sinh.
Giới thiệu bài mới:
Vận dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau trong quá trình dạy
Đối với mỗi bài thường thức mĩ thuật, tôi lại áp dụng phương pháp dạy khác
nhau để lôi cuốn các em. Và đặc điểm chung các phương pháp của tôi đưa ra là các
em học sinh là những người tìm và thu thập thông tin còn tôi chỉ là người bổ sung và
quyết định tính chính xác của thông tin đó.
Khi vào bài giáo viên không nên cứ thế là vào đề ngay mà có nhiều cách để vào
đề hấp dẫn nhằm dẫn dắt, lôi cuốn các em vào bài học.
- Cho học sinh quan sát một bức tranh không có tác giả hoặc tên tác phẩm sau
đó yêu cầu học sinh đoán tên tác giả hoặc tên tranh
- Có thể cho các nhóm tự giới thiệu bức tranh mà nhóm mình sưu tầm được sau
đó giáo viên động viên, khích lệ bằng cách cho điểm đối với những nhóm có câu trả
lời hay, sáng tạo, có tinh thần sưu tầm tài liệu để phục vụ học tập.
- Trong những năm gần đây, giáo viên bộ môn Mĩ Thuật ở trường THCS đã

đủ vì thế việc hứng thú tự học, bài học là một việc rất cần thiết trong giờ học Mĩ
Thuật.
Nếu giáo viên gây hứng thú cho học sinh tốt thì sẽ gây cho học sinh đam mê học
tập của mình. Vì việc hứng thú nó đem đến tình huống có vấn đề, sau đó học sinh sẽ
quan tâm đến những vấn đề đó để giải quyết trong suốt quá trình của tiết học, nên việc
gây hứng thú tự cho học sinh học Mĩ Thuật sẽ được nâng cao.
Nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ Buruna nói : “Sự kích thích tốt nhất đối với
học tập là hứng thú đối với tài liệu học tập”.


Trong học tập hay bất kì công việc gì thì hứng thú là một thái độ rất quan trọng,
nó thúc đẩy tiến trình công việc hiệu quả hơn, năng suất và nhẹ nhàng hơn.
Đã là hứng thú , nghĩa là hứng khởi và thích thú đối với môn học. Sự thích thú đó
có thể do hình thức “sướng tai vui mắt” hay những ý nghĩa thi vị của nó trong đời
sống. Những xúc cảm, thái độ chỉ có thể hình thành dưới sự dẫn dắt của người thầy
mà kết quả của nó là hệ quả của rất nhiều yếu tố như: cách tổ chức tiến hành bài
giảng, hình thức hoạt động, công cụ trực quan, phương tiện dạy học, giọng nói và cả
khả năng khuấy động lớp học như một MC của giáo viên…
Tuy nhiên để có thể thực hiên, áp dụng nó vào bài dạy cụ thể thì trước hết chúng
ta phải hiểu được con đường để hình thành nên sự hứng thú. Thứ nhất đó là sự hấp
dẫn một cách tự phát không vì bất cứ lí do gì, trường hợp này trong quá trình giảng
dạy Mỹ Thuật chúng ta có bắt gặp nhưng không nhiều, có lẽ là vì ngôn ngữ của Mỹ
Thuật khá trừu tượng. Thứ hai đó là sự hấp dẫn về hình thức khiến người ta say mê
khám phá dẫn đến nhận thức về bản chất của sự vật, cái này chúng ta thấy nhiều ở
sinh viên các trường chuyên nghiệp. Thứ ba là từ chỗ hiểu được ý nghĩa của đối tượng
mà dẫn đến bị hấp dẫn lôi cuốn , đây là trường hợp mà chúng ta bắt gặp nhiều nhất
trong quá trình giảng dạy.
Song nói gì thì nói kĩ thuật và phương pháp giảng dạy mới đặc biệt quan trọng.
Trước đây , khi còn là sinh viên trong quá trình thực tập , chứng kiến một số bài dạy
của giáo viên và sinh viên, mặc dù có sự chuẩn bị khá đầy đủ nhưng hiệu quả thì chưa

phải là tốt nhất. Lí do là bởi các bạn không tìm cho mình một phương pháp riêng để lý
giải một vấn đề mà hầu hết tất cả đều na ná giống nhau, một bài trình chiếu
PowerPoint đẹp không có nghĩa là nó hiệu quả và gây được hứng thú khi mà các bạn
cứ liền tù tì một mạch từ slide này sang slide khác và kết thúc bằng việc đưa giấy ra
thực hành. Bởi với tôi mục đích của trình chiếu là để hỗ trợ người giáo viên làm sáng
tỏ vấn đề để đưa đến một kết luận nào đấy, có những lúc các bạn phải dừng lại kết
hợp với bảng để lí giải nó, mô phỏng nó. Cũng như không phải các bạn cứ đưa một số
bức tranh ra với một loạt câu hỏi đại loại như: các bức tranh vẽ đề tài gì? Màu sắc ra
sao? Bố cục như thế nào?…và rồi đưa ra kết luận về đặc điểm của một trường phái
nghệ thuật nào đó. Có rất nhiều cách thức để chúng ta thực hiện , một câu hỏi mang
tính cách gợi mở của giáo viên thực tế sẽ khuấy động được tư duy của học sinh và
không khí của lớp học. Nói gợi mở nghĩa là nó sẽ mở ra nhiều câu trả lời ,nhiều ý kiến
khác nhau, định hướng và sắp xếp lại đó là công việc của người giáo viên.
Ví dụ 1: Dạy tiết 26 vẽ tranh đề tài “Ngày tết và mùa xuân”
- Giáo viên phải dẫn dắt vào bài mới ngay từ đầu tiết cũng làm tăng tính hứng thú
trong học tập của học sinh trong giờ học. Nếu dẫn dắt tốt thì sẽ gây hứng thú học tập
của học sinh, có thể cho học sinh hát một bài về ngày tết và mùa xuân hoặc cho học
sinh xem một đoạn clip về không khí ngày tết và mùa xuân…Vì việc dẫn dắt vào bài


nó đem đến tình huống có vấn đề sau đó học sinh quan tâm đến những vấn đề đó để
giải quyết trong suốt quá trình của tiết học cũng như nhớ bài được lâu và được khắc
sâu một cách có khoa học.
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học một cách có hiệu quả cũng làm tăng hứng thú của
học sinh trong tiết học, đồ dùng phải đẹp, dễ nhìn, phù hợp với nội dung bài học và
tình hình địa phương. Đồ dùng có thể là tranh ảnh về đề tài hoặc được trình chiếu trên
máy chiếu đa năng để học sinh cảm nhận. Sau khi giới thiệu bài xong giáo viên cho
học sinh quan sát tranh về đề tài khác nhau và cho học sinh tìm ra đề tài về ngày tết và
mùa xuân thông qua hình thức thi đua giữa các nhóm với nhau.
- Khi học sinh nhận biết tranh đúng đề tài giáo viên cho học sinh hoạt động theo

nhóm để học sinh nhận biết về nội dung cần vẽ, hình ảnh, màu sắc… Hoạt động nhóm
trong giờ học để phù hợp với từng đối tượng học sinh ta có thể phân nhóm theo nhiều
cách khác nhau, mỗi nhóm làm một nhiệm vụ phù hợp với năng lực của mình. Ví dụ:
Những học sinh nào có hứng thú học tập cao thì cho nhóm ấy có nhiệm vụ tìm tòi, đòi
hỏi độc lập, sáng tạo. Nhóm nào yếu thì có nhiệm vụ làm mẫu … hoặc căn cứ vào
trình độ nhận thức ,trình độ học lực có thực của học sinh mà chung ta phân nhóm
nhằm giúp học sinh tích cực học tập . Dựa vào học lực để giáo viên phân cho học sinh
nhưng nhiệm vụ tương ứng . Tất cả những điều đó cũng gây được hứng thú của học
sinh.
- Tổ chức trò chơi để gây hứng thú cho học sinh bằng cách cho học sinh tìm ra
những hình ảnh cần vẽ về đề tài ngày tết và mùa xuân nhóm nào tìm được nhiều sẽ
có phần thưởng. Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi. Trò chơi
học tập không chỉ nhằm vui chơi giải trí mà còn góp phần củng cố tri thức, kỹ năng
học tập cho học sinh. Việc sử dụng trò chơi học tập trong quá trình dạy học nhằm làm
cho việc hình thành kiến thức và rèn luyện kỹ năng của học sinh bớt đi vẻ khô khan,
tăng thêm phần sinh động hấp dẫn.
- Thực hành cũng cần tạo cho học sinh không khí thoải mái không gò ép học sinh
theo khuôn mẫu, các em có thể thoải mái thể hiện ý tưởng của mình.
tư liệu lịch sử…
SGK mới còn tăng tranh ảnh minh hoạ cho bài học đặc biệt ở chương trình lớp
hình ảnh minh hoạ rất nhiều và giáo viên khai thác tranh ảnh đó cũng là cách làm cho
kiến thức bộ môn thêm phong phú và qua tranh ở những phần nội dung bài học, SGK
mới còn nêu ra những câu hỏi nhỏ mang tính nâng cao sự hiểu biết của học sinh. Học
sinh muốn trả lời được câu hỏi này buộc phải đọc toàn bộ nội dung trước đó mới có
thể trả lời được. Giáo viên yêu cầu học sinh soạn bài trước ở nhà từ những câu hỏi
nhỏ như vậy và điều này làm cho học sinh nhớ lâu và biết xâu chuỗi sự kiên.
- Nguyên nhân của tình trạng học kém của học sinh có thể do giáo viên giảng dạy
không sát đối tượng, do học sinh không tự giác tích cực, sự chuẩn bị bài ở nhà chưa



tốt, đôi khi cũng do sự khiếm khuyết về trí tuệ và thể chất. Trong quá trình dạy học ở
phương pháp mới thì học sinh phải chuẩn bị bài trước ở nhà theo câu hỏi của giáo
viên đưa ra hoặc đọc trước nội dung bài học, trong tiết học giáo viên chủ yếu giải
quyết những vấn đã nêu ra đồng thời đặc các tình huống để học sinh thảo luận trả lời.
- Khi tiến hành dạy học theo hình thức hoạt động cả lớp thường là giáo viên đưa
ra vấn đề và đặt câu hỏi cho học sinh . Mục đích của việc đặt câu hỏi cho học sinh về
hiện tượng, sự kiện…câu hỏi đòi hỏi nhớ lại kiến thức cũ có liên quan, đồng thời phải
có những tình huống có vấn đề đòi hỏi mức độ nhận thức cao hơn, tuy nhiên phải biết
sắp xếp chúng từ dễ đến khó. Những câu hỏi dễ giáo viên gọi những học sinh trung
bình, yếu trả lời không nên để có em thụ động.
Lập tiến trình khoa học xây dựng kiến thức:
Các nội dung cơ bản của tiến trình khoa học xây dựng kiến thức bao gồm: kiến
thức cần dạy.
• Phương pháp quan sát
Giúp cho học sinh biết cách quan sát khi đứng trước một tác phẩm hay một đối
tượng thẩm mĩ, quan sát từ tổng thể đến chi tiết. Trên cơ sở quan sát nhận biết tác
phẩm về nội dung và hình thức thể hiện, các em biết phân tích cái hay, cái đẹp trong
tác phẩm. Từ phân tích đến tổng hợp khái quát về tác phẩm và biết cách đánh giá tác
phẩm đó, các em rút ra được bài học có thể áp dụng vào bài vẽ của mình.
Ví dụ: Khi xem tác phẩm “ Bữa cơm ngày mùa thắng lợi” của hoạ sĩ Nguyễn Phan
Chánh.


Học sinh quan sát tác phẩm để thấy được nội dung và hình thức thể hiện. Nội
dung được phản ánh trong tác phẩm hết sức đơn giản, gần gũi với đời sống thường
ngày. Một bữa cơm của một gia đình nông dân có vợ chồng con cái ngồi
quanh một mâm cơm, người vợ đang xới cơm cho con , người chồng và cô con gái
đang ăn. Phía sau là một đống rơm lớn. Màu sắc trong tranh thật giản dị, bằng gam
màu nâu vẽ trên lụa. Sau khi quan sát nhận biết những nét chính của tác phẩm học
sinh biết phân tích nội dung được thể hiện thông qua hình thức của tác phẩm. Để có

được sự phân tích này, kiến thức về bố cục, đường nét, hình mảng, màu sắc trong
phân môn vẽ tranh đề tài sẽ hỗ trợ để các em có thể nhận biết và phân tích.
Ví dụ: Bố cục tranh cân đối và chặt chẽ, các nhân vật được thể hiện tự nhiên
trong các tư thế khác nhau , người đang ăn, người đang gắp thức ăn, người đang chăm
sóc con, các mảng phụ phía sau làm cho bức tranh thêm phần vững chắc . Màu sắc và
bố cục, hình dáng các nhân vật cùng các chi tiết như nổi cơm trắng và đầy, mâm cơm
có nhiều món ăn, mọi người ngồi ăn trong tư thế thư thái, đống rơm lớn, gam màu nâu
ấm áp.
Ngoài các yếu tố về bố cục, màu sắc, hình dáng… giáo viên phải cho học sinh
tìm hiểu và làm quen với chất liệu bởi chất liệu sẽ góp phần tạo nên sự thành công của
tác phẩm. Tất cả những yếu tố đó toát lên nội dung chủ đề của tác phẩm “Bữa cơm
ngày mùa thắng lợi”. Từ đó học sinh khái quát được, cảm nhận được không khí gia
đình thật đầm ấm , no đủ, hạnh phúc và thấy được giá trị nghệ thuật của tác phẩm là
tính chân thực, tính dân tộc sâu sắc. Qua phân tích tác phẩm các em có thể học tập
cách sắp xếp bố cục, cách sử dụng đường nét, đậm nhạt, màu sắc trong bài vẽ của
mình.
- Ngoài kĩ năng phân tích, tổng hợp, đánh giá và áp dụng, cần hình thành và
phát triển ở học sinh kĩ năng tự học, tự nghiên cứu SGK, sưu tầm tư liệu, tranh ảnh…
*Để phát triển kĩ năng này cần phải yêu cầu học sinh đọc SGK, sưu tầm tư liệu
liên quan đến nội dung của bài trên báo, tạp chí,…có thể đưa ra yêu cầu cụ thể bằng
câu hỏi hoặc phiếu giao việc. Ví dụ:
+ Em hãy đọc, ghi tóm tắt nội dung giới thiệu về tác giả Trần Văn Cẩn, Bùi
Xuân Phái,…
+ Em hãy xem và cho biết ý kiến nhận xét của mình về nội dung, hình thức, giá
trị nghệ thuật của các tác phẩm “ Tát nước đồng chiêm”, những bức tranh về phố cổ
Hà Nội, …Em có thể học tập được gì trong những tác phẩm đó?
*Hay giáo viên có thể giao cho 4 nhóm những nội dung liên quan đến bài học,
yêu cầu các em sưu tầm tranh ảnh rồi tạo thành những bài sưu tầm sau đó trình bày
trước lớp



*Khi học sinh nêu nhận xét của mình về các tác phẩm có thể còn phiến diện,
chưa cụ thể hoặc chưa đúng chúng ta đừng vội đưa ra kết luận của mình hoặc điều
chỉnh ý kiến của học sinh mà nên khuyến khích các em phát biểu ý kiến nhận xét của
mình. Như vậy, giáo viên sẽ thu được ý kiến của nhiều học sinh. Trên cơ sở đó, giáo
viên có thể phân tích khả năng tự nhận biết, kĩ năng của học sinh đến đâu và sau đó
giáo viên cần cung cấp, bổ sung thêm kiến thức phát triển kĩ năng cho học sinh.Từ đó
phần nào gây được hứng thú học tập cho học sinh đối với những bài thường thức mĩ
thuật mà từ trước đến giờ các em cho là khô khan và khó tiếp thu nhất trong bộ môn
mĩ thuật.
Ưu điểm:
Với những nhiệm vụ như vậy chúng ta dần dần hình thành và phát triển ở học
sinh kĩ năng tự học, tự nghiên cứu một cách độc lập, sáng tạo. Vào giờ học, giáo viên
tổ chức các hoạt động để học sinh thảo luận trong nhóm và trình bày những hiểu biết
của mình về nội dung bài học đã chuẩn bị. Các em có thể nêu những thắc mắc hoặc
câu hỏi để giáo viên giải thích những điều mà các em chưa rõ. Giờ học sẽ thật sôi nổi
và thú vị nếu các em chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp.
• Phương pháp vấn đáp
Học sinh:
- Dùng các câu hỏi để học sinh suy nghĩ và trả lời về nội dung bài học. Học
sinh được suy nghĩ trước và dự đoán nội dung mà giáo viên sẽ giảng. Các em sẽ
không bị động trong quá trình tiếp thu kiến thức. Qua đó kích thích suy nghĩ sự say
mê tìm hiểu gợi mở để học sinh tự phát hiện những vấn đề mới, liên hệ kiến thức mới
với kiến thức đã học và kinh nghiệm sống của bản thân, từ đó khắc sâu kiến thức đã
học và ứng dụng kiến thức đã học vào thực tế.
- Hình thành ở các em tinh độc lập suy nghĩ tự tin phát huy tính tích cực và
tương tác học tập. Tạo hứng thú học tập, phát triển kĩ năng giao tiếp với bạn bè, thầy
cô.
Giáo viên:
Thông qua vấn đáp giáo viên nắm bắt được khả năng mức độ nhận thức của học

sinh để từ đó có hướng tạo điều kiện giúp đỡ nâng cao chất lượng giáo dục. Qua đó
còn nắm được kết quả của bài dạy để kịp thời điều chỉnh lại phương pháp dạy học cho
phù hợp.
Vậy khi đặt câu hỏi giáo viên phải lưu ý đến cách đặt câu hỏi và cách hỏi. Dựa
trên phép phân loại để đặt câu hỏi theo cấp độ nhận thức, câu hỏi cấp cao và cấp thấp
bởi vì như trường của tôi đối tượng chủ yếu ở đây là đồng bào dân tộc thiểu số, ngôn
ngữ của các em ngoài ngôn ngữ mẹ đẻ thì các em bắt buộc phải sử dụng ngôn ngữ
phổ thông trong trường học để thuận lợi cho việc truyền đạt văn hóa, nên việc tiếp thu


của các em còn hơi chậm so với học sinh trường THCS khác nên tôi sử dụng các câu
hỏi cần hợp lí và vừa với khả năng của các em.
Câu hỏi thấp: Biết, hiểu, áp dụng
Câu hỏi cao: Phân tích tổng hợp đánh giá
Ví dụ:
- Em hãy cho biết bức tranh này của họa sỹ nào?
- Nội dung tranh phản ánh điều gì?
- Em đã bao giờ nhìn thấy cảnh này trong thực tế chưa?
- Hãy phân tích vẻ đẹp trong tranh?
- Em hãy nêu khái quát nội dung hình thức tác phẩm?
- Theo em bức tranh này có giá trị nghệ thuật như thế nào?
Câu hỏi có thể thiết kế ở nhiều dạng khác nhau, khi học sinh trả lời sai không
nên tỏ thái độ bực tức phê phán mà cần tạo ra sự hợp tác cởi mở, khuyến khích sự trau
dồi có thể hỏi lại bằng cách đặt câu hỏi gợi mở
Cần quan tâm tới học sinh ít tham gia phát biểu nhằm khuyến khích động viên
và tăng cường sự tham gia của học sinh trong quá trình học tập tạo sự công bằng trong
lớp học.
Ngoài việc đặt câu hỏi trực tiếp, cần có thể đưa ra yêu cầu cụ thể bằng câu hỏi
hoặc phiếu giao việc thông qua phương pháp làm việc theo nhóm.
• Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ

Phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ là cách tổ chức, hướng dẫn hoạt
động tập thể của học sinh theo từng nhóm nhỏ duwois sự chỉ đạo của giáo viên.
Có thể vận dụng phương pháp dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ qua các
bước:
- Chia nhóm( từ 5 – 6 em), học sinh tự đặt tên nhóm, cử nhóm trưởng.
- Giao nhiệm vụ và hướng dẫn cách làm việc cho các nhóm (phân tích tác
giả, tác phẩm, tượng...)
- Cả nhóm tham gia hoàn thành nhiệm vụ ( thảo luận hoặc phân công việc
cho cá nhân thực hiện ).
- Các nhóm cử đại diện nhóm trình bày kết quả học tập của nhóm mình
- Học sinh phân tích đánh giá kết quả học tập của nhóm khác (đúng, chưa
đúng nội dung, bổ sung...) iaos viên nhận xét, bổ sung, đánh giá kêt quả của
từng nhóm và động viên, khích lệ tinh thần làm việc chung của học sinh.
* Ưu điểm:
Thảo luận nhóm là một phương pháp rất phổ biến nhưng thường gặp hạn chế là
nhóm chỉ có vài em thảo luận và tập trung phân công cho một hai em có khả năng nói


trước lớp. Còn các em còn lại không hoạt động gì cả. Việc bốc thăm người trình bày
sẽ làm cho các thành viên trong nhóm cùng tích cực hoạt động.
• Phương pháp vận dụng các câu chuyện về lịch sử.
Với phương pháp này đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị kỹ kiến thức sẽ
truyền đạt. Phải linh động, ở từng trường hợp cụ thể kể những câu chuyện phù hợp.
Câu chuyện kể phải là lúc tranh thủ thời gian, không làm mất thời gian ảnh hưởng tới
những phần khác của bài học. Lúc ít thời gian thì người kể phải tóm gọn câu chuyện
nhưng vẫn mang tính chắt lọc cao. Lúc nhiều thời gian người kể phải biết cách diễn
giải hợp lí, không dài dòng, rời rạc, câu chuyện phải liền mạch tập trung được sự chú
ý của học sinh. Với phương pháp nay giáo viên la người đóng vai trò chủ đạo, tuy
nhiên trong khi thực hiện phải luôn khảo sát xem học sinh có hưởng ứng câu chuyên
của mình hay không, học sinh đã được nghe câu chuyện đó ở đâu chưa… nói chung

thực hiện phương pháp này giáo viên phải quan sát sự phản hồi của học sinh để có
cách điều chỉnh phù hợp và hoàn thiện hơn khả năng của mình.
Ví dụ:
 Câu chuyện về sự hình thành chùa Một cột .
Chùa được xây dựng để lí giải giấc mơ của vua Lý Thái Tông (1028 – 1054)
mong được kéo dài tuổi thọ. Ngôi chùa được xây dựng giống như một bông hoa sen
vươn lên từ mặt hồ linh chiểu. Cột đá dựng ở giữa ao, trên đặt tòa sen của Phật giống
như giấc mơ của Vua. Năm 1049, Vua đã mơ thấy được Phật bà Quan Âm ngồi trên
toà sen dắt Vua lên toà. Khi tỉnh dậy, nhà Vua kể chuyện đó lại với bầy tôi và được
nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa, dựng cột đá như trong chiêm bao, làm toà sen
của Phật bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong mộng và cho các nhà sư đi vòng
quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ, vì thế chùa có tên Diên Hựu tự Với nghĩa là
phúc lành dài lâu.
 Câu chuyện tại sao ở thời Lý kiến trúc Phật giáo lại phát triển.
Vua Lý Công Uẩn, tự Lý Thái Tổ sinh ngày 12/2 năm Giáp Tuất (8/3/974), tại
làng Cổ Pháp (nay thuộc xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Năm lên 3 tuổi, Lý Công Uẩn được nhận làm con nuôi của nhà sư Lý Khánh Văn; sau
đó đến học ở chùa Lục Tổ của Nhà sư Vạn Hạnh. Lớn lên ông được cử giữ chức chỉ
huy quân Điện tiền, được thăng dần lên chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Năm
1009, nhà Tiền Lê suy thoái, được quần thần nhất loạt tôn kính, Lý Công Uẩn lên ngôi
Vua, tự Lý Thái Tổ sáng nghiệp nhà Lý lúc 35 tuổi.
* Ưu điểm :
Theo tâm lí chung không chỉ học sinh mà hầu hết mọi lứa tuổi đều thích nghe
chuyện kể, chính vì thế phương pháp này rất dễ gây cảm hứng cho học sinh, đồng thời
gây sự tập trung cao độ từ các em vào bài học. Đó là yếu tố hết sức cần thiết trong


một tiết dạy - học. Học sinh có cảm hứng học, bài dễ tiếp thu và kiến thức sẽ được
nhớ lâu hơn, ưu điểm của phương pháp này là tạo các mốc thời gian, học sinh dễ nhớ
và không cần quá nhiều thời gian để cho những kiến thức đó vào vốn kiến thức của

mình.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp.
Để có được giải pháp, biện pháp phù hợp với môn mĩ thuật THCS cũng như phân
môn thường thức mĩ thuật tôi đã dựa vào những điều kiện sẵn có tại trường THCS
Nguyễn Trường Tộ để thực hiện được đề tài này.
• Trang bị cơ sở vật chất phù hợp với đặc thù của bộ môn.
- Tranh , ảnh về các tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Phòng học kê bàn ghế theo mục đích, ý tưởng của bài dạy.
- Trang bị sự hỗ trợ của công nghệ thông tin: máy chiếu ...
• Phối hợp sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học một cách hợp lí,
phù hợp với nội dung từng bài.
Sử dụng các phương pháp như: Vấn đáp, gợi mở, trực quan, luyện tập, thảo luận
nhóm, trò chơi ... nhằm giúp học sinh hiểu và khắc sâu bài học.
• Lồng ghép các phương pháp dạy học tích hợp.
Để học sinh hệ thống được kiến thức, có sự liên hệ giữa các môn học, bổ sung
cho nhau. Có thể đưa âm nhạc, ngữ văn, lịch sử ... vào bài dạy phân môn thường thức
mĩ thuật, bởi nội dung các môn có liên quan một phần nào tới các giai đoạn lich sử
của thế giới và dân tộc ta.
• Ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy.
Ngoài những tranh, ảnh giáo viên thu thập được, giáo viên cần sưu tầm thêm
một số hình ảnh sinh động để trình chiếu bằng máy chiếu. Ngoài ra, giáo viên có thể
đánh máy những câu hỏi thảo luận nhóm, hình ảnh các tác giả, tác phẩm và phóng to
để học sinh dễ quan sát, dễ hiểu, hỗ trợ cho việc giảng dạy đạt kết quả cao.
• Sử dụng phương pháp dạy học tích cực dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
Giúp học sinh chủ động tìm tòi kiến thức, cách thể hiện nhằm phát huy khả
năng sáng tạo của học sinh trong giờ học.
• Tổ chức cho học sinh tham gia vào hoạt động đánh giá nhận xét bài.
Đây là một phương pháp rất hiệu quả để học sinh tự rút ra những nhược điểm
và rút ra kinh nghiệm cho bài học sau.Yêu cầu học sinh tự nhận xét cảm nhận riêng

của mình, tự đánh giá theo cách hiểu của mình để từ đó khắc sâu kiến thức, hiểu được
yêu cầu bài học và rút kinh nghiệm cho bài học sau.


c. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu,phạm vi
và hiệu quả ứng dụng.
Áp dụng các phương pháp, biện pháp dạy thường thức mĩ thuật trên và qua một
số bài học cụ thể, tôi khảo sát và thấy chất lượng học môn mĩ thuật nói chung và phân
môn thường thức mĩ thuật nói riêng của học sinh trường THCS Nguyễn Trường Tộ
được nâng lên khá rõ rệt. Khảo sát chất lượng học sinh đến đầu học kì II năm 2017 –
2018:
Chất lượng
Khối

Đạt

Sỉ số

lớp

Chưa đạt

SL

Tỉ lệ

SL

Tỉ lệ


6

276

276

100%

0

0%

7

275

275

100%

0

0%

8

306

306


100%

0

0%

9

268

268

100%

0

0%

. Thuận lợi
+ Đối với học sinh :
Nhờ sự nghiên cứu kĩ đặc điểm của phân môn mĩ thuật trong trường Trung học
cơ sở chung và trường THCS Nguyễn Trường Tộ nói riêng. Bên cạnh đó với những
nỗ lực của bản thân mong muốn mang đến cho các em học sinh những giờ học mĩ
thuật vui vẻ, hào hứng và có hiệu quả. Mà các giờ dạy mĩ thuật của tôi không còn
nhàm chán và khô cứng mà có nhiều chuyển biến tích cực.
Các em bắt đầu có ý thức chờ đợi giờ học mĩ thuật hơn, vì trong giờ học các em
được tham gia nhiều hoạt động sôi nổi, hào hứng, tâm lý học thoải mái, không gò bó,
mệt mỏi.
Các em đa số nắm được nội dung chính của bài ngay tại lớp. Về nhà các em chỉ
đọc thêm sách báo và tài liệu để bổ sung cho kiến thức của mình thêm phong phú mà

thôi.
Tạo cho học sinh biết lắng nghe, trao đổi, thảo luận và đề xuất ý kiến. Điều đó
đã tạo điều kiện học sinh diễn đạt ý kiến, đồng thời xây dựng lòng tự tin cho học sinh
thông qua việc tham gia học nhóm.


Tăng cường sự hợp tác, đoàn kết với nhau trong học tập của cũng như kiểm tra
lẫn nhau của các nhóm góp phần tạo không khí thi đua trong học tập giữa các nhóm
và giữa các học sinh với nhau; nâng cao thái độ, ý thức học tập của học sinh.
Phát huy được tính độc lập, sáng tạo và năng nổ của học sinh trong khi học
nhóm. Bên cạnh đó học sinh còn được rèn luyện kỹ năng tìm tòi, kỹ năng tự học…
gây hứng thú học tập đối với môn học, tính tự giác, tính tích cực độc lập trong quá
trình học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập của mình.
Học sinh về nhà biết tự học, tự nghiên cứu, tự tìm tòi và đọc tài liệu tham khảo
nhiều hơn. Nhờ đó giúp học sinh đào sâu kiến thức đã học.
Tỉ lệ nắm và hiểu bài ở các bài thường thức mĩ thuật rất cao. Môn mĩ thuật đã
không còn bị coi là môn học phụ.
+ Đối với giáo viên:
Chỉ cần tập trung chuẩn bị đồ dung dạy học trong vòng một hai năm đầu. Các
năm sau kết hợp hình ảnh sưu tầm của học sinh và bổ sung thêm hoặc thay đổi chút ít.
Không tốn thêm thời gian nhiều nữa.
Giáo viên và học sinh cùng hoạt động với nhau trong một giờ học 45 phút.
Năng lực chuyên môn, tổ chức quản lý lớp cũng như hướng dẫn và điều hành
tập thể của người giáo viên ngày càng được nâng cao.
Giáo viên có thể linh hoạt quản lý lớp học và đáp ứng nhu cầu học tập của từng
học sinh.
Giáo viên có nhiều thời gian tiếp xúc, trao đổi và hiểu được tâm tư nguyện
vọng của từng học sinh trong học tập.
Đỏi hỏi giáo viên phải luôn tự học hỏi, tự tìm tòi, nghiên cứu bổ sung chuyên
môn cũng như kinh nghiệm tổ chức, quản lý, điều hành lớp ngày càng tốt hơn.

. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi trong việc ứng dụng PPDH tích cực, tôi gặp không ít
những khó khăn như:
Trình độ học sinh không đồng đều đã gây không ít khó khăn trong việc phân
công nhiệm vụ học tập cũng như tổ chức, quản lý lớp học.
Một số cá nhân học sinh còn nhiều thụ động trong quá trình học tập, nên những
kết quả thu nhận được chỉ từ những học sinh năng động, còn một số học sinh yếu kém
có thể sử dụng kết quả thảo luận một cách thụ động.
Phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc dạy - học còn nhiều hạn chế chưa đáp
ứng được yêu cầu dạy - học của giáo viên và học sinh.


Giáo viên gặp khó khăn trong việc kiểm tra, đánh giá một cách chính xác, cụ
thể về mức độ nhận thức của từng học sinh, nhất là đối tượng học sinh yếu, kém.
Đồng thời do khống chế thời gian đã làm ảnh hưởng không nhỏ đối với các
hoạt động nhóm.
c. Hiệu quả
Với việc sử dụng các phương dạy học định hướng phát triển năng lực nêu trên,
qua hơn một năm vận dụng tôi đã thu về nhiều kết quả khả quan. Chất lượng học sinh
học các phân môn trong mỹ thuật nâng cao rõ rệt. Các em được cung cấp nhiều kiến
thức hơn về mỹ thuật trong nước và thế giới. Tạo tiền đề vững vàng khi học các năm
học tiếp theo.
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy: nếu được giáo viên áp dung PPDH
tích cực liên tục và có tính hệ thống thì sẽ hình thành các em việc phối hợp nhóm một
cách thành thạo, thảo luận có hiệu quả, các tiết học sinh động hơn, đa dạng hơn, các
em ham thích học môn mỹ thuật nhiều hơn, chất lượng tham gia hoạt động tập thể của
các em ngày càng nâng lên rõ rệt, chất lượng học bộ môn của các em cũng được nâng
cao, các em không còn chán nản khi học phân môn thường thức mĩ thuật nữa.
III/ PHẦN KẾT LUẬN. KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận:

Để đạt được những kết quả như trên, tôi nhận thấy rằng:
- Trước hết giáo viên phải thật sự yêu thích công việc của mình. Bản thân luôn
muốn cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp giáo dục. Sau đó phải có lòng kiên nhẫn
bởi vì đối tượng mà mình đang dạy chỉ mới làm quen với cách học THCS, đang còn
hiếu động, ít tập trung. Do đó phải thật sự kiên nhẫn với các em thì giờ học mới có
hiệu quả.
- Thường xuyên cập nhật thông tin, tài liệu, hình ảnh minh họa từ nhiều nguồn
để bổ sung vào bộ đồ dùng dạy học của bản thân, làm cho đồ dùng dạy học phải
phong phú, sinh động và có chất lượng thì mới thu hút sự chú ý của các em.
- Trao đổi phương pháp dạy học với các đồng nghiệp, đặc biệt là đối với các
anh chị có nhiều năm kinh nghiệm để cùng nhau dự giờ góp ý, đúc rút ra các ưu
nhược của từng phương pháp.
- Các phương pháp được vận dụng một cách linh hoạt, có thể sử dụng một hay
nhiều phương pháp trong một giờ học. Không gò bó ép buộc theo một phương pháp
nào.


- Quan trọng hơn hết phải tạo ra một tiết học sinh động, thoải mái, sôi nổi, lôi
kéo tất cả các học sinh cùng tham gia hoạt động. Có như vậy các em mới có cảm giác
thích học không nhàm chán.
- Trên đây là những phương pháp mà tôi đã học hỏi từ các đồng nghiệp đi trước
cùng với ngiên cứu và vận dụng của bản thân trong quá trình dạy học để đúc rút ra
được. Rất mong được sự quan tâm góp ý của quý thầy cô để các phương pháp nêu
trên được hoàn thiện và có thể áp dụng rộng rãi.
2. Kiến nghị:
Đỏi hỏi giáo viên phải luôn tự học hỏi, tự tìm tòi, nghiên cứu bổ sung chuyên
môn cũng như kinh nghiệm tổ chức, quản lý, điều hành lớp ngày càng tốt hơn.
Cần hỗ trợ phương tiện, thiết bị dạy - học cho giáo viên cũng như học sinh
( đèn chiếu, đĩa VCD minh hoạ cho một số tiết dạy, tranh ảnh, tư liệu…). Đặc biệt là
các bức tranh về các đề tài khác nhau sao chép lại từ các họa sỹ trong nước và thế

giới. Đây là cái thiếu nhất đối với môn mỹ thuật trong trường học.
Tổ chức các hoạt động tham quan các đợt triễn lãm tranh ãnh mỹ thuật trong
nước để giáo viên được cung cấp thêm nhiều kiến thức thực tiễn và theo kịp với sự
phát triển của nền mỹ thuật.
Tổ chức các chuyên đề, thảo luận, trao đổi các bài giảng hay, các phương pháp
dạy học mới giữa giáo viên mỹ thuật với nhau để học hỏi nâng cao kinh nghiệm cho
bản thân.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã thu thập và đúc kết được trong quá
trình giảng dạy, dự giờ.
Mong rằng bài viết sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạy - học không chỉ riêng bộ
môn mỹ thuật mà còn là những bộ môn khác trong nhà trường. Chắc chắn bài viết
không tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong nhận được sự góp ý chân thành để đề
tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
– Tạo điều kiện cho GV được chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng thời khoá biểu,
nội dung, phương pháp dạy học hợp lí, thay đổi không gian dạy học phù hợp với chủ
đề; có biện pháp hỗ trợ các vật liệu cần thiết để phục vụ môn học trong điều kiện có
thể ở một số chủ đề (mẫu vẽ, giấy khổ lớn, bảng vẽ, giá vẽ, lưu bài/sản phẩm của
HS,…).
– Thay đổi cách đánh giá giáo viên: cần dựa trên năng lực, hiệu quả dạy học, sự sáng
tạo linh hoạt trong dạy học, sự tiến bộ của HS theo năng lực. Không nặng về hình
thức đánh giá hồ sơ, sổ sách, thời gian thực hiện các HĐ trên lớp của GV.
Xin chân thành cảm ơn !


P.Thống Nhất, ngày 17 tháng 10 năm 2018
Người thực hiện

Đỗ Thị Trà My

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học môn mĩ thuật THCS.
Tác giả: Đàm Luyện, Bạch Ngọc Diệp, Nguyễn Quốc Toản. Năm 2008.
- Thiết kế phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá.
Tác giả PGS –TS Đặng Thành Hưng.
- Mĩ thuật và phương pháp dạy học mĩ thuật ( phần 1)
Tác giả: trần Nguyên Bình, Võ Quốc Thạch, Nguyễn Thị Ngọc Bích.
- Dạy Mỹ thuật theo định hướng phát triển năng lực Phạm Văn Thuận - Nguyễn
Khắc Tú


×