Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.64 KB, 37 trang )

LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
6.1. Khái quát chung về Luật Dân sự
6.1.1. Khái niệm luật Dân sự
Luật Dân sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan
hệ tài sản mang tính chất hàng hoá, tiền tệ và các quan hệ nhân thân giữ các cá
nhân, tổ chức trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể đó khi tham gia quan hệ
pháp luật dân sự.
6.1.2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
6.1.2.1. Đối tượng điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự là những nhóm quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân trong quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động (Điều 1- Bộ luật dân sự năm 2005).
*Quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản. Tài
sản trong Luật Dân sự Việt Nam bao gồm: vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Những quan hệ do Luật Dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau:
- Quan hệ phát sinh giữa các chủ thể là những quan hệ kinh tế cụ thể trong
quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu thụ những sản phẩm cũng như
những cung ứng dịch vụ trong xã hội. Quan hệ tài sản tồn tại không phụ thuộc vào
ý chí của con người mà nó phát sinh, phát triển theo những quy luật khách quan.
Những quy luật này được nhận thức và phản ánh qua những quy phạm pháp luật là
chủ quan. Mỗi chủ thể tham gia vào một quan hệ kinh tế cụ thể đều đặt ra những
mục đích với động cơ nhất định. Bởi vậy, quan hệ tài sản mà các chủ thể tham gia
mang ý chí của các chủ thể tham gia và phải phù hợp với ý chí của nhà nước thông
qua các quy phạm pháp luật dân sự. Nhà nước dùng các quy phạm pháp luật dân sự
tác động lên các quan hệ kinh tế, hướng cho quan hệ này phát sinh, thay đổi theo ý
chí của nhà nước.
- Quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh mang tính chất hàng hoá và tiền
tệ. Định hướng chiến lược của nước ta hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định


hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 15 - Hiến pháp 1992). Trong mô hình kinh tế này các
tài sản được thể hiện dưới dạng hàng hoá và được quy thành tiền. Sản xuất ra hàng
hoá và dịch vụ để trao đổi là đặc trưng của nền sản xuất này. Nó tạo ra động lực
cho mọi cá nhân, tổ chức khơi dậy mọi tiềm năng của họ, phát huy ý chí tự lực, tự
cường, tạo ra sức mạnh làm giàu cho mình và cho đất nước. Nhưng nền kinh tế
hàng hoá theo cơ chế thị trường cũng có những mặt trái của nó. Bởi vậy, càng cần
phải có hành lang pháp lý vừa mềm dẻo, linh hoạt, vừa chặt chẽ mới có thể đáp ứng
được các yêu cầu trên.
- Sự đền bù tương đương trong trao đổi là biểu hiện của quan hệ hàng hoá
tiền tệ, là đặc trưng của quan hệ dân sự. Nhưng không phải tất cả sự dịch chuyển tài
sản, dịch vụ đều có sự đền bù tương đương. Vẫn tồn tại sự dịch chuyển tài sản
không có sự đền bù như: cho, tặng, thừa kế, sử dụng các tác phẩm văn học nghệ
thuật... Nhưng các quan hệ này không phải là cơ bản và phổ biến; nó không chỉ đơn
thuần là quan hệ pháp luật mà còn bị chi phối bởi những quan hệ xã hội khác.
* Quan hệ nhân thân
Cùng với quan hệ tài sản, luật dân sự còn điều chỉnh các quan hệ nhân thân.
Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá
nhân và tổ chức. Giá trị nhân thân thể hiện lợi ích tinh thần của một chủ thể, không
xác định được bằng tiền, không chuyển dịch được cho người khác. Những giá trị
nhân thân được Luật dân sự xác nhận là các quyền nhân thân và được pháp luật bảo
vệ. Các quan hệ nhân thân gắn với tài sản và quan hệ nhân thân không gắn với tài
sản.
Những quan hệ nhân thân do pháp luật điều chỉnh có những đặc điểm sau:
- Luôn gắn với một chủ thể và về nguyên tắc không thể dịch chuyển được
cho các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được
dịch chuyển. Những trường hợp cá biệt này phải do pháp luật quy định ( quyền
thay đổi họ tên, quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả ).
- Không xác định được bằng tiền, có nghĩa là giá trị nhân thân và tiền tệ
không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Các
quan hệ nhân thân không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy tín cá nhân;

các quyền đối với họ tên; thay đổi họ tên; quyền đối với hình ảnh, với bí mật đời
tư; quyền kết hôn, ly hôn. Các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là những giá trị
nhân thân khi xác lập làm phát sinh các quyền tài sản như quyền tác giả các sáng
chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp.
Luật dân sự xác nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và
đưa ra các biện pháp bảo vệ giá trị nhân thân đó. Khi quyền nhân thân bị xâm phạm
thì chủ thể có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan nhà
nước có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải
chính công khai; tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; yêu
cầu người vi phạm hoặc yêu cầu toà án buộc người vi phạm phải bồi thường thiệt
hại để bù đắp những tổn thất về tinh thần.
6.1.2.2. Phương pháp điều chỉnh
Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là cách thức, biện pháp mà nhà
nước tác động lên các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân làm cho các quan hệ
này phát sinh thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước.
Các chủ thể khi tham gia các quan hệ dân sự đều bình đẳng và độc lập với
nhau về tài sản do vậy Luật dân sự điều chỉnh quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân
bằng phương pháp tự định đoạt, theo đó các chủ thể có quyền tự do quyết định việc
tham gia hay không tham gia quan hệ dân sự. Tuy nhiên, việc tự định đoạt của các
chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự phải tuân theo nguyên tắc: “ Việc
xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm lợi ích nhà
nước, tập thể và của người khác”.
6.1.3 Quan hệ pháp luật dân sự
6.1.3.1. Khái niệm:
Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật
điều chỉnh. Trong hệ thống pháp luật mỗi một ngành luật điều chỉnh một nhóm
quan hệ xã hội khác nhau. Là một dạng của quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật
dân sự cũng xuất hiện do ý chí của con người, mang tính chất giai cấp nội dung
được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo
bằng sự cưỡng chế của nhà nước. Tuy nhiên, dựa vào đối tượng điều chỉnh riêng và

phương pháp điều chỉnh riêng của ngành luật này có thể đưa ra khái niệm: Quan hệ
pháp luật dân sự là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân được các quy phạm pháp
luật dân sự điều chỉnh.
6.1.3.2. Đặc điểm:
Ngoài các đặc điểm chung của quan hệ pháp luật, quan hệ pháp luật dân sự
còn mang những đặc điểm riêng sau:
- Chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự đa dạng nhưng độc lập với nhau
về tổ chức và tài sản. Xuất phát từ các quan hệ mà Luật dân sự điều chỉnh là các
quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân - những quan hệ phát sinh trong đời sống
thường ngày của các cá nhân cũng như tập thể cho nên cá nhân cũng như tổ chức
đều là chủ thể của quan hệ dân sự.
- Địa vị pháp lý của các chủ thể dựa trên cơ sở bình đẳng, không bị phụ
thuộc vào các yếu tố xã hội khác. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
các quan hệ pháp luật dân sự, các bên không được áp đặt ý chí của mình để buộc
bên kia thực hiện nghĩa vụ, mà phải tạo điều kiện cho các bên lựa chọn cách thức
thực hiện các quyền và nghĩa vụ sao cho có lợi nhất.
- Lợi ích là tiền đề trong phần lớn các quan hệ dân sự. Khi tham gia các quan
hệ dân sự các chủ thể đều nhằm hướng tới thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng như
tinh thần. Sự đền bù tương đương là đặc trưng của quan hệ mang tính chất hàng
hoá - tiền tệ do luật dân sự điều chỉnh. Bởi vậy, bồi thường thiệt hại là đặc trưng
của trách nhiệm dân sự. Trong khi đó, quan hệ dân sự chủ yếu là quan hệ tài sản,
bởi vậy bảo đảm bằng tài sản là đặc trưng để buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa
vụ của họ và bên có quyền có thể thông qua các biện pháp bảo đảm này để thoả
mãn các quyền tài sản của họ.
- Các biện pháp cưỡng chế đa dạng không chỉ do pháp luật quy định mà có
thể tự các bên quy định về các biện pháp cưỡng chế cụ thể, về hình thức áp dụng
các biện pháp đó. Nhưng đặc tính tài sản là đặc trưng cho các biện pháp cưỡng chế
trong Luật dân sự.
6.1.3.3. Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự
Thành phần của quan hệ pháp luật dân sự là các yếu tố cấu thành nên quan

hệ đó, quan hệ pháp luật dân sự được cấu thành bởi các thành tố: Chủ thể, khách
thể, nội dung.
* Chủ thể
Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự là các bên tham gia vào các quan hệ đó,
bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và trong nhiều trường hợp
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng tham gia với tư cách là chủ
thể đặc biệt của quan hệ pháp luật dân sự.
- Cá nhân: là chủ thể phổ biến của quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: công
dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch. Để tham gia vào các
quan hệ pháp luật dân sự cá nhân phải có năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp
luật và năng lực hành vi.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền và
nghĩa vụ dân sự. Ở Việt Nam, mọi cá nhân đều được pháp luật quy định có năng
lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi
người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết đi.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi dân sự chỉ
xuất hiện khi cá nhân đến một tuổi nhất định, có đủ lý trí để nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình. Theo pháp luật dân sự hiện hành, năng lực hành vi dân sự
của cá nhân được phân loại thành:
+ Người thành niên (đủ 18 tuổi ) có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ
trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự;
+ Người chưa đủ thành niên, từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực
hành vi dân sự chưa đầy đủ;
+ Người chưa đủ 6 tuổi không có năng lực hành vi dân sự;
+ Người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác không nhận thức làm chủ
được hành vi của mình thì bị mất năng lực hành vi dân sự;
+ Người nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phát
tán tài sản gia đình có thể bị Toà án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- Pháp nhân: là tổ chức được cơ quan nhà nước thành lập, cho phép thành

lập, đăng ký hoặc công nhận, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập với cá
nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, nhân danh mình tham
gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Pháp nhân bao gồm các loại: cơ quan
nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, quỹ từ thiện và các tổ chức khác có đủ điều kiện
quy định tại Điều 84 - Bộ luật dân sự 2005.
- Hộ gia đình: là tập hợp các thành viên trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung
trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và
trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh do pháp luật quy định.
- Tổ hợp tác là tổ chức được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có
chứng thực của uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ 3 cá nhân trở lên, cùng
đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi
và cùng chịu trách nhiệm. Tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện tổ hợp tác trong
các giao dịch dân sự. Tổ trưởng tổ hợp tác có thể uỷ quyền cho tổ viên thực hiện
công việc cần thiết cho tổ.
* Khách thể: Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là cái mà các chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật dân sự mong muốn đạt được. Nó là những lợi ích về vật chất
hoặc tinh thần bao gồm: tài sản, hành vi và các dịch vụ, kết quả của lao động sáng
tạo, các giá trị nhân thân, quyền sử dụng đất.
* Nội dung của quan hệ pháp luật dân sự
Nội dung quan hệ pháp luật dân sự bao gồm quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
- Quyền dân sự là cách xử sự được phép của người có quyền năng. Quyền dân sự
của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự có thể thực hiện những hành vi
khác nhau phủ hợp với nội dung, mục đích của quyền năng đó như: chủ sở hữu có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài sản thuộc sở hữu của mình trong
khuôn khổ pháp luật quy định, thông qua hành vi của mình thoả mãn quyền của
mình hoặc quyền yêu cầu người khác (người có nghĩa vụ) thực hiện các hành vi
nhất định (trả tiền, chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm một việc...).

Khi quyền dân sự bị vi phạm, chủ thể có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ
mà pháp luật cho phép, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền dân
sự của mình bị xâm hại như: kiện ra toà án, khiếu nại đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
- Nghĩa vụ dân sự là cách xử sự bắt buộc của người có nghĩa vụ. Cách xử sự
này rất khác nhau tuỳ theo từng quan hệ dân sự cụ thể.
+ Các quy phạm tuỳ nghi cho phép các chủ thể lựa chọn cách thực hiện khi
tham gia vào quan hệ dân sự phát huy quyền tự định đoạt của mình. Các quy phạm
mệnh lệnh dưới dạng cấm hoặc bắt buộc phải làm có ý nghĩa đặc biệt. Từ các quy
phạm này phát sinh nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự. Ví dụ như quy
định hợp đồng dân sự giao kết theo nguyên tắc tự nguyện, không trái pháp luật và
đạo đức xã hội.
+ Thông thường, trong các quan hệ pháp luật dân sự, nghĩa vụ dân sự một
chủ thể bao giờ cũng tương ứng với quyền của một chủ thể khác. Nghĩa vụ của một
chủ thể nhằm thoả mãn yêu cầu của chủ thể bên kia. Người có nghĩa vụ có thể phải
thực hiện một hành vi nhất định (trả tiền trong mua – bán, vay - mượn, khoán việc
hoặc bồi thường thiệt hại hoặc chuyển giao tài sản).
6.2. Một số nội dung cơ bản của Luật dân sự Việt Nam
6.2.1 Tài sản
6.2.1.1. Khái niệm
Với tính cách là khách thể quyền sở hữu tài sản được xác định như sau: Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Vật chính là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động
vật, thực vật, vật với ý nghĩa vật lý ở mọi trạng thái: rắn, lỏng, khí. Với ý nghĩa là
một phạm trù pháp lý, vật là một bộ phận của thế giới vật chất, có thể đáp ứng một
nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên không phải bất cứ một bộ phận
nào của thế giới vật chất đều được coi là vật, vì vậy có những bộ phận của thế giới
vật chất ở dạng này thì được coi là vật, nhưng ở dạng khác lại không được coi là
vật.
Ví dụ: Không khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển... không

được coi là vật. Nhưng nếu đóng vào bình nước, làm nóng, làm lạnh... lại được coi
là vật.
Như vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con người, vật có với tính
cách là tài sản, phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đặc trưng giá trị và
trở thành đối tượng của giao lưu dân sự.
Vật không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu, mà còn bao gồm cả những vật
chắc chắn sẽ có, đó chính là hoa lợi lợi tức, đây chính là sự gia tăng của tài sản
trong những điều kiện nhất định. Tương tự, tiền và những loại giấy tờ trị giá được
bằng tiền cũng được xác định là những loại tài sản có tính chất đặc biệt.
Ngoài vật, tiền, giấy tờ có giá tài sản còn được xác định là quyền tài sản.
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu
dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội, nhất là trong điều kiện kinh tế
thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phạm vi
tài sản với tính cách là khách thể của quyền sở hữu là không hạn chế. Nghĩa là
quyền sở hữu có thể được xác lập với bất kỳ loại tài sản nào, miễn là pháp luật
không cấm lưu thông dân sự.
6.2.1.1. Các loại tài sản
Có nhiều cách phân loại tài sản khác nhau. Dựa vào thuộc tính tự nhiên của
tài sản và có thể chuyển dịch bằng cơ học hay không Bộ luật dân sự phân chia tài
sản thành Động sản và Bất động sản. Trên cơ sở nguyên tắc này, Điều 174 Bộ luật
dân sự năm 2005 quy định về bất động sản và động sản như sau:
- Bất động sản là các tài sản bao gồm:
+ Đất đai;
+ Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền
với nhà ở, công trình xây dựng đó;
+ Các tài sản khác gắn liền với đất đai;
+ Các tài sản khác do pháp luật quy định;
- Động sản là những tài sản không phải là bất động sản
Với cách phân loại trên, đã đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn. Bất động

sản chủ yếu là đất đai (không thể chuyển dịch cơ học được), nhà ở, công trình xây
dựng, các tài sản gắn liền với đất đai. Theo quy định của Bộ luật dân sự thì đây là
loại tài sản cần được đăng ký. Dựa vào đặc tính tự nhiên của từng loại tài sản, luật
quy định như vậy nhằm bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của những cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Bộ luật dân sự còn có những quy chế pháp lý riêng đối với
mỗi loại tài sản trong một số trường hợp nhất định.
6.2.2 Quyền sở hữu
6.2.2.1. Khái niệm quyền sở hữu
Quyền sở hữu là những quyền năng dân sự đối với một tài sản.
Sở hữu là một phạm trù kinh tế hình thành và tồn tại một cách khách quan,
phản ánh những quan hệ giữa các cá nhân, các tập đoàn, các yêu cầu về việc chiếm
giữ những của cải vật chất trong xã hội mà trước hết là các tư liệu sản xuất.
Ở bất kỳ một hình thái kinh tế xã hội nào con người cũng phải có những cách
thức nhất định để chiếm giữ và làm chủ những của cải vật chất trong xã hội. Việc
chiếm giữ và làm chủ của con người đối với của cải vật chất trong xã hội gọi là sở
hữu. Sở hữu là một quan hệ xã hội biểu hiện ở việc nắm giữ của cải vật chất thông
qua quan hệ của sở hữu chủ một vật đối với người khác. Khác với sở hữu, quyền sở
hữu là một phạm trù pháp lý gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
những quan hệ sở hữu đối với các quan hệ vật chất trong xã hội.Tuỳ theo bản chất
của mỗi chế độ xã hội. Tuỳ theo bản chất của mỗi chế độ xã hội mà có chế độ sở
hữu nhất định.
Khi xã hội phân chia giai cấp thì sở hữu là vấn đề có ý nghĩa quan trọng
khẳng định địa vị xã hội. Vì giai cấp nào sở hữu tư liệu sản xuất thì buộc giai cấp
khác phải lệ thuộc mình. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước đặt ra
các quy phạm pháp luật để điều chỉnh những quan hệ sở hữu. Các quy phạm pháp
luật đó xâm phạm, quy định các và bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu trong việc
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Vì vậy, pháp luật về sở hữu bao giờ cũng
nhằm mục đích sau:
+ Xác nhận và bảo vệ bằng pháp luật việc chiếm giữ những tư liệu sản xuất
chủ yếu của giai cấp thống trị.

+ Bảo vệ những quan hệ sở hữu phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
+
Tạo điều kiện pháp lý cần thiết bảo đảm cho giai cấp thống trị khai thác được
nhiều nhất những tư liệu sản xuất đang chiếm hữu để phục vụ cho giai cấp thống
trị.
Như vậy, quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban
hành dể điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy
định của Bộ luật dân sự.
6.2.2.2. Nội dung quyền sở hữu
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt
tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
* Quyền chiếm hữu
Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản. Đó cũng là quyền kiểm
soát làm chủ và chi phối vật đó theo ý chí của mình, không bị hạn chế và gián đoạn
về thời gian.
Trong thực tế, chủ sở hữu thường tự mình bằng các hành vi của bản thân để
thực hiện quyền chiếm hữu hay còn gọi là quyền chiếm hữu thực tế. Trong một số
trường hợp, chủ sở hữu chuyển quyền này cho người khác theo ý của họ (hợp
đồng) hoặc không theo ý chí của họ như: bị đánh rơi,bỏ quên, thất lạc, chôn dấu
chưa tìm thấy và các trường hợp khác do pháp luật quy định thì chủ sở hữu vẫn có
quyền chiếm hữu pháp lý đối với tài sản đó.
Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu chỉ chấm dứt hoàn toàn khi chủ sở hữu từ
bỏ theo quy định của mình; đã quyết định bán, trao đổi, tặng cho hoặc theo các căn
cứ khác theo quy định của pháp luật như tài sản bị tiêu huỷ, bị trưng mua.
Như vậy, trong cuộc sống hàng ngày xảy ra trường hợp có những người
không phải là chủ sở hữu nhưng vẫn chiếm hữu tài sản đó. Vì vậy, cần phân biệt
hai loại chiếm hữu sau đây:
- Chiếm hữu hợp pháp: Là hình thức chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật.
Sự chiếm hữu được coi là hợp pháp, trước hết đó là sự chiếm hữu tài sản của một

chủ sở hữu. Người không phải là chủ sở hữu chỉ được coi là chiếm hữu hợp pháp
khi có những căn cứ sau:
+ Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản.
+ Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù
hợp với các điều kiện do pháp luật quy định.
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định như: chiếm hữu trên cơ sở lệnh
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc do pháp luật quy định có quyền đương
nhiên chiếm hữu vật. Ví dụ: các cơ quan Công an, Toàn án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân theo chức năng và thẩm quyền có quyền thu giữ và chiếm hữu tang vật
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
- Chiếm hữu bất hợp pháp: Là việc chiếm hữu của một người đối với tài sản
mà không dựa trên những cơ sở pháp luật. Trong việc chiếm hữu bất hợp pháp
thường xảy ra hai khả năng:
+ Chiếm hữu bất hợp pháp ngay tình: Là người chiếm hữu không biết và do
hoàn cảnh không thể biết việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật của mình. Ví
dụ: mua nhầm phải của gian mà không biết, người bán tài sản không phải là chủ sở
hữu, không được chủ sở hữu uỷ quyền bán nhưng vẫn chuyển dịch tài sản.
+ Chiếm hữu bất hợp pháp không ngay tình: Người chiếm hữu biết đó là
chiếm hữu bất hợp pháp hoặc tuy không biết nhưng cần phải biết rằng người
chuyển dịch tài sản cho mình là người không có quyền dịch chuyển. Ví dụ một
người biết là của gian nhưng vẫn mua hàng vì nó rẻ.
Việc phân định chiếm hữu bất hợp pháp có ý nghĩa quan trọng trong thực
tiễn nhằm bảo vệ quyền chủ sở hữu và lựa chọn phương thức kiện bảo vệ quyền sở
hữu trong giải quyết các vụ kiện dân sự.
* Quyền sử dụng: Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
tức từ tài sản. Quyền sử dụng là quyền năng quan trọng và có ý nghĩa thực tế của
chủ sở hữu. Chủ sở hữu toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức của
tài sản theo ý chí tuỳ nghi của mình. Thông thường chủ sở hữu trực tiếp sử dụng tài
sản của mình nhưng có thể được chuyển giao cho người khác trên cơ sở một hợp
đồng hợp pháp của chủ sở hữu. Trong một số trường hợp khác pháp luật quy định,

trên cơ sở một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: cơ quan hoặc tổ
chức sử dụng tài sản bị trưng dụng. Ngoài ra, người chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
tức từ tài sản theo quy định của pháp luật.
* Quyền định đoạt: Quyền định đoạt là quyền năng của chủ thể sở hữu để quyết
định về “số phận” của tài sản.
Chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt biểu hiện ở hai khía cạnh:
+ Định đoạt về số phận thực tế của tài sản (tức là làm cho tài sản không còn
trong thực tế nữa) như: tiêu dùng hết, huỷ bỏ hoặc từ bỏ quyền sở hữu đối với
tài sản.
+ Định đoạt về số phận pháp lý của tài sản là việc làm chuyển giao quyền sở
hữu đối với tài sản từ người này sang người khác. Thông thường định đoạt về số phận
pháp lý của tài sản phải thông qua các giao dịch phù hợp với ý chí của chủ sở hữu
( bán, trao đổi, tặng, cho vay, để thừa kế ) thông qua việc định đoạt mà chủ sở hữu có
thể tiêu dùng hết; chuyển quyền chiếm hữu tạm thời ( trong hợp đồng gửi giữ); chuyển
quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian (trong hợp
đồng cho thuê, cho mượn) hoặc chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho
người khác (bằng hợp đồng bán, đổi, tặng cho...).
Việc một người thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản sẽ làm chấm dứt
hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến tài sản đó. Ví dụ, tiêu dùng hết
tài sản sẽ làm chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản đó. Bán một tài sản sẽ làm
chấm dứt quyền sở hữu của người bán nhưng lại làm phát sinh quyền sở hữu về tài
sản đó đối với người mua.
Việc định đoạt về số phận pháp lý của tài sản đòi hỏi chủ sở hữu phải thiết
lập với chủ sở hữu khác một quan hệ pháp luật dân sự. Đối với hình thức này Bộ
luật Dân sự quy định: người định đoạt tài sản phải là người có năng lực hành vi dân
sự thể hiện theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu có thể uỷ quyền cho người khác định đoạt tài sản của mình. Người
được uỷ quyền phải định đoạt phù hợp với ý chí và lợi ích của chủ sở hữu. Ngoài ra,
để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể và lợi ích chung của xã hội pháp luật quy

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×