Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

vấn đề kiện đòi tài sản trong luật Dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.08 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
******************************************
Quan hệ về quyền sở hữu tài sản là quan hệ pháp luật dân sự, do vậy chủ sở hữu
tự mình thể hiện ý chí trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Tuy nhiên,
trong quan hệ xã hội và pháp luật, tài sản của chủ sở hữu trong những hoàn cảnh cụ
thể đã dời khỏi chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí, do có hành vi
chiếm đoạt trái pháp luật tài sản đó. Vì thế pháp luật cần phải bảo hộ quyền sở hữu tài
sản cho cá nhân và tổ chức.Tuy nhiên mỗi chế độ xã hội khác nhau thì phương thức
và nội dung bảo hộ khác nhau. Kiện đòi lại tài sản là một trong các phương thức bảo
vệ quyền sở hữu theo qui định của pháp luật. Theo qui định tại Điều 255 BLDS, thì:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu Toà án, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu
phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở
hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Để hiểu rõ hơn về vấn đề
này, em xin đi sâu vào trình bày đề tài : Kiện đòi tài sản theo BLDS Việt Nam.

NỘI DUNG
******************************************
A. Khái quát về vấn đề kiện đòi tài sản trong luật Dân sự Việt Nam

Pháp luật của nhà nước ta ghi nhận và bảo vệ quyển sở hữu tài sản của các chủ
thể. Nếu quyền sở hữu bị xâm phạm, thì cho phép chủ sở hữu khởi kiện yêu cầu toà
án bảo vệ quyền lợi cho mình. Trong lĩnh vực dân sự, nhà nước ban hành hệ thống
các pháp lệnh: Pháp lệnh về Quyền sở hữu công nghiệp 1989, Pháp lệnh về Thừa kế
1990, Pháp lệnh về Nhà ở 1991, Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự 1991, Pháp lệnh về

1


Quyền tác giả 1994, nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng Bộ luật dân sự 1995. Như vậy
trước Bộ luật dân sự 1995, hệ thống pháp luật dân sự không có văn bản pháp qui qui


định về quyền sở hữu tài sản cũng như phương thức kiện đòi tài sản. Quyền sở hữu
của công dân, các tổ chức được qui định trong Hiến pháp và rải rác trong các văn bản
pháp luật khác. Các qui định về quyền sở hữu chưa được xây dựng thành một chế
định pháp luật trong hệ thống pháp luật dân sự, cho nên việc giải quyết các tranh chấp
về tài sản được áp dụng các nguyên tắc chung của pháp luật luật dân sự đó là : Nhà
nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân theo Điều 27 Hiến pháp 1980 và Điều 58
Hiến pháp 1992. Lần đầu tiên chế định sở hữu được qui định trong Bộ luật dân sự
1995 tại Phần thứ hai: Tài sản và quyền sở hữu và Chương VI qui định về bảo vệ
quyền sở hữu. Điều 284 BLDS qui định:
“ Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu,
người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài
sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản
đó, trừ trường hợp qui định tại khoản 1, Điều 255 của Bộ luật này”.
Theo tinh thần của điều 284 BLDS năm 1995, thì chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp có quyền đòi lại tài sản trong trường hợp sau đây:
Thứ nhất, chủ sở hữu không chuyển tài sản của mình cho bất cứ người thứ hai
nào, mà người đó đang chiếm giữ tài sản của chủ sở hữu mà không trả lại tài sản cho
chủ sở hữu. Trường hợp này người đang chiếm hữu tài sản có thể thực hiện hành vi
bất hợp pháp như trộm cắp, cướp giật…Hoặc hành vi chiếm hữu ban đầu là có căn cứ
như thông qua hợp đồng, hoặc nhặt được tài sản đánh rơi, bỏ quên…nhưng không
chịu trả lại tài sản cho chủ sở hữu, do đó hành vi thực tế chiếm hữu tài sản là không
có căn cứ (bất hợp pháp).
Thứ hai, chủ sở hữu chuyển tài sản cho người khác thông qua giao dịch như
cho mượn, gửi giữ…người chiếm hữu hợp pháp không chuyển cho người thứ ba
nhưng người thứ ba thực tế đang chiếm hữu vật. Trường hợp này người chiếm hữu

2


hợp pháp có quyền kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không căn cứ để bảo vệ

quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản của mình.
Thứ ba, chủ sở hưũ chuyền tài sản cho người chiếm hữu hợp pháp, người chiếm
hữu hợp pháp chuyển tài sản cho người thứ ba không được sự đồng ý của chủ sở hữu.
Trường hợp này, người thứ ba có thể ngay tình hoặc không ngay tình đều phải trả lại
tài sản cho chủ sở hữu.
Như vậy, căn cứ pháp lý để chủ sở hữu đòi lại tài sản trong các trường hợp trên
là chủ sở hữu không chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho người khác, thì trong
mọi trường hợp người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật đều phải trả lại tài sản
cho chủ sở hữu. Căn cứ thực tế để chủ sở hữu đòi lại tài sản là người đang chiếm hữu
tài sản làm cho chủ sở hữu không khai thác, sử dụng được tài sản của mình. Cần cho
phép chủ sở hữu tự bảo vệ tài sản của mình hoặc yêu cầu toà án giải quyết. Vì thế
trong tất cả các trường hợp chủ sở hữu đều có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm
hữu không có căn cứ ngay tình hoặc không ngay tình.
Về vấn đề bảo vệ quyền sở hữu, theo tinh thần của Bộ luật dân sự 2005, Nhà nước
ta không những bảo vệ chủ sở hữu mà còn bảo vệ người thứ ba ngay tình. Điều
256 Quyền đòi lại tài sản. Điều 257- Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình. Điều 258 - Quyền đòi lại động sản phải
đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình. Từ Điều 284
BLDS 1995, Bộ luật dân sự 2005 đã bổ sung hai điều mới là Điều 257 và 258. Đây là
những hạn chế quyền đòi tài sản có điều kiện của chủ sở hữu đối với người ngay tình.
Như vậy, so với BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 thể hiện rõ những tiến bộ
trong quy định về bảo vệ người thứ ba ngay tình (Điều 138) và kiện đòi lại tài sản từ
người chiếm hữu ngay tình (Điều 257 và Điều 258). BLDS năm 2005 quy định cụ thể,
chi tiết hơn về những vấn đề này với mục đích bảo vệ và dung hoà lợi ích của chủ sở
hữu và người thứ ba chiếm hữu ngay tình, đồng thời đảm bảo sự ổn định trong giao
lưu dân sự.
B. Cơ sở lí luận về phương thức kiện đòi tài sản trong BLDS năm 2005

3



I. Khái niệm và đối tượng của phương thức kiện đòi tài sản
1. Khái niệm kiện đòi tài sản
Kiện đòi tài sản là việc chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa
án buộc người có hành vi chiếm hữu trái pháp luật phải trả lại tài sản cho mình. Đòi
lại tài sản là một trong những phương thức bảo vệ quyền của chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp. Mục đích của người khởi kiện khi thực hiện phương thức này là lấy lại
được tài sản của mình khi bị người khác chiếm hữu trái pháp luật. Quyền đòi lại tài
sản được quy định tại Điều 256 BLDS: Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có
quyền yêu cầu người chiếm hữu , người sử dụng tài sản , người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc thuộc quyền
chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó…
Theo quy định này thì việc yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng tài sản, người
được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản bao gồm cả chủ sở
hữu và người chiếm hữu hợp pháp. Nhưng tại Điều 257 BLDS, 258BLDS thì các nhà
lập pháp lại không công nhận quyền này cho người chiếm hữu hợp pháp mà chỉ dành
quyền này cho chủ sở hữu. Trong khi thực tế và về phương diện pháp lý thì người
chiếm hữu hợp pháp hoàn toàn có quyền thực hiện quyền yêu cầu đòi lại tài sản vì lý
do:
Thứ nhất, Điều 256 BLDS năm 2005 (về quyền đòi lại tài sản) dành quyền kiện
đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật cho cả chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp.
Thứ hai, cho phép người chiếm hữu hợp pháp khởi kiện đòi lại tài sản nhằm
đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện quyền trong thời hiệu khởi kiện.
Thứ ba, thừa nhận người chiếm hữu hợp pháp có quyền khởi kiện đòi lại tài
sản còn giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chính chủ sở hữu. Tránh việc kiện đòi lại
tài sản của chủ sở hữu trở nên phức tạp hơn hoặc không thể thực hiện được .
2. Đối tượng của vụ kiện đòi tài sản

4



Tài sản phải là vật đặc định tức là vật được phân biệt với các vật khác nhờ
những dấu hiệu nhận dạng riêng và vật này hiện đang trong tay người chiếm hữu bất
hợp pháp . Đây là điều kiện thực tế quan trọng bởi vì họ chỉ có thể kiện để đòi lại tài
sản khi tài sản đó đang tồn tại trong sự chiếm hữu bất hợp pháp của người khác , nhờ
có những đặc điểm riêng về màu sắc hình dáng, đặc tính hoặc những kí hiệu khác mà
chủ sở hữu hay người chiếm hữu hợp pháp nhận ra nó khi đang bị người khác chiếm
giữ trái pháp luật. Hơn nữa tài sản tranh chấp trong vụ án là vật đặc định đang tồn tại
trên thực tế sẽ là bằng chứng để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp chứng
minh quyền sở hữu của mình. Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của toàn dân thì
trong mọi trường hợp đều có thể áp dụng phương thức kiện đòi laị tài sản mà không
áp dụng thời hiệu.
Theo Khoản 2, Điều 247 BLDS quy định: Người chiếm hữu tài sản thuộc hình
thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai,
dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó.Đó
là các loại khách thể là tài sản chỉ riêng nhà nước mới có như đất đai, rừng núi, sông
hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất , nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và
vùng trời , những tài sản liên quan đến quốc phòng an ninh hay văn hóa xã hội mà chỉ
riêng nhà nước mới có . Còn đối với các khách thể thông thường khác được lưu thông
trong giao lưu dân sự thì các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu có tính chất chung , với
các điều kiện như nhau trong mọi hình thức sở hữu.
II. Những yêu cầu của pháp luật đối với phương thức kiện đòi tài sản
1.Đối với chủ thể quyền khởi kiện( nguyên đơn)
Người kiện đòi tài sản phải là chủ sở hữu của vật và phải chứng minh quyền sở
hữu của mình đối với vật đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp. Nếu nguyên đơn là
người chiếm hữu hợp pháp thông qua hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng phù hợp
với ý chí của chủ sở hữu , thì người đó phải chứng minh mình là người có quyền
chiếm hữu, sử dụng tài sản đang bị bị đơn chiếm giữ hợp pháp ngoài ý chí của những
người này( đánh rơi, bỏ quên, bị mất cắp…) trường hợp này chủ sở hữu, người chiếm

hữu hợp pháp có quyền đòi lại tài sản từ người đang chiếm hữu bất hợp pháp.

5


Người chiếm hữu hợp pháp tài sản: đây là khái niệm có nội hàm và ngoại diên
rộng hơn khái niệm chủ sở hữu bởi vì người chiếm hữu hợp pháp không chỉ bao gồm
chủ sở hữu tài sản mà còn bao gồm những người được chủ sở hữu giao cho quản lí tài
sản, có được tài sản thông qua hợp đồng thuê mượn tài sản. Do vậy chủ thể của quyền
khởi kiện ở đây được hiểu là chủ sở hữu tài sản và những người không phải chủ sở
hữu nhưng được chiếm hữu tài sản. Việc quy định cho người có quyền chiếm hữu tài
sản cũng được phương thức kiện đòi tài sản này điều chỉnh nhằm đảm bảo quyền lợi
cho chủ sở hữu trong việc đảm bảo thời hiệu khởi kiện và tránh phức tạp vụ án khi
người thứ ba đã bán đi tài sản cho người khác và không tìm thấy họ.
Một cá nhân để trở thành chủ sở hữu tài sản thì không cần đáp ứng các yêu cầu
về năng lực hành vi dân sự mà chỉ cần theo một trong các quy định tại điều 170 BLDS
năm 2005. Năng lực hành vi dân sự không quyết định tư cách của nguyên đơn nhưng
để trở thành người khởi kiện thì theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 6 Điều 57 bộ
luật TTDS năm 2004 thì người khởi kiện phải từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực chủ
thể đầy đủ hoặc người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi được khởi kiện trong
những vụ án dân sự về quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự thực hiện bằng tài sản
riêng của mình . Như vậy chủ sở hữu hoặc người chiêm hữu hợp pháp tài sản được
quyền khởi kiện đòi lại tài sản phải trong độ tuổi nhất định mới được tham gia quan
hệ này.
2. Đối với người bị kiện ( bị đơn)
Phải là người đang chiếm hữu bất hợp pháp đối với tài sản. Điều kiện này rất
quan trọng bởi có nhiều khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người
chiếm hữu tài sản của mình lúc trước nhưng lúc này người chiếm hữu tài sản đó đã
thành chủ sở hữu của tài sản do được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (Điều 247
BLDS ), hoặc do đã hết thời hiệu hưởng quyền dân sự trong trường hợp nhặt được tài

sản đánh rơi, phát hiện gia súc , gia cầm thất lạc (Điều 241BLDS . Điều242BLDS và
Điều 243 BLDS).
a) Người bị kiện là người chiếm giữ không có căn cứ pháp luật,không ngay tình
Người bị kiện phải trả lại tài sản là người đang thực tế chiếm hữu vật không có
căn cứ pháp luật, không ngay tình như tài sản do trộm, cắp, cướp, lừa đảo mà có; biết
6


tài sản đó là của gian nhưng vẫn mua... hoặc nhặt được tài sản do chủ sở hữu , người
chiếm hữu hợp pháp đánh rơi, bỏ quên...nhưng đã không giao nộp cho cơ quan có
trách nhiệm, thì người chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu ,
người chiếm hữu hợp pháp.Trong trường hợp người chiếm hữu, người sử dụng tài sản
không có căn cứ pháp luật không ngay tình nhưng đã giao tài sản cho người thứ ba,
thì người thứ ba cũng có nghĩa vụ hoàn trả tài sản đó nếu chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp có yêu cầu hoàn trả. Như vậy khi tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ thì những người đang thực tế chiếm hữu vật
đều phải trả lại tài sản. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 601 BLDS ngoài việc trả lại
tài sản những người này còn:…phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức thu được từ thời điểm
chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
Ví dụ 1: A trộm được chiếc xe máy SH của B trị giá 150 triệu đồng, A bán lại
cho C là bạn thân của A với giá 145 triệu, mặc dù C biết chiếc xe này do A ăn trộm
mà có nhưng vẫn mua. B phát hiện ra xe của mình bị A ăn trộm và đã được bán cho
C. B kiện đòi lại tài sản, trong trường hợp này C phải trả lại chiếc xe máy cho B là
chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe.
Hay trường hợp nhặt được tài sản do chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp pháp
đánh rơi, bỏ quên như:
Ví dụ 2: A đang trên đường đi làm, có một vụ tai nạn trên đường nên anh đã bỏ
xe máy và ba lô ở đầu ngõ để cứu nạn nhân. C nhìn thấy xe máy cùng với ba lô ở đầu
ngõ, không thấy chủ, liền dắt xe về nhà. Chiếc xe máy trị giá 40 triệu cùng toàn bộ
tiền mặt trong ví và laptop trị giá 30 triệu đồng. Ông C không báo cho cơ quan có

thẩm quyền biết về sự việc này cũng không chủ động liên lạc với anh A theo địa chỉ
có tìm thấy trong ví của anh A. Một tuần sau đó, nhờ được sự giúp đỡ của người dân
khu phố, A đã biết được tài sản của mình đang do C chiếm hữu, ông C nhất quyết
thừa nhận chiếc xe máy và laptop là tài sản của mình. A kiện C đòi lại tài sản. Trong

7


trường hợp này, A chứng minh được tài sản của mình và C phải trả lại toàn bộ tài sản
đó cho A.
b. Nếu người bị kiện là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình
b.1) Đối với tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu
Trường hợp này nếu thông qua giao dịch có đền bù ( mua bán) và theo ý chí
của người chiếm hữu có căn cứ pháp luật như người thuê, người mượn …của chủ sở
hữu thì chủ sở hữu không được kiện đòi lại tài sản ở người đang thực tế chiếm hữu.
Chủ sở hữu sẽ kiện người mình đã chuyển giao tài sản theo hợp đồng bồi thường thiệt
hại, vì đây là trách nhiệm theo hợp đồng. Qui định này dựa trên các căn cứ pháp lý và
thực tiễn sau :
Về mặt pháp lý, khi chủ sở hữu chuyển dịch tài sản cho người thứ hai, thì giữa
chủ sở hữu và người thứ hai có một giao dịch, cho nên chủ sở hữu cần phải đề phòng
những trường hợp người được chuyển giao tài sản không trả lại tài sản, do đó phải áp
dụng các biện pháp bảo đảm mà pháp luật cho phép nhằm khống chế hành vi vi phạm
của người được chuyển giao tài sản.
Xét về mặt thực tiễn, người thứ ba có nhu cầu sử dụng tài sản, cho nên họ đã
mua hoặc đổi tài sản để có tài sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc nhu cầu kinh
doanh. Khi tham gia giao dịch họ không biết tài sản đó không phải là của người đã
bán cho mình, cho nên hành vi của họ là ngay tình. Vì thế pháp luật cần phải bảo vệ
lợi ích của người thứ ba ngay tình, cho phép người thứ ba xác lập quyền sở hữu với
tài sản đó , điều này tránh được sự thông đồng giữa chủ sở hữu và người chiếm hữu

hợp pháp để gây thiệt hại cho người thứ ba. Mặt khác pháp luật cũng bảo vệ quyền
của chủ sở hữu, cho phép chủ sở hữu yêu cầu người chiếm hữu hợp pháp bồi thường
giá trị tài sản. Những người đã thuê, mượn, nhận , giữ tài sản của chủ sở hữu mà bán
tài sản đó có thể chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản của công dân theo điều 158 BLHS. Tài sản trong trường hợp này là vật chứng để
chứng minh là của chủ sở hữu.

8


Ví dụ : Bà Nguyễn Thị Mai trú tại thôn Xanh, xã Quỳnh Lưu, huyện Nho Quan
, cho bà Bùi Thị Lan là hàng xóm thuê chiếc máy mát xa trị đau lưng trị giá 20 triệu
vào ngày 20/01/2007 . Ngày 20 /7/2007 bà Bùi Thị Lan lâm bệnh nặng và chết. Bà
Mai đã yêu cầu bà Hồng trả lại theo hợp đồng đã thuê nhưng bà Hồng không đồng ý.
Bà Nguyễn Thị Mai làm đơn khởi kiện đến tòa án nhân dân huyên Nho Quan yêu cầu
bà Bùi Minh Hồng trả lại tài sản. Trong trường hợp này, bà Bùi Minh Hồng phải trả
lại chiếc máy mát xa cho bà Nguyễn Thị Mai theo hợp đồng mà bà Mai và bà Lan đã
kí.
Có thể thấy, việc áp dụng một số biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trong
hợp đồng là một giải pháp an toàn hơn đảm bảo quyền lợi cho bên có quyền đồng thời
ràng buộc trách nhiệm đối với bên có nghĩa vụ .Các biện pháp nhằm bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ phổ biến hiện nay bao gồm: cầm cố, thế chấp đặt cọc…được áp dụng
khá phổ biến trong các hợp đồng mua bán hay hợp đồng về tài sản.
Mặt khác, Điều 138 BLDS quy định: trong trường hợp giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu đã được
chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với
người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 257 của bộ luật này.
Ví dụ: A mua chiếc vi tính của B rồi đem bán lại cho C , sau đó A mới biết là B
không phải chủ sở hữu chiếc vi tính đó và không có quyền bán , giao dịch đầu tiên vô
hiệu. Về nguyên tắc thì hai bên trả lại cho nhau những gì đã nhận , nhưng chiếc vi tính

đã được bán lại cho C . C không thể biết rằng A không được phép bán chiếc vi tính đó
nên vẫn mua, trong trường hợp này, giao dịch giữa A và C vẫn có hiệu lực.
Như vậy ngoại lệ của nguyên tắc này nằm ở quy định tại điều 257 BLDS: chủ
sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm
hữu ngay tình trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu
có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị
chiếm hữu ngoài ý chí ý của chủ sở hữu.
Người chiếm hữu ngay tình là người chiếm hữu mà họ không biết và không thể
biết việc mình chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Việc pháp luật cho
phép chủ sở hữu được đòi lại tài sản là hợp lí vì nó không gây thiệt hại về mặt tài sản
9


cho người được tặng, cho . Người không có quyền định đoạt tài sản trong trường hợp
này thường là người có quyền chiếm hữu hay sử dụng tài sản thông qua hợp đồng phù
hợp với ý chí của chủ sở hữu như hợp đồng cho thuê hay cho mượn tài sản.
Ví dụ : A trông xe máy cho B thông qua hợp đồng gửi giữ , trong trường hợp
này A chỉ có quyền chiếm hữu xe máy của B nhưng không có quyền dùng xe đó làm
xe ôm thu lợi nhuận vì làm thế thì A trở thành người sử dụng và được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, quyền kiện đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, chỉ
được đáp ứng trong trường hợp tài sản đó vẫn còn. Như vậy, nếu động sản là đối
tượng của vụ kiện không còn tồn tại (bị tiêu huỷ…), thì mục đích kiện đòi lại động
sản đó của chủ sở hữu hoặc của người chiếm hữu hợp pháp không được đáp ứng.
Trong trường hợp này, quyền của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp chỉ
được bảo vệ theo phương thức kiện trái quyền.
b.2) Đối với tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc là bất động
sản:
Về nguyên tắc, theo khoản 2, điều 138 BLDS thì: trong trường hợp tài sản giao
dịch là bất động sản, hoặc là động sản phải đăng kí quyền sở hữu đã được chuyển

giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ
ba bị vô hiệu… Tức là người thứ ba ngay tình luôn phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu hợp pháp với tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng
kí quyền sở hữu bởi vì đối với động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc bất động sản
thì người chiếm hữu luôn buộc phải biết chủ sở hữu là ai. Mặt khác đối với những tài
sản này, người mua chỉ có quyền sở hữu khi sang tên đăng kí chuyển quyền sở hữu từ
người chủ sở hữu . Người thực tế đang có vật phải trả lại vật cho chủ sở hữu và có
quyền yêu cầu người chuyển giao vật cho mình hoàn trả tiền hoặc các lợi ích vật chất
mà mình bị thiệt hại.
Ví dụ: A cho B thuê nhà, hợp đồng thuê nhà là 6 năm. 6 năm sau, A đòi lại mà
B không trả, B đã dùng nhà của A cho C thuê để làm mặt bằng buôn bán tạp hóa. A
khởi kiện hành vi của B lên tòa án. Trong trường hợp này, B và C hoàn toàn phải trả
lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp ngôi nhà là A.
10


Tuy nhiên ngoại lệ của nguyên tắc này nằm tại điều 258 BLDS : Chủ sở hữu
được đòi lại động sản phải đăng kí quyền sở hữu và bất động sản , trừ trường hợp
người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc
giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do
bản án , quyết định bị hủy, sửa.
Như vậy chủ sở hữu tài sản không được đòi lại tài sản từ người chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình trong trường hợp người đó nhận được tài
sản thông qua đấu giá hoặc giao dịch dân sự với người mà trước đó theo bản án quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì họ là chủ sở hữu tài sản , sau đó người
này không còn là chủ sở hữu tài sản nữa do bản án, quyết định đã bị thay đổi. Trong
trường hợp này vì người chiếm hữu ngay tình không có lỗi mà lỗi thuộc về cơ quan
tiến hành tố tụng nên người bị kiện là cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo Điều 619
BLDS. Việc công nhận quyền sở hữu cho người thứ ba ngay tình trong trường hợp

này là hoàn toàn cần thiết nhằm tạo niềm tin tưởng sự yên tâm của người dân vào
pháp luật , nâng cao hơn vai trò và trách nhiệm của các cơ quan công quyền khi áp
dụng pháp luật đảm bảo công bằng và pháp chế XHCN.
Tuy nhiên nếu hợp đồng bán đấu giá tài sản , hợp đồng mua bán tài sản đấu giá
bị tòa án tuyên bố vô hiệu hoặc bị hủy theo quy định của pháp luật dân sự thì kết quả
bán đấu giá bị hủy theo quy định tại Điều 48 của Nghị định số 17/2010/NĐ- CP ngày
4/3/2010 về bán đấu giá tài sản. Mà theo quy định tại Điều 137 BLDS về hậu quả
pháp lí của giao dịch dân sự vô hiệu thì tài sản thông qua bán đấu giá không thể thuộc
về người thứ ba chiếm hữu ngay tình và hai bên trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Nhưng theo quy định tại Điều 258 BLDS thì tài sản vẫn thuộc về người thứ ba ngay
tình khi họ nhận được tài sản thông qua bán đấu giá.
Ví dụ: A ăn cắp xe ô tô của B, A làm giấy tờ đăng ký xe giả mang tên A và đem
xe bán đấu giá. Cuộc bán đấu giá được tổ chức đúng theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định. C mua được xe. Tổ chức bán đấu giá và C không biết và cũng thể biết

11


về nguồn gốc của xe. Nếu xem xét trường hợp kể trên trên cơ sở Điều 258 BLDS năm
2005, C được coi là chiếm hữu ngay tình . Nghĩa là B không có quyền kiện đòi tài sản
từ C. Nếu xem xét các trường hợp kể trên trên cơ sở các quy định pháp luật về bán
đấu giá tài sản, A có quyền kiện đòi lại tài sản . Bởi vì, theo quy định tại Điều 32
Nghị định 05/2005/NĐ-CP của Chính Phủ về bán đấu giá tài sản và điểm 7 Thông tư
03/2005/TT-BTP ngày 4/5/2005 của Bộ Tư pháp hướng dẫn Nghị định 05/2005/NĐCP thì kết quả bán đấu giá bị huỷ trong trường hợp trên. Trong trường hợp kết quả
bán đấu giá tài sản bị huỷ, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau
tài sản đã nhận. Do đó, theo quy định này, C phải hoàn trả xe ô tô cho tổ chức bán đấu
giá tài sản. B phải kiện tổ chức bán đấu giá để đòi lại tài sản. C được quyền yêu cầu tổ
chức bán đấu giá phải hoàn trả khoản tiền đã mua xe.
Trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình giao dịch với người mà theo bản
án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau

đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.Điều
kiện áp dụng trường hợp này là:
+ Người thiết lập giao dịch với người là chủ sở hữu tài sản theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải là người chiếm hữu ngay tình. Người
này không biết và không thể biết người thiết lập giao dịch với mình không phải là chủ
sở hữu tài sản.
+ Giao dịch được thiết lập giữa người thứ ba chiếm hữu ngay tình với người
mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài
sản.
+ Do bản án, quyền định bị huỷ, sửa nên người thiết lập giao dịch, giao dịch với
người thứ ba ngay tình không còn là chủ sở hữu tài sản nữa. Thông thường, bản án,
quyết định của Toà án bị huỷ, sửa do vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, trừ
những trường hợp huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải
quyết vụ án. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng dẫn đến người thứ ba
ngay tình được bảo vệ khi bản án, quyết định của Toà án bị huỷ, sửa.

12


Tuy nhiên pháp luật dân sự cũng có những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình như sau: Người thứ ba ngay tình được hưởng hoa lợi, lợi tức
từ thời điểm nhận được tài sản cho đến khi người đó biết hoặc phải biết về việc chiếm
hữu, sử dụng , được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật trừ trường hợp người
thứ ba ngay tình chiếm hữu trên cơ sở 10 năm đối với động sản và 30 năm đối với bất
động sản một cách ngay tình, liên tục và công khai.( Khoản 2, Điều 601BLDS).
Người thứ 3 ngay tình còn được yêu cầu người đã giao tài sản cho mình phải bồi
thường thiệt hại ( Điều 602 BLDS) . Tuy nhiên việc tìm được người này không phải
lúc nào cũng dễ dàng chưa nói đến việc họ có khả năng tài chính để bồi thường.
Người thứ ba ngay tình còn được chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thanh toán
các chi phí hợp lí mà họ đã bỏ ra đểm bảo quản hay làm tăng giá trị của tài sản. Còn

đối với người chiếm hữu không ngay tình thì không những họ không được hưởng các
quyền lợi trên mà còn phải bồi thường những lợi nhuận mà chủ sở hữu bị mất do
không khai thác được tài sản.
Tóm lại điều kiện để chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp tài sản kiện
đòi lại tài sản khi có đủ các yếu tố sau:
+ Cách thức tài sản rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp : vật rời
khỏi chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp pháp ngoài ý chí của họ hoặc theo ý chí của
họ nhưng người thứ ba có vật thông qua giao dịch không đền bù ( cho, tặng thừa kế
theo di chúc).
+ Tính chất của việc chiếm hữu tài sản : tài sản bị chiếm hữu một cách bất hợp
pháp.
+ Đối tượng tranh chấp trong vụ kiện là vật đặc định đang tồn tại trên thực tế và
hiện đang bị chiếm hữu bất hợp pháp, đang trong tay người chiếm hữu bất hợp pháp.
+Người thực tế đang chiếm giữ vật là người chiếm hữu không có căn cứ trái
luật không ngay tình.
+ Vật là bất động sản hoặc động sản phải đăng kí quyền sở hữu, trừ trường hợp
khác do pháp luật quy định.
III. Hậu quả của việc áp dụng phương thức kiện đòi tài sản

13


Khi phương thức kiện đòi lại tài sản thỏa mãn các điều kiện đặt ra thì người
chiếm hữu tài sản buộc phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu , người chiếm hữu hợp
pháp. Tuy nhiên hậu quả pháp lí sẽ khác nhau trong hai trường hợp:
+ Đối với chiếm hữu , sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình thì ý chí của họ hoàn toàn ngay thẳng và họ coi đó là tài sản của
mình thì họ cần được pháp luật bảo vệ.Vì vậy theo điều 200 BLDS thì những người
này được quyền sử dụng tài sản , do đó khi phải trả lại tài sản thì người chiếm hữu ,
sử dụng, được lợi không có căn cứ pháp luật ngay tình không phải hoàn trả hoa lợi,

lợi tức phát sinh từ tài sản đó ( Điều 601BLDS)
+ Đối với người đang chiếm hữu tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật và không ngay tình thì người đó luôn luôn phải trả lại tài sản đồng thời phải
hoàn trả cả hoa lợi, lợi tức có được trong thời gian chiếm hữu tài sản cho chủ sở hữu
hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
Như vậy sự ghi nhận của pháp luật đối với phương thức kiện đòi lại tài sản thể
hiện thái độ tôn trọng và bảo vệ tuyệt đối của nhà nước đối với quyền sở hữu hợp
pháp của chủ thể trong xã hội . Thông thường chủ sở hữu nào cũng muốn lựa chọn
phương thức đòi lại tài sản bởi vì đó là phương thức bảo hộ thiết thực và hiệu quả mà
không cần quan tâm đến khả năng tài chính của người phải thực hiện nghĩa vụ . Tuy
nhiên nếu không thỏa mãn được các điều kiện đòi lại tài sản thì chủ thể bị xâm phạm
có thể áp dụng phương thức kiện đòi bồi thường thiệt hại để bảo vệ lợi ích cho mình.
C. Thực tiến áp dụng và hướng hoàn thiện
1. Có sự mâu thuẫn, thiếu nhất quán trong quy định của pháp luật
Điều 256. Quyền đòi lại tài sản
Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu,
người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài
sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản
đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp
tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257
và Điều 258 của Bộ luật này.

14


Một là: Theo quy định này thì việc yêu cầu người chiếm hữu, sử dụng tài sản,
người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản bao gồm cả
chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp. Nhưng tại Điều 257BLDS, Điều 258 BLDS
thì các nhà lập pháp lại không công nhận quyền này cho người chiếm hữu hợp pháp
mà chỉ dành quyền này cho chủ sở hữu. Trong khi thực tế và về phương diện pháp lý

thì người chiếm hữu hợp pháp hoàn toàn có quyền thực hiện quyền yêu cầu đòi lại tài
sản vì lý do:
+ Thứ nhất, Điều 256 BLDS năm 2005 (về quyền đòi lại tài sản) dành quyền
kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài
sản không có căn cứ pháp luật cho cả chủ sở hữu và người chiếm hữu hợp pháp.
+ Thứ hai, cho phép người chiếm hữu hợp pháp khởi kiện đòi lại tài sản nhằm
đảm bảo cho chủ sở hữu thực hiện quyền trong thời hiệu khởi kiện.
+ Thứ ba, thừa nhận người chiếm hữu hợp pháp có quyền khởi kiện đòi lại tài
sản còn giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chính chủ sở hữu. Tránh việc kiện đòi lại
tài sản của chủ sở hữu trở nên phức tạp hơn hoặc không thể thực hiện được .
Hai là: Nhận thấy, trong hợp đồng không có đền bù thường là hợp đồng tặng
cho tài sản, nhưng có trường hợp người chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản thông
qua hành vi pháp lí đơn phương là sự định đoạt di chúc để lại di sản thừa kế chứ
không phải thông qua hợp đồng. Mặt khác điều 256 BLDS cho phép chủ sở hữu,
người chiếm hữu hợp pháp tài sản được đòi lại tài sản từ : người chiếm hữu, người sử
dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc
quyền sở hữu quyền chiếm hữu của mình, nhưng tại Điều 257 BLDS chỉ quy định cho
chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng kí quyền sở hữu từ người
chiếm hữu ngay tình, như vậy nhà làm luật cần bổ sung thêm quyền đòi lại tài sản từ
người sử dụng , được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.

15


Ba là: Thiếu chuẩn xác trong qui định về trường hợp ngoại lệ kiện đòi tài sản
của Điều 258 BLDS : Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và
bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này
thông qua bán đấu giá… Nếu việc bán tài sản thông qua quy trình đấu giá mà vi phạm
pháp luật thì chủ sở hữu có mất quyền kiện đòi tài sản không? hay trong mọi trường
hợp cứ qua bán đấu giá là chủ sở hữu bị triệt tiêu quyền này và “trao quyền” cho

người mua một cách vô điều kiện.
Bốn là: Việc sử dụng thuật ngữ “chiếm hữu không có căn cứ” và “chiếm hữu
bật hợp pháp” để đồng nhất về tính chất trong các qui định về nội dung bảo vệ quyền
sở hữu của BLDS là không đảm bảo về mặt học lý. Bởi lẽ: “Bất hợp pháp” có nghĩa
là không phù hợp quy định của pháp luật. “Không có căn cứ pháp luật” là không dựa
trên bất cứ một quy định nào của pháp luật đang có để xác định vấn đề. Hai ý nghĩa
này không phải lúc nào cũng đồng nhất nhau. Trên thực tế, sẽ có những trường hợp,
sự chiếm hữu là không dựa trên quy định nào của pháp luật nhưng nó không trái với
nguyên tắc chung của luật. Chẳng hạn, người được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật thì chỉ xác định đây là việc chiếm hữu không có căn cứ mà không phải là
chiếm hữu bất hợp pháp? Giả sử cách hiểu này hoàn toàn hợp lý và chính xác, thì quy
định tại Điều 260 BLDS cũng cần xem xét. Nếu chiếm hữu hợp pháp là chiếm hữu có
căn cứ pháp luật thì người chiếm hữu hợp pháp chính là chủ sở hữu và người không
phải chủ sở hữu trong một số trường hợp đã nêu tại Điều 183BLDS . Điều 260 BLDS
ghi rõ: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”. Vậy, “chủ
sở hữu” với tư cách là người chiếm hữu hợp pháp (Điều 183BLDS) và “chủ sở hữu”
nói riêng (Điều 260 BLDS) có là “một”?
Năm là: Chưa bao quát hết các trường hợp diễn ra trên thực tế của việc chuyển
dịch tài sản, Điều 257 chỉ quy định “Người chiếm hữu ngay tình có được động sản
thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản”.

16


Một câu hỏi đặt ra là các giao dịch dân sự một bên mà không có tính đền bù thì chủ sở
hữu có được thực hiện quyền này không? Ví dụ : thông qua việc nhận di sản thừa kế
theo di chúc; thông qua hứa thưởng, thông qua thi có giải.

2. Nguyên nhân của các tranh chấp quyền sở hữu


+ Do tầm quan trọng của sở hữu sự chiếm hữu của cái vật chất là nguyên nhân
dẫn đến sự phân hóa giai cấp làm xuất hiện nhà nước ở các hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau. Càng ngày theo sự phát triển càng cao của xã hội , nhu cầu về vật chất và
tinh thần cũng cao hơn , làm cho con người càng có nhiều tham vọng chiếm hữu của
cải vật chất cho mình . Không những chiếm hữu bằng các cách thức được pháp luật
cho phép , mà còn chiếm hữu bằng các phương thức trái pháp luật và đạo đức xã hội .
Do vậy nhu cầu của con người cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các
tranh chấp về quyền sở hữu.
+ Do sự hiểu biết và vận dụng pháp luật giữa các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ở các cấp khác nhau có sự khác nhau.
+ Quá trình điều tra, xác minh chứng cứ của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chưa đầy đủ , chưa xác thực khiến cho một vụ án phải xử đi xử lại nhiều lần,
ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
+ Do sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ cơ quan nhà nước có
thẩm quyền như nhận hối lộ làm sai lệch hồ sơ hoặc làm việc không hết tinh thần
trách nhiệm của mình, đùn đẩy trách nhiệm.
+ Do chính sách quản lí của nhà nước về một số lĩnh vực đặc biệt là đất đai còn
lỏng lẻo , chưa đồng bộ, nhất quán dẫn đến tình trạng gia đình này cá nhân này tự ý
lấn chiếm đất đai của gia đình khác, cá nhân khác, lấn chiếm giữa các bất động sản
liền kề…
+ Trình độ hiểu biết về pháp luật của người dân còn hạn chế kết hợp với sự yếu
kém về ý thức pháp luật đã dẫn đến tình trạng chiếm đoạt tài sản của người khác trái
pháp luật.
3. Hướng hoàn thiện

17


+ Theo quy định tại điều 257 BLDS và điều 258 BLDS thì BLDS cần bổ sung

thêm người có quyền kiện đòi tài sản là người chiếm hữu hợp pháp tài sản . Bởi theo
quy định tại điều 256 BLDS thì cả chủ sở hữu và người có quyền chiếm hữu hợp pháp
tài sản đều có quyền yêu cầu người chiếm hữu , được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật trả lại tài sản. Mặt khác việc bổ sung thêm quy định cho phép người chiếm
hữu hợp pháp tài sản cũng có quyền kiện đòi tài sản hoặc yêu cầu người chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật phải trả lại tài sản nhằm bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu
trong việc đảm bảo thời hiệu khởi kiện và tránh phức tạp vụ án khi người thứ ba đã
bán tài sản cho người khác và không tìm thấy họ.
+ Hiện nay pháp luật dân sự không quy định về giá trị tối thiểu của tài sản
khi khởi kiện dân sự nên điều này gây ra tốn kém cho đương sự khi khởi kiện tại tòa
án theo các phương thức dân sự để bảo vệ tài sản của mình . Do vậy BLDS cần quy
định thêm về giá trị tài sản khi đương sự khởi kiện tại tòa.
+ Pháp luật cần quy định về người chiếm hữu bất hợp pháp và người chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật. Bởi theo cách hiểu thông thường thì chiếm hữu hợp pháp
là chiếm hữu có căn cứ pháp luật , còn chiếm hữu bất hợp pháp là chiếm hữu không
có căn cứ pháp luật , mặc dù hai khái niệm này không hoàn toàn đồng nhất. Người
chiếm hữu, sử dụng hay được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật tức là không
có căn cứ quy định tại Điều 170 BLDS . Không có căn cứ pháp luật tức là trong pháp
luật không tồn tại quy định nào quy định về điều đó. Còn chiếm hữu bất hợp pháp là
sự chiếm hữu trái với các qua định của pháp luật.
+ Pháp luật cần quy định rõ những tài sản nào bắt buộc phải đăng kí quyền sở
hữu nhằm xác định chủ sở hữu đích thực của đối với tài sản nhất là tài sản chung của
vợ chồng hay của hộ gia đình. Đồng thời cần quy định rõ trong các văn bản luật các
trường hợp cần có sự đồng ý của các đồng chủ sở hữu trong một giao dịch về tài sản
với những giá trị nhất định nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của các chủ thể.
+ Cũng cần có sự phân biệt tài sản chiếm hữu không có căn cứ phap luật là
Tiền để xác đinh phương thức bảo vệ quyền sở hữu . Bởi tiền là tài sản tự do lưu
thông và là vật trung gian trong giao lưu thương mại . Chẳng hạn trong phương thức
kiện đòi tài sản thì điều kiện đối với vật phải là vật đang còn tồn tại và là vật đặc định.
18



Tuy nhiên khi một người cho người khác vay tiền thì lúc đòi lại tiền người đó không
thể đòi lại chính những đồng tiền mình đã vay mà chỉ có thể thể đòi lại số tiền đã cho
vay. Trong trường hợp một người trộm căp tiền của người khác để mua tài sản thì
người bán ngay tình hoặc không ngay tình đều không phải trả lại tiền đã nhận nếu
không ngay tình thì phải bồi thường thiệt hại.

KẾT BÀI
*******************************************
Như vậy, với những trình bày ở trên, có thể thấy kiện đòi tài sản là một phương
thức bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu tài sản và người chiếm hữu hợp
pháp tài sản khi tài sản đó rời khỏi quyền chiếm hữu của chủ sở hữu và người chiếm
hữu hợp pháp. Chứng tỏ pháp luật đã ngày càng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân trong quan hệ tài sản. Bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ mà Bộ luật dân
sự năm 2005 đem lại thì vẫn còn tồn tại một số những hạn chế cần thiết phải sửa đổi ,
bổ sung để hoàn thiện chế định bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân để thực sự
pháp luật đi vào thực tiễn và điều chỉnh những quan hệ xã hội góp phần quan trọng
trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

19


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
A. Khái quát về vấn đề kiện đòi tài sản trong luật Dân sự Việt Nam...............
B. Cơ sở lí luận về phương thức kiện đòi tài sản trong BLDS năm 2005........
I. Khái niệm và đối tượng của phương thức kiện đòi tài sản...........................
1. Khái niệm kiện đòi tài sản........................................................................

2. Đối tượng của vụ kiện đòi tài sản..............................................................
II. Những yêu cầu của pháp luật đối với phương thức kiện đòi tài sản........
1.Đối với chủ thể quyền khởi kiện( nguyên đơn)...............................................
2. Đối với người bị kiện ( bị đơn) .......................................................................
a. Người bị kiện là người chiếm giữ không có căn cứ pháp luật, không ngay
tình.....................................................................................................................
b. Nếu người bị kiện là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng
ngay tình .............................................................................................................
b.1) Đối với tài sản là động sản không phải đăng kí quyền sở hữu .................
b.2) Đối với tài sản là động sản phải đăng kí quyền sở hữu hoặc là bất động
sản......................................................................................................................
III. Hậu quả của việc áp dụng phương thức kiện đòi tài sản........................
C. Thực tiến áp dụng và hướng hoàn thiện ..................................................
1. Có sự mâu thuẫn, thiếu nhất quán trong quy định của pháp luật............
2. Nguyên nhân của các tranh chấp quyền sở hữu........................................
3. Hướng hoàn thiện........................................................................................
KẾT BÀI

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I và II, Nxb.

CAND, Hà Nội, 2009.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. Giáo dục,

Hà Nội, 2009.

20


3. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam,


Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2001
4.
5.
6. .
7. Nguyễn Mạnh Bách, Luật dân sự Việt Nam lược khảo, Nxb. CTQG, Hà Nội,
2004.
8. Bộ môn luật dân sự, Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự
Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 12/2007.
9. Đỗ Ngọc Đại, Đỗ Văn Hữu, “Phải xác định căn cứ pháp lí khi kiện đòi tài sản”,
().

21



×