mở đầu
Với xu hướng hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện
nay, việc cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, giữa các sản
phẩm cùng loại trên thị trường là không thể tránh khỏi.
Do đó, để tồn tại và phát triển,các doanh nghiệp cần có một cơ
chế quản lý chặt chẽ và hệ thống cung cấp thông tin có hiệu quả. Kế
toán là một công cụ quan trọng phục vụ cho hoạt động quản lý của
doanh nghiệp, trong đó có kế toán vật liệu. Kế toán vật liệu luôn được
xác định là một khâu trọng yếu của toàn bộ công tác kế toán trong
doanh nghiệp sản xuất.
Nguyên vật liệu (NVL) là yếu tố không thể thiếu và thường chiếm tỉ
trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất- kinh doanh. Do đó, quản lý tốt
khâu thu mua, dự trữ và sử dụng NVL là một trong những biện pháp
giúp các doanh nghiệp đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi
phí, giảm giá thành và tăng lợi nhuận. Nhưng để thực hiện được điều
đó các doanh nghiệp phải áp dụng một phương pháp tính giá NVL phù
hợp. Nên có thể nói tính giá NVL là một công tác quan trọng trong việc
tổ chức hạch toán NVL, ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất, giá
vốn hàng bán và lợi nhuận - yếu tố quyết định sự tồn tại của doanh
nghiệp.
Đây là một vấn đề quan trọng,tuy không còn mới nhưng vẫn
chưa được nhiều người quan tâm. Chính vì vậy, chúng em quyết định
chọn đề tài:” Các phương pháp xác định giá trị NVL xuất dùng và
ảnh hưởng của nó tới chi phí sản xuất, giá vốn hàng bán và lãi
trong kỳ của doanh nghiệp” với mục đích tìm hiểu rõ hơn về vai trò
cũng như ảnh hưởng của phương pháp tính giá NVL đến kế hoạch
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Khái quát chung về nguyên vật liệu.
phần II:Các phương pháp xác định giá trị NVL xuất dung và
ảnh hưởng của nó tới chi phí sản xuất, giá vốn hàng bán, lợi nhuận
của doanh nghiệp .
phần III: phương hướng lựa chọn phương pháp tính giá NVL
xuất dùng ở các doanh nghiệp .
I.Khái quát chung về nguyên vật liệu(NVL)
1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của NVL.
Vật liệu là một trong những loại hàng tồn kho thuộc tài sản lưu
động. Vật liệu được sử dụng phục vụ cho lao động, thể hiện dưới
dạng vật hoá. Trong các doanh nghiệp, vật liệu được sử dụng phục vụ
cho việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ hay sử
dụng cho bán hàng, quản lý doanh nghiệp.
Đặc điểm của vật liệu là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất
kinh doanh nhất định và toàn bộ giá trị vật liệu được chuyển hết một
lần vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Khi tham gia vào hoạt động sản
xuất kinh doanh, vật liệu bị biến dạng hoặc tiêu hao hoàn toàn.
NVL tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Do đó, để quá
trình sản xuất được diễn ra liên tục, doanh nghiệp phải tiến hành dự
trữ NVL. Hay vật liệu là một tài sản dự trữ của quá trình sản xuất, giá
trị NVL tồn kho là giá trị vốn lưu động dự trữ cho sản xuất của doanh
nghiệp.
2. Vai trò của NVL.
Vì là một trong ba yếu tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình
sản xuất nên trước hết nó có vai trò quyết định tới sản phẩm sản xuất
ra. Trong đó, giá thành NVL ảnh hưởng đến chi phí cấu thành nên giá
thành sản phẩm và chất lượng NVL tác động trực tiếp tới chất lượng
sản phẩm.
Mặt khác, toàn bộ giá trị NVL được chuyển dịch một lần vào giá
trị sản phẩm nên chi phí NVL thường chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ
chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Vì vậy, tiết kiệm chi phí NVL
trong quá trình sản xuất một cách tối đa, song vẫn đảm bảo chất
lượng của sản phẩm là biện pháp giảm giá thành một cách tốt nhất, là
một mục tiêu phấn đấu của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Đối với tài sản của doanh nghiệp, NVL là thành phần quan
trọng của vốn lưu động, đặc biệt vốn dự trữ. Để nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn lưu động thì doanh nghiệp cần tăng tốc độ lưu chuyển của
vốn lưu động doanh nghiệp. Muốn thế, đơn vị không thể tách rời việc
nâng cao hiệu quả dự trữ và sử dụng NVL một cáchh hợp lý và tiết
kiệm.
Tóm lại, có thể nói NVL có vai trò rất quan trọng trong quá trình
sản xuất kinh doanh, nên việc tổ chức quản lý NVL có hiệu quả là yêu
cầu bức thiết đối với mọi doanh nghiệp. Quản lý tốt NVL sẽ cho phép
doanh nghiệp sử dụng tốt hơn nguồn vốn của mình, tiết kiệm các
khoản chi phí, đảm bảo quá trình sản xuất được liên tục.
3. Phân loại NVL.
NVL sử dụng trong các doanh nghiệp có nhiều loại, nhiều thứ
có vai trò, công dụng và tính năng lý hoá khác nhau. Do đó, đòi hỏi các
doanh nghiệp phải phân loại NVL để thống nhất đối tượng quản lý, đối
tượng hạch toán trong quá trình cung cấp, sử dụng và dự trữ ,tổ chức
tốt việc quản lý và hạch toán NVL.
Chính vì NVL phong phú, đa dạng lại thường xuyên biến động
trong quá trình sản xuất nên có nhiều cách phân loại NVL. Nhưng nhìn
chung, NVL được phân loại theo ba tiêu thức cơ bản: theo vai trò và
công dụng của NVL, theo chức năng của NVL đối với quá trình sản
xuất và theo nguồn hình thành NVL.
* Căn cứ theo vai trò và công dụng của NVL trong quá trình
sản xuất. Đây là căn cứ để phân loại NVL thông dụng nhất. Theo
phương pháp này NVL được chia thành các loại sau:
- NVL chính
- NVL phụ
- Nhiên liệu
- Phụ tùng thay thế
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản
- Vật liệu khác
* Căn cứ vào mục đích sử dụng của NVL đối với quá trình
sản xuất:
Theo cách chia này, NVL được chia thành ba loại:
- Vật liệu dùng cho sản xuất
- Vật liệu dùng cho hoạt động bán hàng
- Vật liệu dùng cho hoạt động quản lý doanh nghiệp
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp quản lý , kiểm tra
chi phí vật liệu của từng hoạt động sản xuất kinh doanh để từ
đó ban lãnh đạo đưa ra quyết định dùng cho quản lý và kinh
doanh.
* Căn cứ vào nguồn hình thành của vật liệu:
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng có hai nguồn hình thành
vật liệu, vật liệu thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và vật liệu
không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
-Đối với vật liệu thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, doanh
nghiệp có thể chia vật liệu thành: vật liệu mua ngoài, vật liệu tự sản
xuất, vật liệu nhận vốn góp liên doanh, biếu tặng, cấp phát, phế liệu
thu hồi.
-Vật liệu không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp là vật
liệu do doanh nghiệp khác gửi nhờ, vật liệu thừa không rõ nguyên
nhân.
Trên cơ sở phân loại vật liệu, kế toán có thể hoàn thành
nhiệm vụ của mình, cung cấp những thông tin tổng quát về mặt giá trị
tình hình biến động vật liệu một cách liên tục chính xác.
4. Tính giá thực tế vật liệu nhập kho:
Giá thực tế của NVL là loại giá được hình thành trên cơ sở các
chứng từ hợp lệ chứng minh các khoản chi hợp pháp của doanh
nghiệp để tạo ra NVL. Giá thực tế của NVL nhập kho được xác định
tuỳ từng nguồn nhập.
- Với vật liệu mua ngoài:
Giá thực tế =Giá mua ghi + chi phí thu mua trong
NVL trên hoá đơn quá trình thu mua
Trong đó, giá trên hoá đơn là giá mua không có thuế giá trị gia
tăng(GTGT) đối với doanh nghiệp tính giá theo phương pháp khấu
trừ, và là giá bao gồm thuế GTGT đối với doanh nghiệp tính giá theo
phương pháp trực tiếp.
Chi phí thu mua bao gồm chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản từ
nơi mua đến kho của doanh nghiệp, chi phí thuê kho bãi trung gian,
công tác phí của cán bộ thu mua, các khoản thuế, lệ phí phải nộp
phát sinh trong quá trình thu mua và hao hụt trong định mức được
phép tính vào giá vật liệu.( Cũng được xác định trên cơ sở phương
pháp tính thuế GTGT mà doanh nghiệp chọn.)
- Với vật liệu tự chế:
Giá thực tế = Trị giá thực tế + Chi phí gia công
VL VL xuất kho chế biến
Chi phí chế biến bao gồm các khoản chi phí thực tế mà doanh nghiệp
đã chi ra để chế biến vật liệu.
- Với vật liệu thuê ngoài gia công chế biến:
Giá thực tế nhập kho là giá thực tế của vật liệu xuất thuê ngoài gia
công cộng với chi phí bốc dỡ, vận chuyển đến nơi thuê gia công và
từ nơi đó về doanh nghiệp, cộng tiền thuê ngoài gia công.
- Với vật liệu được góp vốn liên doanh :
Giá thực tế của NVL là giá trị NVL được các bên tham gia góp vốn
thừa nhân.
- Với vật liệu vay mượn tạm thời của đơn vị khác thì giá thực tế
nhập kho được tính theo giá thị trường hiện tại của số NVL đó.
- Với phế liệu thu hồi từ quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh
nghiệp thì giá thực tế được tính theo đánh giá thực tế hoặc theo giá
bán trên thị trường.
II. Các phương pháp xác định giá trị NVL xuất dùng
và ảnh hưởng của nó tới chi phí sản xuất, giá vốn hàng
bán và lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp.
1. Các phương pháp xác định giá trị NVL xuất dùng:
Để xác định giá thực tế ghi sổ của vật liệu xuất dùng trong kỳ,
tuỳ theo đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp, yêu cầu quản lý
và trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán, có thể sử dụng một trong
các phương pháp sau đây:
Phương pháp giá thực tế đích danh.
Phương pháp nhập trước - xuất trước(FIFO)
Phương pháp nhập sau -xuất trước(LIFO).
Phương pháp giá bình quân.
Phương pháp giá hạch toán.
1.1 Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này, vật liệu xuất kho sẽ được sử dụng giá
nhập để xác định ( nhập giá nào xuất theo giá đó). Vật liệu sẽ được
quản lý riêng cả về hiện vật và giá trị theo từng lô, từng lần nhập. Xuất
vật tư của lô nào sẽ tính theo giá thực tế của lô đó. Phương pháp giá
thực tế đích danh thường sử dụng trong các doanh nghiệp có ít loại
vật liệu hoặc vật liệu ổn định, có tính tách biệt và nhận diện được. Đối
với những doanh nghiệp có nhiều loại NVL với số lượng lớn thì không
thể áp dụng phương pháp này.
Phương pháp này có ưu điểm là công tác tính giá NVL được
thực hiện kịp thời và thông qua việc tính giá NVL xuất kho, kế toán có
thể theo dõi được thời hạn bảo quản của từng lô NVL.
Tuy nhiên, để áp dụng được phương pháp này, thì điều kiện
cốt yếu là hệ thống kho tàng của doanh nghiệp cho phép bảo quản
riêng từng lô NVL nhập kho.
1.2.Phương pháp nhập trước, xuất trước.
Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu, dụng cụ, sản
phẩm hàng hoá nào nhập trước thì xuất trước, xuất hết đợt nhập trước
mới đến đợt nhập sau theo giá thực tế của từng đợt hàng xuất. Nói
cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của vật liệu,
dụng cụ, sản phẩm và giá mua thực tế của hàng hoá nhập kho trước
sẽ được sử dụng làm giá để tính giá thực tế của vật liệu, dụng cụ, sản
phẩm xuất trước. Và do vậy, giá trị vật liệu, dụng cụ, sản phẩm, hàng
hoá tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số vật liệu,dụng cụ, sản
phẩm,hàng hoá nhập kho sau cùng.
Ví dụ: tại 1 doanh nghiệp có tài liệu sau về vật liệu A(đơn
vị:1000 đồng)
I. Tình hình đầu kỳ: tồn kho 1000m vật liệu A, đơn giá
25.
II. Trong tháng 2/N có các nghiệp vụ sau phát sinh:
1. Ngày 3: xuất 600 m để sản xuất sản phẩm
2. ngày 7:thu mua nhập kho 1600 m, giá mua ghi trên
hoá đơn là 44.000( trong đó thuế GTGT là 4.000).
3. Ngày 15: xuất 500 m để tiếp tục chế tạo sản phẩm.
4. Ngày 24: xuất 1.100 m cho sản xuất sản phẩm.
5. Ngày 28: thu mua nhập kho 400 m, giá mua đơn vị
chưa có thuế GTGT là 25, thuế suất thuế GTGT 10%.
Với ví dụ trên, theo phương pháp nhập trước, xuất trước giá
thực tế của vật liệu A xuất dùng trong kỳ được xác định như sau:
Ngày
thán
g
Nội
dùn
g
Số lượng (m)
Nhập Xuất Tồn
Đơn
giá
Thành tiền
Nhập Xuất tồn
1/2
tồn - - 1,00
0
25 - - 25,000
3/2 xuất - 600 400 25 - 15,000 10,000
7/2 nhậ
p
1,60
0
- 2,00
0
25.22
5
40,36
0
- 50,360
15/2 xuất -
-
400
100
1,60
0
1,50
0
25
25.22
5
-
-
10,000
2,522.5
40,360
37,837.
5
24/2 xuất - 1,10
0
400 25.22
5
- 27,747.
5
10,090
28/2 nhậ
p
400 - 800 25 10,00
0
- 20,090
cộn 2,00 2,20 - - 50,36 55,270 -
g 0 0 0
Phương pháp này có ưu điểm là nó gần đúng với luồng nhập -
xuất NVL trong thực tế. Không kể trường hợp đặc biệt, việc nhập -
xuất NVL trong thực tế gần như là nhập trước - xuất trước. Hơn thế
nữa, trong trường hợp NVL được quản lý theo đúng hình thức nhập
trước - xuất trước, phương pháp này sẽ gần với phương pháp giá
thực tế đích danh, do đó sẽ phản ánh tương đối chính xác giá trị NVL
tồn kho và xuất kho.
Một ưu điểm khác của phương pháp nhập trước - xuất trước là
cho phép kế toán có thể tính giá NVL xuất kho kịp thời và giá trị NVL
sẽ được phản ánh gần sát với giá trị thị trường của nó. Bởi vì theo
phương pháp nhập trước - xuất trước, giá trị NVL tồn kho sẽ bao gồm
giá trị của NVL được mua ở những lần mua sau cùng.
Nhược điểm của phương pháp nhập trước - xuất trước là phải
tính giá theo từng danh điểm NVL và phải hạch toán chi tiết NVL tồn
kho theo từng loại giá nên tốn nhiều công sức. Ngoài ra, phương pháp
này làm cho chi phí kinh doanh của doanh nghiệp không phản ứng kịp
thời với giá cả thị trường của NVL.
Phương pháp nhập trước - xuất trước chỉ thích hợp với
những doanh nghiệp có ít danh điểm NVL, số lần nhập kho của mỗi
danh điểm không nhiều.
1.3.Phương pháp nhập sau, xuất trước.
Phương pháp này giả định rằng vật liệu, công cụ nào nhập sau
sẽ được xuất trước, xuất hết đợt nhập sau mới sử dụng đến đợt nhập
trước đó. Xuất của đợt nhập nào thì lấy theo giá nhập của đợt nhập
đó.
Với ví dụ trên, khi sử dụng phương pháp nhập sau, xuất trước
sẽ có kết quả là:
Ngày
thán
g
Nội
dùng
Số lượng (m)
Nhập Xuất Tồn
Đơn
giá
Thành tiền
Nhập Xuất Tồn
1/2 Tồn - - 1,00
0
25 - - 25,000
3/2 Xuất - 600 400 25 - 15,000 10,000
7/2 Nhậ
p
1,60
0
- 2000 25.22
5
40,36
0
- 50,360
15/2 Xuất - 500 1,50
0
25.22
5
- 12,612.
5
37,747.
5
24/2 Xuất - 1,10
0
400 25.22
5
- 27,747.
5
10,000
28/2 Nhậ
p
400 - 800 25 10,00
0
- 20,000
Cộn
g
2,00
0
2,20
0
- 50,36
0
55,360
Về cơ bản ưu, nhược điểm và điều kiện vận dụng của
phương pháp nhập sau - xuất trước cũng giống như phương pháp
nhập trước - xuất trước, nhưng sử dụng phương pháp nhập sau - xuất
trước giúp cho chi phí kinh doanh của doanh nghiệp phản ứng kịp
thời với giá cả thị trường của NVL.
Phương pháp nhập sau - xuất trước có thể làm cho chi phí
quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp cao vì doanh nghiệp thường
xuyên mua thêm vật tư nhằm tính vào giá vốn hàng bán những chi phi
mới nhất với giá cao. Điều này trái ngược với xu hướng quản lý hàng
tồn kho một cách có hiệu quả, giảm tối thiểu lượng hàng tồn kho nhằm
cắt giảm chi phí quản lý hàng tồn kho.
1.4.Phương pháp giá bình quân.
Theo phương pháp này, căn cứ vào giá thực tế của NVL tồn
đầu kỳ và nhập trong kỳ, kế toán xác định được giá bình quân của một
đơn vị NVL, căn cứ vào lượng NVL xuất trong kỳ và giá đơn vị bình
quân để xác định giá thực tế xuất trong kỳ.
Giá thực tế = Số lượng VL x Đơn giá
của vật liệu xuất kho xuất kho bình quân
Trong đó, đơn giá bình quân có thể tính theo một trong ba cách
sau:
*Theo đơn giá bình quân cả kỳ dự trữ:
Giá thực tế của VL tồn kho đầu kỳ
Và nhập trong kỳ
Đơn giá bq =
cả kỳ dự trữ Số lượng VL tồn đầu kỳ và nhập
trong kỳ
Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có ít
danh điểm NVL nhưng số lần nhập,xuất của mỗi danh điểm nhiều.
Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ có ưu điểm là
giảm nhẹ được việc hạch toán chi tiết NVL so với phương pháp nhập
trước - xuất trước và nhập sau - xuất trước, không phụ thuộc vào số
lần nhập, xuất của từng danh điểm NVL.
Nhược điểm của phương pháp này là dồn công việc tính giá
NVL xuất kho vào cuối kỳ hạch toán nên ảnh hưởng đến tiến độ của
các khâu kế toán khác, đồng thời sử dụng phương pháp này cũng
phải tiến hành tính giá theo từng danh điểm NVL.
Theo ví dụ trên:
25,000 + 40,000 + 360 +10,000
Giá đơn vị bq =
cả kỳ dự trữ 1,000 + 1,600 + 400
Giá vật liệu xuất dung trong tháng 2/N:
Ngày 3 : 600 x 25.12 = 15,072
Ngày 15: 500 x 25.12 = 12,560
Ngày 24: 1,100 x 25.12 = 27,632
Tổng giá trị xuất dung trong kỳ: 55,264
*Theo đơn giá bình quân sau mỗi lần nhập:
Giá thực tế của VL Giá thực tế của
tồn kho trước + VL nhập kho thuộc
đợt nhập đó đợt nhập đó
Đơn giá bq
Sau mỗi =
lần nhập Số lượng VL Số lượng VL nhập
tồn kho trước + kho thuộc đợt
đợt nhập đó nhập đó