HÀNG HÓA CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG: TIẾP CẬN
HÀNG SẢN XUẤT.
1. Giới thiệu
Chương này liên quan tới những phương pháp liên hệ sự thay đổi chất
lượng môi trường với sự thay đổi mối quan hệ sản xuất. Như cách định giá, giá
trị môi trường và chi phí du lịch, những phương pháp này là những cách tiếp cận
giá trị hàng hóa phi thị trường. Trong thực tế, để dễ dàng khi xem xét, phương
pháp chi phí du lịch có thể coi như 1 trường hợp đặc biệt của phương pháp tiếp
cận hàm sản xuất. Những hàm sản xuất này có thể liên quan tới lĩnh vực sản
xuất hàng hoá, dịch vụ hoặc dịch vụ sản xuất hộ gia đình, cái tạo ra lợi ích xác
định . Cách mô tả sau cùng về hành vi hộ gia đình này dường như không thông
dụng ở cảm tưởng đầu tiên. Mặc dù vậy, mọi người có thể thấy các hộ gia đình
cũng kết hợp nhiều hàng hoá sẵn có để sản xuất hàng hóa khác.
Ví dụ, một hộ gia đình nông thôn có thể kết hợp chất lượng nước tại nguồn, với
thiết bị xử lý nước để sản xuất nước uống. Sự tăng mức độ ô nhiễm của nguồn
nước ( nitrat hóa ) dẫn đến hộ tiêu dùng giảm mức độ tiêu dùng nước hoặc có
thể tăng cường mua thiết bị xử lý nước. Cách khác, hộ gia đình có thể dành thời
gian và điện đun nước nếu có sự ô nhiễm.
Các doanh nghiệp cũng kết hợp những đặc tính môi trường tự nhiên với những
đầu vào được mua để sản xuất hàng hoá.
Vd: 1 nông trang kết hợp chất lượng không khí ( Q1 ) và chất lượng nước ( Q2 )
với đầu vào được mua để sản xuất sữa đậu nành.
X
2
=f (L, K, I,Q, Q
2
)
L, K là lực lượng lao động với vốn đầu vào được mua như phân bón,
thuốc trừ sâu và X
2
là đầu ra của sữa đậu nành. Nếu chúng ta giả sử rằng ... là
xác định và sự giảm chất lượng không khí, các yếu tố khác không thay đổi, sẽ
làm giảm mức đầu ra. Nói 1 cách khác, để duy trì X
2
, lương đầu vào khác phải
được tăng lên. Giá trị thay đổi Q
1
có thể từ đó biết được ước lượng bằng cách
định giá tác động đối với sản xuất. Một phương pháp tiếp cận tương tự được
nhìn nhận đối với sự thay đổi của Q
2
.
Tất cả những phương pháp được phát hoạ trong chương này đã chia sẽ
cho ta thấy những đặc trưng sự thay đổi chi phí bởi sự cần thiết của việc thay thế
đầu vào khác do sự thay đổi môi trường. Chúng ta tìm được 2 phương pháp:
phương pháp chi phí tránh và phương pháp liều lượng - đáp ứng. Mối liên kết
giữa 2 phương pháp là đánh giá tình trạng bệnh tật của con người và số tử vong,
là kết quả để đưa ra quyết định phê chuẩn 1 dự án và xác định tiêu chuẩn môi
trường.
2. Phương pháp chi phí tránh.
2.1. Khái niệm
Khi xảy ra sự thay đổi chất lượng môi trường, hộ gia đình có thể phản ứng
lại. Trong trường hợp suy giảm chất lượng, chi phí bỏ ra cũng giảm đi và bảo vệ
hộ gia đình không bị giảm phúc lợi. Giá trị của việc cải tiến chất lượng môi
trường có thể lập tức dẫn đến việc các chi phí bằng các hành động phòng ngừa,
nghĩa là giảm chi phí có thể tránh được ( AE ). Nếu AE và chất lượng môi
trường là những sản phẩm thay thế hoàn hảo, sự phỏng đoán chính xác những
hiệu quả phúc lợi của hộ gia đình bởi sự thay đổi chất lượng môi trường sẽ được
cung cấp bởi sự thay đổi kết hợp những thay đổi trong AE ( Smith, 1991 ).
Một ví dụ sự gia tăng tiếng ồn máy bay do có 1 sân bay mới. nếu thiếu sự
can thiệp, hộ gia đình sẽ tham dự vào hành vi có thể tránh được ( như tránh xa
khỏi khu vực đó ) (đây là 1 tác động có thể tính vào giá trị môi trường ) hoặc
chịu đựng tiếng ồn ở nhà của họ. Trên lý thuyết, lợi ích của chính sách giảm
tiếng ồn máy bay ( Vd như yêu cầu các phi cơ phản lực yên tĩnh hơn ) có thể dẫn
tới tránh được những chi phí của AE. Tuy nhiên phương pháp này gần như tất
yếu tạo ra sự đánh giá thấp những lợi ích của 1 chính sách đến hộ gia đình. Đó là
bởi vì AE và hoà bình và sự yên tĩnh trong vd này là sự thay thế không hoàn
hảo, hộ gia đình có thể mua ở mức mong muốn Q=AE. Dù vậy thậm chí người
tiêu dùng trực tiếp, AE và Q ít khi thay thế hoàn hảo. Ví dụ, hộ gia đình có thể
chịu đựng tiếng ồn trong vườn như vậy, tiền tiết kiệm trong AE có thể đánh giá
thấp của việc giảm mức độ ồn , vì trong một số khía cạnh của ô nhiễm , tiếng ồn
không thể bù đắp bởi AE( trừ khi các cá nhân chuyển nhà ).
Một số khó khăn khác có thể tồn tại liên quan tới sự đánh giá của AE
trong những thay đổi chất lượng môi trường. Sự đầu tư vào thiết bị bảo vệ có thể
có khó khăn trong việc đảo ngược ngăn ngừa hộ gia đình dịch chuyển khỏi điểm
chi phí biên và lợi ích biên của sự tránh né là bằng nhau. Nhà phân tích phải bảo
đảm rằng những thay đổi trong AE được sinh ra hoàn toàn bởi sự thay đổi môi
trường và không phải yếu tố nào khác. Cuối cùng AE có thể tạo ra những lợi ích
khác hơn sự tránh ô nhiễm lắp 2 lần kính không chỉ bớt mức độ ồn mà còn giảm
sự mất đi năng lượng môi trường và như vậy tiết kiệm tiền điện. Điều đó có thể
làm cho AE đánh giá cao chi phí tăng mức độ ồn.
Bartik ( 1988 ) chỉ ra rằng, dưới những điều kiện tất yếu chi phí bảo vệ
cung cấp cả giới hạn trên và dưới thước đo phúc lợi chính xác của giá trị tương
đương và bồi thường cho sự biến đổi. Điều đó được minh họa bằng đồ thị 6.1.
( nguồn từ Bartik )
Chất lượng môi trường, Q có thể được mua bởi cam kết chi phí bảo vệ,
đây là một hàm của giá của hành vi tránh được p, p .... mức độ ô nhiễm của .../
Q
m
và ... theo thứ tự đường cầu Marshallian of Q ( ... điều kiện hoà bình và yên
tĩnh) và đường cầu Hicksian of Q với mức thay đổi đầu mức hiệu dụng V
o
. Nếu
ô nhiễm giảm từ ... thì hộ gia đình có thể giảm chi phí bảo vệ. Sự giảm này được
phần a là phần hộ gia đình muốn có mức thay đổi mức hiệu dụng của chất lượng
môi trường Q
o.
Quy mô đền bù của việc giảm ô nhiễm là phần [ a+b]. Quy mô
giá trị tương đương sẽ lớn hơn phần này hiệu dụng, V
1
và được biểu thị bằng
phần [ a+b+c+d ].
Dù vậy tiền tiết kiệm trong chi phí bảo vệ cần thiết tới mức sự thay đổi sau này
của Q được đo lường, phần đó sẽ rộng hơn [ a+b+c+d+e ].
Sự thay đổi kéo theo trong chi tiêu cho việc bảo vệ sẽ không là các phạm vi mà
là phần [ a+g+h ].
3 Hàm liều lượng đáp ứng
Phương pháp liều lượng - đáp ứng nghiên cứu mối quan hệ giữa biến chất
lượng môi trường và mức sản lượng đầu ra trên thành phẩm. Sản lượng đầu ra
có thể được định nghĩa hoặc là giới hạn về số lượng.( Ví dụ: m
3
gỗ được sản
xuất ở 1 khu rừng ) hoặc là giới hạn về chất lượng ( Ví dụ: như mức độ thiệt hại
của các ngôi nhà bởi sự phá huỷ của axit ) ví dụ chung nhất là mối liên quan
chất lượng không khí ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ( Ví dụ Adams et al
1989, Adams et al. 1982 ) và sự ô nhiễm ảnh hưởng đến nghành công nghiệp cá
( Ví dụ Kahn, Kemp, 1985, Kahn. 1991, Sivandu and Deake. 1991 ).
Các phương pháp kỹ thuật đã tiếp nhận những thông tin khoa học tự nhiên
về ảnh hưởng vật lý của ô nhiễm và dùng vào 1 mô hình kinh tế. Như vậy
phương pháp có thể chia làm 2 phần :
+ Nguồn gốc của liều lượng chất ô nhiễm và hàm phản ứng đáp lại/
+ Mô hình kinh tế và sự áp dụng của nó.
Phần còn lại ở phần này sẽ sử dụng ví dụ của sự ô nhiễm không khí ảnh
hưởng tới vụ mùa nông nghiệp.
Một sự thay đổi trong mức độ ô nhiễm sẽ làm thay đổi yếu tố và các khả
năng thay thế, hạn chế sự lựa chọn sản xuất nông nghiệp và vì thế ảnh hưởng
đến quyết định của người nông dân trong việc theo đuổi mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Để có thể dự đoán sự thu về hay mất đi của kết quả lợi nhuận từ một sự
thay đổi đòi hỏi phải có sự phân tích về quá trình sinh học, khả năng công nghệ
và sự tương tác của chúng với quyết định của nhà sản xuất và ảnh hưởng của sự
thay đổi kết quả sản xuất tới chi tiêu phúc lợi xã hội. Quy trình sinh học hay dữ
liệu sản xuất đáp ứng đã đưa ra mối liên hệ giữa liều lượng chất ô nhiễm và các
thông số biểu diễn hệ thống sản lượng mùa màng. Mối quan hệ đáp ứng có thể
xác định trực tiếp sản lượng từ sự thử nghiệm sinh học, xác định gián tiếp từ đối
tượng quan sát sản lượng và dữ về cách cư sử của nhà sản xuất ( thông tin lấy từ
tài liệu tích tụ từ trước ) hay từ sự kết hợp của nguồn dữ liệu. Trình tự của mô
hình dựa trên mô hình của nhà sản xuất ( Ví dụ như hàm sản xuất hay hàm chi
phí ) phù hợp với quan điểm phân tích kinh tế và có thể xác định được một hàm
liều lượng - đáp ứng rõ ràng.
Người ta đã cố gắng áp dụng hàm chi phí và hàm sản xuất để xác định số
lượng thiệt hại mùa màng theo vùng từ khí ozôn. Nhưng sự khác nhau giữa dữ
liệu và số lượng thống kê đã hạn chế ứng dụng của chúng.
Hiện tại hàm liều lượng đáp ứng được tính toán kỹ càng để áp dụng rộng
rãi ... quyết định kinh tế về ảnh hưởng môi trường tới nông nghiệp.