Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM HỆ -TƯ TƯỞNG ĐỨC- CỦA C.MÁC VÀ F.ENGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.19 KB, 14 trang )

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC” CỦA C.MÁC VÀ
F.ENGHEN
I. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa của tác phẩm.
Vào những năm 1845-1846, Tây Âu đang tiến nhanh đến một cuộc cách
mạng mới. Phong trào công nhân phát triển mạnh và rộng rãi khắp châu Âu nhưng
chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Lúc này C.Mác và F.Enghen đã đi sâu vào hoạt động chính trị, hai ông nhận
thấy cần phải xây dựng một lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học để phân ranh giới rõ
ràng giữa hệ tư tưởng của giai cấp vô sản với hệ tư tưởng của giai cấp tư sản, tiểu
tư sản, vạch con đường đi đến chủ nghĩa cộng sản một cách hiện thực mà giai cấp
vô sản đang đi vào một cách tự phát.
Theo F.Enghen, lúc này (mùa xuân 1845) quan niệm duy vật ở C.Mác đã
hình thành đầy đủ. Hai ông nhất trí lấy quan niệm đó để phê phán toàn bộ nền
móng triết học cổ điển Đức sau Heghen.
Phê phán “Hệ tư tưởng Đức” là mục đích của tác phẩm: ”Muốn đánh giá
đúng cái bịp bợm triết học đó, nó thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị dân
Đức trung thực một tình cảm dân tộc dễ chịu, muốn hiểu rõ tính nhỏ nhen, tính
thiển cận địa phương của toàn bộ phong trào của phái Hêghen trẻ đó, và đặc biệt
muốn hiểu rõ sự trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến công hiện
thực của các vị anh hùng đó, với những ảo tưởng của họ về chính những chiến công
ấy thì cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo một quan điểm ở bên ngoài nước
Đức”
1
.
“Hệ tư tưởng Đức” là tác phẩm viết chung của C.Mác và F.Enghen vào cuối
giai đoạn hình thành chủ nghĩa Mác: Lúc mà hai ông đã khắc phục chủ nghĩa duy
tâm trong lĩnh vực xã hội và xây dựng những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật, đặt
nền móng triết học cho lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tác phẩm này viết từ tháng 08/1845 đến tháng 05/1846. Nó gồm hai tập,
nhưng nội dung quan trọng nhất của tác phẩm là ở chương 1 của tập I.
- Trong tác phẩm, hai ông trình bày quan niệm duy vật lịch sử của mình và


đấu tranh với triết học duy tâm về lịch sử của Ludwig Feuerbach, Bauer, Xtiêc-nơ
và những nhà Xã hội chủ nghĩa “chân chính”.
- Nội dung của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” rất phong phú. Trong đó, C.Mác
và F.Enghen đã trình bày một cách rõ ràng, hoàn chỉnh những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa duy vật về lịch sử. “Hệ tư tưởng Đức” thực sự là tác phẩm lớn nhất của
thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác (1842 - 1848).
1 C.Mác - F.Enghen -Hệ tư tưởng Đức - Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội 1987 - Trang 9.
- Thời C.Mác, tác phẩm này không được xuất bản vì bị kiểm duyệt nghiêm
ngặt. Nó được xuất bản lần đầu tiên tại Matxcơva năm 1932. Tại Việt Nam nó đã
được tái bản bốn lần:
Lần 1 có tựa đề “Hệ tư tưởng Đức - Phần thứ nhất: Phơ bách.
Lần thứ hai và ba có tựa đề “Ludwig Feuerbach - Sự đối lập giữa quan điểm
duy vật chủ nghĩa và quan điểm duy tâm chủ nghĩa” (Chương 1 Hệ tư tưởng Đức).
Lần thứ tư, trước khi bước vào thời kỳ đổi mới, tác phẩm được xuất bản vào
tháng 10 / 1986, do Nhà xuất bản Sự Thật - Hà Nội ấn hành - có tựa đề “Hệ tư
tưởng Đức - Chương 1 Ludwig Feuerbach sự đối lập giữa quan điểm duy vật và
quan điểm duy tâm”, đúng như trong C.Mác và F.Enghen tuyển tập - Nhà xuất bản
Sự Thật - Hà Nội 1980 - Tập 1 - Trang 259 đến 369.
- Tất cả các lần xuất bản thành tác phẩm riêng bằng tiếng Việt và cả trong
C.Mác và F.Enghen tuyển tập - Tập 1 nói trên, đều chỉ là Chương 1 trong tập I của
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” của C.Mác và F.Enghen.
II. Bố cục của tác phẩm (Tái bản 10 / 1986).
- I Phơ bách Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và duy tâm. Trang 7 -9 (261 -
263).
- Phơ bách A. Hệ tư tưởng nói chung, hệ tư tưởng Đức nói riêng. Trang 10
-13 (264 - 267).
- [1]. Hệ tư tưởng Đức nói chung, triết học Đức nói riêng. Trang 13 -
26 (267 - 279).
- [2]. Trang 26 - 64 (279 - 314).
- [3]. Trang 64 - 70 (314 - 321).

- [4]. Trang 71 - 114 (321 - 362).
- Quan hệ của nhà nước và pháp quyền với sở hữu. Trang 114 - 120
(363 - 369).
III. NHỮNG NỘI DUNG QUAN TRỌNG CỦA TÁC PHẨM.
Tác phẩm có hai nội dung chính: Phê phán triết học Đức sau Hêghen và Hệ
thống quan niệm duy vật về lịch sử tương đối hoàn chỉnh của C.Mác và F.Enghen.
1. Phê phán triết học Đức sau Heghen.
- Trong tác phẩm hai ông đã chỉ rõ: Phái Heghen trẻ om sòm tự xưng là cách
mạng, nhưng trên thực tế họ không vượt qua chủ nghĩa duy tâm của Heghen. Họ
“tin rằng, tôn giáo, khái niệm, cái phổ biến thống trị trong thế giới hiện tại”. Họ phê
phán ý thức hiện nay - cái mà họ cho là sai lầm - đòi thay thế nó bằng ý thức phê
phán - những quan niệm của chính họ, nhưng trên thực tế họ là những kẻ bảo thủ,
chỉ cách mạng bằng lời lẽ mà thôi: “Mặc dù họ đã dùng những lời lẽ khoa trương
dường như làm đảo lộn thế giới, các nhà tư tưởng của phái Hêghen trẻ vẫn là những
kẻ đại bảo thủ. Những người trẻ nhất trong bọn họ đã tìm được những từ ngữ chính
xác để chỉ hoạt động của họ, khi họ tuyên bố rằng họ chỉ đấu tranh chống lại
“những câu nói”... Không một người nào trong những nhà triết học đó có ý nghĩ tự
hỏi xem mối liên hệ giữa triết học Đức với hiện thực Đức là như thế nào, mối liên
hệ giữa sự phê phán của họ với hoàn cảnh vật chất của chính bản thân họ là như thế
nào”
2
.
Trong lĩnh vực lịch sử, hai ông chỉ rõ phái Heghen trẻ cũng như chủ nghĩa
duy tâm không biết đến cơ sở hiện thực của lịch sử. Theo hai ông, họ chỉ coi mỗi
thời đại lịch sử là thể hiện của một tư tưởng, một quan niệm nào đó. Chính thế, khi
phân tích một thời đại lịch sử nào đó ở họ suy cho cùng chỉ là sự “tán đồng ảo
tưởng của thời đại đó”.
Hai ông hoàn thành việc phê phán phái Heghen trẻ bằng cách phân tích và
chỉ ra nguồn gốc xã hội của họ. Theo hai ông, họ thuộc giai cấp thị dân Đức, một
giai cấp trung gian của một nước Đức chưa từng thực hiện một cuộc cách mạng tư

sản triệt để. “Triết học Đức là hậu quả của những quan hệ tiểu tư sản”. Tính nghèo
nàn, bất lực của tư tưởng Đức phản ánh chính tính nghèo nàn, thảm hại của hiện
thực Đức. Một nước Đức phong kiến bảo thủ tồn tại bên cạnh một nước Pháp tư
sản triệt để của một xã hội phương Tây sục sôi cách mạng tư sản.
- Như nhan đề của chương 1 đã chỉ rõ, hai ông dành phần quan trọng để phê
phán Ludwig Feuerbach, vạch rõ tính duy tâm về xã hội của triết học ấy. Hai ông
viết “Feuerbach không bao giờ hiểu được rằng thế giới cảm giác được là tổng số
những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân hợp thành thế giới ấy,
vì vậy ông không nhìn thấy chẳng hạn một đám người đói, còi cọc, kiệt quệ vì lao
động và ho lao, chứ không phải những người khoẻ mạnh thì ông buộc phải lẩn trốn
vào trong “quan niệm cao hơn” và trong “sự bù trừ” lý tưởng “trong loài” nghĩa là
ông lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm, đúng ở chỗ mà người duy vật cộng sản chủ
nghĩa nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn điều kiện của một sự cải tạo cả nền công nghiệp
lẫn cơ cấu xã hội. Khi Ludwig Feuerbach là nhà duy vật thì ông không bao giờ vận
dụng đến lịch sử, còn khi ông tính đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật. Ở
Feuerbach, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau, điều này đã được
nói rõ ở bên trên”
3
.
+ Hai ông chỉ rõ, Ludwig Feuerbach duy tâm ở chỗ ông ta thừa nhận con
người là đối tượng cảm tính, một thực thể có cảm giác và tình cảm (ở điểm này ông
hơn các nhà triết học duy vật máy móc), nhưng ông ta không thấy giữa người với
người một mối quan hệ nào khác ngoài tình bạn, tình yêu. Thậm chí ông ta coi tình
bạn, tình yêu là động lực quan trọng nhất của lịch sử. Cái nơi cần giữ lập trường
duy vật nhất thì ông ta lại duy tâm sa lầy trong cái trừu tượng về con người và
không bao giờ đi tới được con người hiện thực, con người xã hội: “Đành rằng so
với những nhà duy vật thuần tuý thì Feuerbach có ưu điểm lớn là ông thấy rằng con
người cũng là một “đối tượng của cảm giác”; nhưng hãy gạt bỏ việc ông coi con
2 Sách đã dẫn - Trang 13.
3 Sđd - Trang 33.

người chỉ là “đối tượng của cảm giác” chứ không phải là “hoạt động cảm giác
được”, vì cả ở đây nữa, ông vẫn còn bám vào lý luận và không xem xét con người
trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh hoạt nhất
định của họ, những điều kiện làm cho họ trở thành những con người đúng như họ
đang tồn tại, thì Feuerbach cũng không bao giờ đi tới được những con người đang
tồn tại và hành động thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại một sự trừu tượng: “Con
người” và có thể nhận ra con người ”hiện thực, cá thể, bằng xương bằng thịt” chỉ
trong tình cảm thôi, nghĩa là ông không biết đến những “quan hệ con người”, “giữa
người với người” nào khác, ngoài tình yêu và tình bạn, hơn nữa là tình yêu và tình
bạn được lý tưởng hoá. Ông không phê phán những điều kiện hiện tại”
4
.
+ Hai ông cũng chỉ rõ, thái độ tĩnh quan của Ludwig Feuerbach đã dẫn ông
ta đến tự nhiên chủ nghĩa về lịch sử xã hội, coi con người là sản phẩm của tự nhiên,
phục tùng những quy luật của tự nhiên, những quy luật sinh học. Ông ta chỉ thấy
cái tự nhiên mà không thấy cái xã hội ở con người. Ông ta đã tách rời tự nhiên với
xã hội, không thấy mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên với xã hội.
Thật ra, con người không chỉ là đối tượng cảm tính mà còn hoạt động cảm
tính. Dĩ nhiên là từ tự nhiên tách ra con người, nhưng con người lại cải tạo tự
nhiên. “Bao giờ con người cũng đứng trước một giới tự nhiên lịch sử và một lịch sử
tự nhiên”. Tự nhiên có vị trí ưu tiên của nó, song không thể xem nó là cái chủ yếu,
bất biến, không thay đổi. Chính cái xã hội mới là cái cơ sở, cái tự nhiên phát triển,
thành cái xã hội, trở thành cái xã hội, không biến mất mà chỉ thay đổi hình thức của
mình.
- Quan điểm tự nhiên chủ nghĩa về lịch sử chỉ thừa nhận quy luật tự nhiên,
quy luật sinh học tác động trong xã hội. Quan niệm ấy luôn luôn gặp các mâu thuẫn
không thể giải quyết được giữa tính quy luật khách quan và hoạt động có ý thức
của con người; hoặc quy luật tự nhiên quyết định lịch sử hay ý thức con người
quyết định lịch sử; hoặc hoàn cảnh quyết định con người hay con người quyết định
hoàn cảnh của họ. Về điểm này, hai ông chỉ ra Ludwig Feuerbach duy tâm khi ông

ta cho rằng, bản thân con người sáng tạo ra lịch sử của mình mà chỉ đóng khung
con người trong phạm vi thể chất, tình cảm - tức ông ta chỉ thấy cái chủ quan mà
không thấy cái khách quan, không thấy cái đặc thù của cái khách quan trong lĩnh
vực xã hội, không thấy cái đặc thù của quy luật xã hội (Triết học duy vật biện
chứng coi con người sáng tạo ra hoàn cảnh lịch sử trong chừng mực nào, thì hoàn
cảnh lịch sử cũng tạo ra con người trong chừng mực ấy). Ở đây, Ludwig Feuerbach
đã thụt lùi hơn so với Heghen. Heghen cho rằng, kết quả hoạt động có mục đích
của con người không phụ thuộc vào bản thân hoạt động ấy, tức kết quả ấy là cái
khách quan. Tuy nhiên, Heghen đã giải thích tính khách quan ấy một cách tư biện
(Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về con người và bản chất con người là:
Con người là một chỉnh thể thống nhất của ba hệ thống các quy luật: Hệ thống các
4 Sđd - Trang 32-33.
quy luật sinh học tạo nên phương diện sinh học ở con người; Ý thức con người hình
thành và hoạt động trên cơ sở nền tảng sinh học của con người; Hệ thống các quy
luật xã hội tạo nên cái xã hội của con người, nó quy định mối quan hệ giữa người
với người. Trong đời sống hiện thực ba quy luật đó không tách rời nhau mà đan
quyện hoà vào nhau, tạo nên bản chất con người với tư cách là cái đồng nhất của
cái tự nhiên sinh học và cái xã hội. Con người trước hết là một động vật bậc cao.
Nhưng con vật chỉ tái sản xuất ra chính mình, còn con người thì còn tái sản xuất ra
toàn bộ giới tự nhiên. Nhu cầu tự nhiên của con người được biểu hiện ở các mặt:
nhu cầu ăn, ở, mặc...; nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần, nhu cầu tái sản xuất xã
hội; nhu cầu tình cảm và nhu cầu hiểu biết. Để đáp ứng những nhu cầu đó con
người cần phải lao động. Trong lao động con người quan hệ với nhau, hình thành
nên những quan hệ khác trong lĩnh vực đời sống tinh thần. Chính thế C.Mác khẳng
định “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã
hội”. Bản chất con người không là cái bẩm sinh cũng không là cái chỉ sinh ra một
lần là xong, mà nó là một quá trình được trải qua hoạt động thực tiễn. Trong quá
trình đó con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh vừa cải biến hoàn cảnh. Con
người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của mình.).
+ Hai ông chỉ rõ “toàn bộ suy diễn của Ludwig Feuerbach về quan hệ giữa

người với người chỉ nhằm chứng minh người ta cần có nhau và bao giờ cũng cần có
nhau. Cũng như những nhà duy lý khác, Ludwig Feuerbach không phải là một nhà
cách mạng, mà là một nhà bảo thủ. Lý luận của Ludwig Feuerbach chỉ là sự ca tụng
tuyệt diệu cái đang tồn tại. Ông ta viết “Bản chất của tôi như thế nào thì tồn tại của
tôi như thế ấy”. Cái đang tồn tại mà Ludwig Feuerbach ca ngợi chính là trật tự tư
sản. Là người có tấm lòng nhân đạo, Ludwig Feuerbach không thể thờ ơ với cảnh
khổ của người lao động. Nhưng là nhà dân chủ tư sản ông ta không thể nhìn thấy
được nguyên nhân của tình cảnh ấy và lối thoát hợp quy luật khỏi tình cảnh đó.
Ông ta không có ý thức bênh vực trật tự dân chủ tư sản, mà chính do hạn chế bản
chất giai cấp của tư tưởng của ông ta tạo ra. Ludwig Feuerbach không phủ định mà
thừa nhận sự tồn tại của cáí đang tồn tại. Mà cái đang tồn tại không là cái gì khác
ngoài hơn là trật tự dân chủ tư sản.
- Như vậy, hai ông đã tiến hành hai bước làm cơ sở để xây dựng quan niệm
duy vật về lịch sử của mình là: Thứ nhất là phê phán chủ nghĩa duy tâm về lịch sử
của các nhà triết học duy tâm như Heghen và phái Heghen trẻ. Thứ hai là phê phán
chủ nghĩa duy tâm về lịch sử của các nhà triết học duy vật cũ mà đỉnh cao là
Ludwig Feuerbach. Đây là điểm mới trong xây dựng chủ nghĩa duy vật về lịch sử
của Mác và Ăngghen.
2. Hệ thống quan niệm duy vật về lịch sử tương đối hoàn chỉnh của C.Mác và
F.Enghen trong tác phẩm.
Quan niệm duy vật lịch sử của C.Mac và F.Enghen có hai nội dung chính là
Tiền đề và bản chất của quan niệm duy vật lịch sử; Quan niệm duy vật về lịch sử.

×