Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.74 KB, 24 trang )

CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN
ĐOẠN KINH DOANH
TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI TỪ NĂM 1998 - 2001
2.1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH
DOANH TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM HÀ NỘI
2.1.1. Giới thiệu chung về Công ty bảo hiểm Hà Nội
Công ty bảo hiểm Hà Nội (gọi tắt là Bảo Việt Hà Nội) được thành lập từ năm 1980
theo quyết định số 1125/QĐ-TCCB ngày 17/11/1980 của Bộ Tài chính, và trực thuộc
Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Bảo Việt Hà Nội là tổ chức
hoạt động kinh doanh bảo hiểm thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trải qua
21 năm hoạt động liên tục, công ty Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng lớn mạnh cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ lúc đầu thành lập chỉ có 10 cán bộ với một phòng nhỏ
làm trụ sở, đến nay Bảo Việt Hà Nội đã trở thành một đơn vị kinh tế mạnh với đội
ngũ hàng trăm cán bộ bảo hiểm, có trụ sở chính khang trang, thành lập các văn phòng
trực thuộc tại tất cả các quận, huyện trên địa bàn thành phố cùng mạng lưới cộng tác
viên, đại lý phủ kín các địa bàn dân cư của thành phố, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu
của nhân dân, trở thành một đơn vị chủ lực của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam.
Theo cơ cấu tổ chức văn phòng hiện nay, song song với nhiệm vụ khai thác khách
hàng, văn phòng công ty có chức năng quản lý và giám sát hoạt động của các văn
phòng địa phương trực thuộc. Bởi vậy, ngoài các phòng ban phụ trách các vấn đề tổ
chức nhân sự, kế toán,..., những phòng nghiệp vụ ngoài nhiệm vụ trực tiếp tiến hành
kinh doanh các nghiệp vụ trên địa bàn mà công ty phân cấp còn có chức năng giúp đỡ
các văn phòng tại các quận, huyện trong việc quan hệ với khách hàng, cân nhắc chấp
nhận bảo hiểm, phát hành hợp đồng bảo hiểm, xử lý khiếu nại, giám định và bồi
thường.
Cơ cấu tổ chức hiện nay của Bảo Việt Hà Nội được biểu hiện qua sơ đồ sau:
Phòng BH
Hoàn Kiếm
1
Phòng BH Ba Đình
Phòng BH Đống Đa


Phòng BH Hai Bà Trưng
Phòng BH Thanh Xuân
Phòng BH Gia Lâm
Phòng BH Đông Anh
....
Giám đốc
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
Phòng BH
Phi hàng hải
Phòng BH Hàng hải
Phòng kiểm tra nội bộ
Phòng tổng hợp
Phòng BH kỹ thuật
Phòng BH cháy & rủi ro hỗn hợp
Phòng BH quốc phòng
Phòng giám định bồi thường
Trong vài năm gần đây, kinh tế xã hội của cả nước nói chung và thủ đô nói riêng tiếp
tục ổn định và phát triển. Đây là yếu tố thuận lợi cho công tác kinh doanh của các
doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và của Bảo Việt nói riêng. Được sự quan tâm chỉ
đạo và ủng hộ của lãnh đạo Tổng công ty, sự hợp tác giúp đỡ thường xuyên của các
2
phòng ban thuộc Tổng công ty, cán bộ công nhân viên của Bảo Việt Hà Nội đã từng
bước tích luỹ kinh nghiệm trong hoạt động cạnh tranh. Hơn nữa, dù trong bất kỳ hoàn
cảnh nào cán bộ công ty cũng luôn đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty và Nhà nước giao cho. Năm nào Bảo
Việt Hà Nội cũng hoàn thành vượt mức kế hoạch kinh doanh, đạt tốc độ tăng trưởng
cao về doanh số và tỷ lệ tích luỹ, đóng góp không nhỏ vào thành tích chung của Tổng
công ty và của ngành bảo hiểm nói chung. Đó là những dấu hiệu đáng mừng đối với
Bảo Việt Hà Nội. Bên cạnh đó, hoạt động của Công ty Bảo Việt Hà Nội cũng gặp

nhiều khó khăn do sự cạnh tranh của thị trường bảo hiểm cao hơn những năm trước.
Địa bàn thủ đô là nơi diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt không chỉ giữa các công ty bảo
hiểm trong nước mà còn với công ty bảo hiểm nước ngoài. Bảo Việt Hà Nội phải
cạnh tranh với các công ty khác không những về tỉ lệ phí, chi kinh doanh mà còn cả
những yếu tố về phục vụ. Việc mở rộng hoạt động của các công ty bảo hiểm nước
ngoài trên thị trường làm cho tính cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm trong nước
vốn đã gay gắt nay càng thêm khốc liệt dẫn đến việc phí bảo hiểm có xu hướng giảm,
nhất là trong các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Doanh thu phí
bảo hiểm của các hoạt động này giảm đáng kể do phí bảo hiểm giảm và phải chia xẻ
phí do đồng bảo hiểm. Hơn nữa, trong năm 2000 và 2001, tốc độ giải ngân các nguồn
vốn đầu tư cho các dự án trên địa bàn Hà Nội còn chậm làm ảnh hưởng đến kế hoạch
khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng, lắp đặt.
Trước điều kiện khó khăn như vậy, công ty đã tổ chức phục vụ tốt khách hàng để giữ
vững địa bàn và phát triển kinh doanh, đồng thời áp dụng linh hoạt chính sách của
Nhà nước, các quy định của Tổng công ty vào hoạt động kinh doanh. Một biện pháp
quan trọng Bảo Việt Hà Nội đang thực hiện nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng dịch
vụ, đảm bảo khả năng cạnh tranh là thay đổi phương thức hạch toán kinh doanh, giao
khoán cụ thể hoạt động kinh doanh cho từng phòng, và các phòng phải có nhiệm vụ
tương hỗ nhau nhằm thực hiện chỉ tiêu kinh doanh tốt hơn.
Với phương châm "phục vụ khách hàng là phục vụ chính mình", "đáp ứng những cái
khách hàng cần chứ không phải những gì mình có", Bảo Việt Hà Nội đã không ngừng
3
đổi mới phong cách làm việc để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn. Vì vậy, Bảo
Việt Hà Nội vẫn luôn là người bạn đồng hành tin cậy của khách hàng.
Ngoài ra, nhằm đảm bảo khả năng bồi thường cho khách hàng và năng lực nhận bảo
hiểm cho các dự án đầu tư lớn, hiện nay Bảo Việt Hà Nội thông qua Tổng công ty
bảo hiểm Việt Nam đã quan hệ với nhiều công ty tái bảo hiểm, các công ty giám định,
điều tra tổn thất có uy tín trên toàn thế giới như Lloyd's, Commercial Union (UK),
AIG, CIGNA (Mỹ), Tokyo Marine, Yasuda Mitsui Marine (Nhật), Muniche (Đức),...
Trong vài năm gần đây, Bảo Việt Hà Nội đã nhận được sự cộng tác, giúp đỡ tận tình

của các công ty này trong việc đánh giá, chấp nhận rủi ro, thanh tra và xử lý khiếu
nại.
2.1.2. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh tại
Bảo Việt Hà Nội
Mặc dù bảo hiểm hoả hoạn là một nghiệp vụ bảo hiểm xuất hiện từ rất xa xưa trong
lịch sử phát triển của bảo hiểm, nhưng tại Việt Nam nói chung và tại Bảo Việt Hà Nội
nói riêng, mãi đến ngày 17/1/1989 nghiệp vụ bảo hiểm cháy (hay bảo hiểm hoả hoạn)
mới chính thức được triển khai theo quyết định số 06-TC-QĐ của Bộ Tài chính.
Ngay sau khi được triển khai, nghiệp vụ bảo hiểm này đã khẳng định ngay vai trò
quan trọng của nó qua việc doanh thu phí bảo hiểm tăng đều đặn qua các năm và
ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh thu phí của tất cả các nghiệp vụ. Bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tuy là một nghiệp vụ mở rộng phạm vi của bảo
hiểm cháy và đóng vai trò không kém phần quan trọng so với bảo hiểm cháy nhưng
thực chất nó lại không ra đời vào thời điểm bảo hiểm cháy bắt đầu được triển khai.
Phải cho tới năm 1994, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mới bắt đầu được đưa vào
thử nghiệm. Từ khi đưa vào triển khai, số đơn bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy do Bảo Việt Hà Nội kí được với khách hàng vẫn chưa nhiều, chủ yếu là với các
công ty liên doanh và các công ty 100% vốn nước ngoài. Hầu hết các đơn bảo hiểm
được cấp thông qua môi giới. Chúng ta có thể xem qua tỉ trọng của doanh thu bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo Việt Hà Nội thông qua bảng sau:
4
Bảng 1: Tỉ trọng doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy tại Bảo
Việt Hà Nội giai đoạn 1998 - 2001
Năm
Doanh thu bảo hiểm gián
đoạn kinh doanh sau
cháy(tr. đ)
Doanh thu toàn
công ty (tr. đ)
Tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián

đoạn kinh doanh sau cháy/
doanh thu toàn công ty (%)
1998 399 79.068 0,50
1999
505 87.653 0,58
2000 650 74.887 0,87
2001 895 75.800 1,18
Nguồn số liệu: Phòng bảo hiểm cháy và rủi ro hỗn hợp - Bảo Việt Hà Nội.
Số liệu bảng 1 cho thấy tỷ lệ doanh thu bảo hiểm gián đoạn kinh doanh chiếm một tỉ
lệ rất khiêm tốn so với tổng doanh thu của Bảo Việt Hà Nội. Tuy nhiên, chúng ta
cũng nhận thấy rằng doanh thu của nghiệp vụ này ngày càng tăng cả về số tương đối
lẫn số tuyệt đối. Trong khi nhiều nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm trách nhiệm
dân sự xe cơ giới, bảo hiểm xây dựng lắp đặt,.. đang có xu hướng giảm dần doanh
thu khai thác do phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm
khác thì nghiệp vụ bảo hiểm này lại đang mang lại cho Bảo Việt Hà Nội doanh thu
ngày càng tăng hơn qua các năm triển khai. Điều đó chứng tỏ bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh là một nghiệp vụ đầy tiềm năng, hứa hẹn mang lại nguồn thu không nhỏ
cho Bảo Việt Hà Nội.
Hơn thế, với mục tiêu giữ khách hàng, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của khách hàng trong
thời buổi cạnh tranh gay gắt như hiện nay, cùng với mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả,
ngoài việc củng cố, hoàn thiện, tiếp tục phát triển các nghiệp vụ truyền thống có
doanh thu cao, Bảo Việt Hà Nội đã và đang tìm cách phát triển các nghiệp vụ khó
khai thác như bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
2.2. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ
BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
2.2.1. Những thuận lợi cơ bản
5
Khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), Việt Nam đã thực
hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường
dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói

đây là sự "cởi trói" tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho các đơn vị phát huy tiềm
năng, thế mạnh của mình để mở rộng và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đại hội Đảng
toàn quốc VI được đánh giá là sự kiện làm "hồi sinh" nền kinh tế xã hội Việt Nam,
một bước ngoặt của công cuộc đổi mới toàn diện đưa đất nước từ chỗ bế tắc dần dần
đi vào thế ổn định và khởi sắc. Từ đó đến nay, Việt nam đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội như giữ vững nền kinh tế tăng trưởng và ổn
định, khống chế chỉ số lạm phát ở mức vừa phải, tăng đầu tư trong nước và nước
ngoài, tăng thu nhập doanh nghiệp, nâng cao đời sống người dân về kinh tế cũng như
về văn hoá xã hội,... Điều kiện kinh tế, xã hội càng phát triển, người dân không còn
chỉ lo nghĩ đến cái ăn, cái mặc mà họ đã nghĩ xa hơn, đó là làm sao để có cuộc sống
ổn định. Đây chính là nền tảng cho ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển.
Trong vài năm gần đây, trên thế giới xảy ra không biết bao nhiêu biến động cả về
kinh tế lẫn chính trị, ảnh hưởng đến nền kinh tế của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là
các nước phát triển cao như Nhật, Hàn quốc, Thái Lan, Argentina,... Đặc biệt vụ
khủng bố xảy ra trên nước Mỹ vào ngày 11/9/2001 đã làm cho kinh tế của rất nhiều
quốc gia trên thế giới lao đao và năm 2001 được đánh giá là một năm u tối trong lịch
sử kinh tế thế giới. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam là một trong số ít quốc gia vẫn
giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong vài năm qua, năm 2001 tốc độ tăng
trưởng kinh tế của nước ta là hơn 6%. Hơn nữa, đầu năm 2002, Việt Nam đã nhận
danh hiệu "Thủ đô Hà Nội - thành phố an ninh nhất thế giới" do UNESCO công
nhận. Điều đó khẳng định rằng trong khi nền kinh tế, chính trị thế giới có nhiều biến
động phức tạp, rối ren thì Việt Nam vẫn là quốc gia có nền kinh tế, chính trị ổn định,
tạo môi trường an toàn thu hút đầu tư. Tất cả những điều đó đã tạo cơ hội thuận lợi
cho ngành bảo hiểm nước nhà phát triển, từ việc khai thác tới việc sử dụng tạm thời
nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư. Đặc biệt, khi đầu tư phát triển thì nhu cầu bảo toàn
6
vốn kinh doanh càng được chú trọng và điều đó tạo cơ sở vững chắc cho bảo hiểm
gián đoạn kinh doanh tồn tại và phát triển.
Bên cạnh đó, do thực hiện xoá bỏ nhanh chóng cơ chế tập trung bao cấp, đổi mới cơ
chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, làm cho việc bảo

toàn và phát triển vốn trở nên rất khó khăn và nặng nề. Đặc biệt với Thông tư
82/TCLN ngày 31/12/1991 hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 332/HĐBT của Bộ Tài
chính hướng dẫn "Nhà nước sẽ không cho ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị
tổn thất do những rủi ro mà các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai hoặc
những loại hình tương tự". Chính vì vậy, các doanh nghiệp đã thấy được yêu cầu cấp
thiết phải mua bảo hiểm để tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại có thể xảy ra nhằm
đảm bảo khả năng ổn định kinh doanh. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh, với mục tiêu
giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, chắc chắn sẽ nhanh chóng tìm
được chỗ đứng của mình nếu công ty bảo hiểm biết khai thác triệt để nghiệp vụ này
trong nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay.
Hơn nữa, việc ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm 2000 cùng các Nghị định, Thông tư
nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm đã tạo cơ sở pháp
lý cho hoạt động bảo hiểm được thực hiện qui củ hơn, tránh được nhiều hiện tượng
tiêu cực trong hoạt động bảo hiểm như trước. Đặc biệt với việc Bộ Tài chính thông
qua Thông tư số 71/2001/TT-BC ngày 28/8/2001 qui định tỉ lệ chi hoa hồng cho từng
nghiệp vụ bảo hiểm chỉ trong hạn mức cho phép đã tránh tình trạng nổi cộm trong
hoạt động bảo hiểm trước đây, đó là hiện tượng trả hoa hồng cao quá mức dẫn đến
nguy cơ không đảm bảo hiệu quả kinh doanh của các công ty bảo hiểm. Nói cách
khác, sự ra đời của Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn đã tạo ra
một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động bảo hiểm.
Ngoài ra, cùng với sự trưởng thành của công ty qua nhiều năm hoạt động trong thị
trường cạnh tranh, đội ngũ cán bộ công nhân viên đã có nhiều cơ hội để tự hoàn thiện
chuyên môn cũng như phong cách làm việc nhằm đáp ứng xu thế phát triển chung.
Bảo Việt Hà Nội trong những năm đổi mới, song song với việc đào tạo lại cán bộ, đã
và đang tuyển dụng đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, nhanh nhạy với cơ chế thị
7
trường. Chủ trương phát triển nhân tố con người của Bảo Việt Hà Nội có thể được coi
là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn trong tình hình hiện nay giúp cho hoạt động
kinh doanh bảo hiểm tiến những bước xa hơn.
Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy rằng thị trường bảo hiểm Việt Nam rất có nhiều

tiềm năng phát triển. Đây là cơ hội tốt nhất cho công ty Bảo hiểm Hà Nội triển khai
các nghiệp vụ bảo hiểm của mình trên địa bàn thủ đô, một trung tâm kinh tế quan
trọng nhất của đất nước, và các khu vực lân cận. Kinh tế và hoạt động kinh doanh
càng phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi để công ty phát triển các nghiệp vụ bảo hiểm
chưa mấy phổ biến, trong đó có bảo hiểm gián đoạn kinh doanh.
Mặc dù có những thuận lợi như vừa đề cập ở trên, nhưng nhìn chung ngành bảo hiểm
nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn.
2.2.2. Những khó khăn trước mắt và lâu dài
Kinh tế nước ta tuy có nhiều dấu hiệu đáng mừng trong những năm qua nhưng do
điểm xuất phát của nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường là một nước
nghèo, trình độ dân trí không cao, ý thức người dân còn rất kém lại vấp phải những
mặt trái của kinh tế thị trường nên đã gặp không ít khó khăn trong quá trình phát triển
kinh tế nói chung và phát triển ngành bảo hiểm nói riêng. Việc chuyển đổi cơ chế đã
làm cho nhiều doanh nghiệp không thích ứng kịp thời với sự thay đổi, lâm vào tình
trạng làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả, dẫn đến phá sản, tạo gánh nặng cho một nền
kinh tế đang yếu kém. Hơn thế, khi chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo một số đơn vị,
xí nghiệp do mang nặng tư tưởng bao cấp cũ, họ chưa thấy rõ được trách nhiệm phải
bảo toàn vốn tốt nhất bằng con đường tham gia bảo hiểm. Một số đơn vị kinh doanh
khác thì mặc dù đã nhận thức rõ được những khó khăn, phức tạp trong việc bảo toàn
đồng vốn kinh doanh của mình sao cho an toàn nhất nhưng họ lại không có những
hiểu biết nhất định về việc kinh doanh bảo hiểm và họ cảm thấy bi quan, không tin
tưởng vào hoạt động của các công ty bảo hiểm nên chỉ tham gia một cách dè dặt hoặc
không dám tham gia bảo hiểm.
8
Mặt khác, về phía công ty bảo hiểm, do bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là
một nghiệp vụ mới, công việc xác định chính xác số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm,
số tiền thiệt hại về lợi nhuận gộp là rất khó khăn, nên trong quá trình khai thác rất
khó cho cán bộ bảo hiểm giải thích cho khách hàng hiểu và tin tưởng vào loại hình
bảo hiểm này. Thêm vào đó, tuy công ty bảo hiểm Hà Nội có một đội ngũ cán bộ khá
đông đảo nhưng trình độ chuyên môn lại không cao so với các công ty bảo hiểm

khác. Điều này đã được minh chứng rất rõ trong nhiều vụ nhân viên tư vấn sai cho
khách hàng mua nhầm loại bảo hiểm đã gây khó khăn cho công tác bồi thường khi
xảy ra tổn thất, gây nghi ngờ cho khách hàng. Đối với bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh thì vấn đề còn khó khăn hơn rất nhiều vì tính trừu tượng thể hiện trong loại
bảo hiểm này cao hơn rất nhiều so với các loại bảo hiểm khác.
Một khó khăn nữa phải kể đến là hoạt động bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy
ra đời đúng thời kỳ Chính phủ mới ban hành Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 và
tiếp sau đó là Nghị định 74/CP ngày 14/6/1997 cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế kể cả doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm
tại Việt Nam, phá vỡ thế độc quyền của Bảo Việt. Vì vậy, nghiệp vụ này từ khi mới ra
đời đã phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty bảo hiểm trong và
ngoài nước. Hơn nữa, hầu hết các hợp đồng bảo hiểm gián đoạn kinh doanh mà Bảo
Việt Hà Nội kí được từ trước tới nay đều khai thác được từ đối tác liên quan đến
nước ngoài là chủ yếu. Các công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã
và đang giành giật số khách hàng này về phía họ bằng lợi thế về ngôn ngữ, bề dày
kinh nghiệm cũng như khả năng tài chính khổng lồ của các công ty bảo hiểm đó.
Điều đó đặt ra thách thức lớn cho Bảo Việt Hà Nội cần phải đổi mới tư duy, cung
cách phục vụ khách hàng tốt hơn thì mới có khả năng cạnh tranh trong việc khai thác
nghiệp vụ bảo hiểm đầy tiềm năng như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau
cháy.
2.3. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN
KINH DOANH TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI
9

×