Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

CHƯƠNG 2 ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG SỞ GIAO DỊCH HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.03 KB, 36 trang )

CHƯƠNG 2 ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG SỞ GIAO DỊCH HÀNG HĨA
Ở VIỆT NAM
2.1. ĐIỀU KIỆN ĐỂ HÌNH THÀNH SỞ GIAO DỊCH HÀNG HĨA
Mặc dù một sở giao dịch có thể thực hiện tốt chức năng như một thị trường
hàng hoá, nhưng những lợi ích tiềm tàng của nó khơng thể đảm bảo chắc chắn sẽ
thành cơng. Để có thể thành lập một sở giao dịch hàng hóa thì cần phải hội tụ những
điều kiện nhất định. Đứng trên góc độ những chủ thể trên sở giao dịch là các thành
viên sáng lập sở giao dịch, cơ quan nhà nước, nhà quản lý, điều hành và các tổ chức
kinh doanh trên sở giao dịch hàng hóa, sau đây em xin phân các điều kiện này thành
các điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan.
2.1.1. Điều kiện khách quan để hình thành sở giao dịch hàng hóa
Như đã nói ở trên, việc chia các điều kiện là đứng trên góc độ chủ thể của sở
giao dịch hàng hóa, do đó những điều kiện khách quan là những điều kiện tồn tại tất
yếu mà các chủ thể này không thể tác động vào được.
2.1.1.1. Cơ chế thị trường
Chính các yếu tố thị trường chứ khơng phải sự kiểm sốt độc quyền hay là một
sự kiểm soát quá mức cần thiết của nhà nước tố tạo nên giá cả hàng hóa trên sở giao
dịch. Quá kiểm soát thường bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về chức năng và mục đích
của các sở giao dịch hàng hoá. Những can thiệp trên cơ sở quy định của chính phủ
khơng phải là điều xấu nếu như nó khơng làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường
của thị trường. Tuy nhiên sự can thiệp này sẽ trở thành một yếu tố tác động tiêu cực
đến thị trường khi nó làm cho hoạt động thị trường gián đoạn khiến những người tham
gia thị trường khó có thể hoạt động một cách hiệu quả. Và chẳng có một nhà đầu tư
nào, kể cả những đầu tư nhiệt tình nhất lại mong muốn giao dịch trên một thị trường
kém hiệu quả vì bị can thiệp như vậy.
Cũng có những người hiểu sai cho rằng chính những sở giao dịch hàng hóa đã
tạo nên các mức giá, tuy nhiên, những sở giao dịch này chính là một hình ảnh của một
thị trường hàng hố tự nhiên. Trên thị trường, chính cung và cầu về loại hàng hóa phải
là những yếu tố xác định giá cả chứ không phải là các yếu tố khác. Nếu có nhiều
người mua hơn là người bán thì giá sẽ bị đẩy lên, ngược lại nếu có nhiều người bán



hơn người mua thì giá lại bị đẩy xuống. Lý do để một sở giao dịch tương lai hay một
sở giao dịch quyền chọn có thể tồn tại là bởi vì đó là cách tốt nhất để phát hiện giá trị
giao dịch. Vì vậy nếu như thị trường tin rằng có một cách khác để hình thành nên giá
trị trao đổi đó thì sở giao dịch khơng thể tồn tại được. Do vậy, cơ chế thị trường là
điều kiện khách quan và là điều kiện then chốt mà một thị trường hàng hóa cần phải
đáp ứng được để có thể hình thành nên sở giao dịch hàng hóa.
2.1.1.2. Sản xuất phát triển và hàng hóa được tiêu chuẩn hóa
Hàng hố được giao dịch phải có khối lượng sản xuất lớn, được tiêu chuẩn hoá,
và sẽ dễ dàng hơn nếu như hàng hố đó có thể cất trữ được. Lịch sử phát triển sở giao
dịch hàng hóa cho thấy rằng, sở dĩ sở giao dịch hàng hóa ra đời chính là do sức ép
phát triển sản xuất. Sản xuất hàng hóa phát triển dẫn tới một lượng lớn hàng hóa được
sản xuất ra và do đó yêu cầu cần phải phát triển lưu thơng hàng hóa, và sở giao dịch
hàng hóa ra đời. Đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các sở
giao dịch đóng vai trị như một trung tâm giao dịch hàng hóa khơng chỉ trong một
quốc gia đó mà cịn cả trong khu vực và trên thế giới. Do vậy, hàng hóa phải được sản
xuất ra với số lượng lớn để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng khi sở giao dịch
phát triển.
Sản xuất hàng hóa phát triển khơng chỉ ở mặt số lượng mà còn cả về chất
lượng. Một sở giao dịch hàng hoá bất kể là giao dịch giao ngay hay là giao dịch những
công cụ phức tạp hơn như các hợp đồng tương lai hay quyền chọn thì đều cần có các
hợp đồng tiêu chuẩn với những hàng hố đã được chuẩn hố. Do đó đây cũng được
xem như là một trong những điều kiện quan trọng nhất để có thể xây dựng sở giao
dịch hàng hóa. Ở giai đoạn sở giao dịch hàng hóa giao ngay người ta có thể giao dịch
những hàng hố với những tiêu chuẩn khác nhau ở những thời điểm khác nhau (ví dụ
như hàng hoá loại A được giao dịch trong suốt 10 phút đầu tiên của giờ giao dịch, loại
B ở 10 phút tiếp theo...và sẽ lặp lại sau mỗi giờ giao dịch). Với việc giao dịch như vậy
sẽ tăng được tính thanh khoản trên thị trường và tạo ra tính minh bạch trong quá trình
hình thành giá cả (và do đó tăng được lịng tin vào sở giao dịch hàng hố cũng như là
tính hữu hiệu của một trung tâm tham khảo giá cả). Tuy nhiên vấn đề đặt ra là khơng

chỉ phải phát triển chất lượng hàng hóa khơng thơi mà cịn phải có một hệ thống có


thể đảm bảo được các tiêu chuẩn đó. Để có được một hệ thống như vậy thì cần phải
đáp ứng được những yêu cầu sau:
Sự sẵn có của thiết bị đánh giá tiêu chuẩn và các nhân viên có kĩ thuật: Một
thiết bị đo phẩm chất một cách chính xác với khả năng cân đo hoặc xác định phẩm
chất một khối lượng hàng hoá nhất định trong suốt mùa giao dịch cao điểm là một
yêu cầu thiết yếu. Cũng giống như ở các sở giao dịch, ở mỗi nhà kho chính của sở
cũng cần phải có các thiết bị riêng. Các nhân viên vận hành có kĩ năng cũng hết sức
quan trọng bởi lẽ kết quả kiểm tra sẽ khác nhau rất lớn nếu như cuộc kiểm tra đó được
tiến hành bởi một người khơng có những kĩ năng cần thiết.
Hệ thống tiêu chuẩn được chấp nhận: Chính phủ thường đặt ra những tiêu
chuẩn chất lượng không phù hợp với các nhu cầu thương mại. Thêm vào đó, các mùa
vụ phục vụ xuất khẩu lại phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Do vậy, nếu như
khơng có một hệ thống đánh giá tiêu chuẩn chung thống nhất nào mà được tất cả mọi
người đều chấp nhận thì nên tạo ra một hội đồng với những đại điện khác nhau để
đánh giá, đưa ra các tiêu chuẩn.
Việc miêu tả chất lượng và quá trình kiểm tra được chấp nhận không phải là
phục vụ cho sở giao dịch mà là để phục vụ cho những người tham gia vào sở. Những
tiêu chuẩn của nước ngồi có thể là một tham khảo hữu ích chứ khơng phải là yếu tố
quyết định đối với những hàng hố xuất khẩu. Thơng thường các sở giao dịch thường
có một dach sách các mức phẩm cấp khác nhau, và với các tiêu chuẩn định lượng khác
nhau đối với mỗi loại tiêu chuẩn. Danh sách này phải được những người tham gia chủ
yếu trên thị trường chấp nhận và nếu cần thì phải được xác nhận bởi một cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Lịng tin của người tham gia thị trường vào giấy chứng nhận phẩm chất: Đối
với những công ty chế biến hay với những thương nhân đã quen với việc tự mình
kiểm tra hàng hố thì việc chấp nhận phải mua bán thơng qua những mơ tả về phẩm
chất thật là khó khăn. Chính vì thế để tạo ra lịng tin đối với họ thì hệ thống kiểm định

chất lượng có thể là sự kết hợp giữa các mẫu hàng và các giấy chứng nhận phẩm cấp.
Đó là việc người mua có thể kiểm định xem liệu các giấy chứng nhận có phù hợp với
các thực trạng hàng hố hay khơng. Sau một thời gian (có thể chỉ là một vài tháng) thì
mọi người có thể quen dần và bắt đầu mua bán thơng qua điện thoại. Khi đã tạo dựng


được lịng tin trên thị trường thì sở giao dịch có thể bỏ qua những mẫu hàng hố này.
Một biện pháp khác đó là việc cơng bố trên các phương tiện thông tin đại chúng các
mức giá khác nhau, và chỉ định một nhân viên trực điện thoại để trả lời tất cả những
thắc mắc về những mức giá hiện hành.
Sự có mặt cơ quan giải quyết tranh chấp: Việc các sở giao dịch phải lấy mẫu là
không hiệu quả vì vậy, sẽ tốt hơn nếu như những người đem hàng hố đó tự lấy mẫu.
Để làm như vậy thì mọi người phải biết rằng nếu như hàng hoá mà họ đem đến khơng
đại diện được cho hàng hố của họ thì họ sẽ bị phạt. Do đó cần phải có một quy trình
nhanh và hiệu quả để trọng tài có thể xử lý trường hợp này một cách nhanh chóng và
hiệu quả. Các sở giao dịch phải phổ biến các quy tắc trọng tài, tiêu chí lựa chọn trọng
tài và hệ thống phạt.
2.1.1.3. Hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay khi q trình tồn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ thì xu hướng
hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu khách quan đối với bất kỳ một quốc
gia nào. Không một quốc gia nào có thể tồn tại độc lập, khơng nằm trong mối quan hệ
với các quốc gia khác. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các doanh nghiệp của
một quốc gia tham gia một cách chủ động tích cực vào nền kinh tế thế giới. Do vậy,
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ln mang trong mình những cơ hội và thách thức
to lớn. Đặc biệt quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nền kinh tế chuyển đổi
(trong đó có Việt Nam) là q trình thực hiện tự do hóa thương mại và thực hiện cải
cách toàn diện theo hướng mở cửa thị trường. Từ đó đem lại nhiều cơ hội kinh tế như
hàng hóa xuất khẩu có thể tiếp cận thị trường tốt hơn, thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài hơn và nhiều lợi ích gián tiếp khác đi liền với cạnh tranh quốc tế gay gắt
và tăng dần hiệu quả kinh tế theo quy mơ. Để có thể cạnh tranh và thâm nhập vào thị

trường thế giới thì cần phải đáp ứng được những yêu cầu giao dịch và những tiêu
chuẩn chất lượng quốc tế. Đứng trước yêu cầu đó, các sở giao dịch hàng hóa lúc này
chính là bộ máy thị trường có thể tạo điều kiện cho người giao dịch có thể cạnh tranh
được một cách hiệu quả nhất. Do đó các sở giao dịch hàng hóa ở các quốc gia đóng
vai trị như những cơng cụ quan trọng góp phần thực hiện cơng cuộc hội nhập kinh tế
quốc tế cũng như xu hướng tồn cầu hóa đang diễn ra. Như vậy, chính xu thế hội nhập


kinh tế quốc tế đang trở thành một điều kiện khách quan thúc đẩy sự hình thành các sở
giao dịch hàng hóa trên thế giới, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển.
2.1.2. Điều kiện chủ quan để hình thành sở giao dịch hàng hóa
2.1.2.1. Nhu cầu hình thành sở giao dịch hàng hóa
Nhu cầu hình thành sở giao dịch hàng hóa ở đây xuất phát từ chính những
chủ thể tương lai của sở giao dịch, bao gồm từ người sản xuất đến những nhà
nhà kinh doanh, đầu tư lớn. Đây chính là một trong những yếu tố chủ quan hết
sức cần thiết để xây dựng sở giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên, để xuất hiện nhu cầu
thì cần phải có những điều kiện nhất định như cung - cầu hàng hóa lớn từ nhiều
đối tượng khác nhau, và các rủi ro giá cả trên thị trường đủ lớn để hình thành
nên nhu cầu bảo hiểm và đủ hấp dẫn thu hút đầu tư.
Cung và cầu hàng hóa lớn: Cần phải có rất nhiều thành viên tiềm năng, và
hàng hoá được giao dịch trên sở giao dịch phải là một bộ phận quan trọng trong
hoạt động của những thành viên tham gia. Đây là một trong những điều kiện
thiết yếu để hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hoá. Bởi lẽ sở giao dịch là
một nơi để tập trung những người mua và người bán về những mặt hàng nhất
định, do đó việc thành lập sở giao dịch hàng hóa sẽ trở nên vơ ích nếu như khơng
có cung và cầu lớn. Điều đó có nghĩa là phải có một lượng lớn những người sẽ
tham gia vào thị trường. Những người tham gia này cũng tùy thuộc vào loại hình
sở giao dịch hàng hóa. Bất cứ sở giao dịch nào cũng đều khó mà hoạt động được
nếu chỉ có người sản xuất hoặc những nhà bn đơn thuần. Vì vậy, muốn hình
thành sở giao dịch hàng hóa nhất thết phải có được một số lượng lớn những

người tham gia và thuộc nhiều nhóm đối tượng khơng chỉ những người có nhu
cầu trong nước mà cịn phải nỗ lực thu hút sự tham gia những người mua nước
ngồi. Một nhóm khách hàng quan trọng nữa chính là chính phủ và các bộ phận
của chính phủ chuyên chịu trách nhiệm mua hay bán hàng hóa. Ví dụ như sở
giao dịch có thể mời bộ phận chuyên thực hiện hỗ trợ nơng nghiệp (như phân
bón, thuốc trừ sâu, ngũ cốc…) để thực hiện đấu giá ở sở giao dịch thay vì phân
phối trực tiếp như trước đây; và có thể thuyết phục những người tiêu dùng hàng
hóa lớn trong khu vực hàng hóa cơng cộng (như qn đội, bộ giáo dục…) tham


gia mua hàng hóa qua sở giao dịch, việc mua bán này cịn có thể giúp góp phần
xóa bỏ nguy cơ tham nhũng vẫn thường xảy ra.
Những người tham gia vào sở giao dịch cũng cần phải có tiềm năng nhất định
tuy nhiên điều đó khơng có nghĩa rằng các sở giao dịch cũng chỉ thu hút các công ty
lớn. Kinh nghiệm từ những sở giao dịch hàng hóa ở các quốc gia đã cho thấy rằng
những công ty này có những tiềm lực kinh tế cũng như khả năng marketing lớn, họ có
thể thực hiện những chiến lược giao dịch rủi ro hơn và có xu hướng ít sử dụng các sở
giao dịch (bất kể là sở giao dịch giao ngay hay là các sở giao dịch tương lai hàng hóa).
Trong khi đó nếu các cơng ty nhỏ biết được vai trò cũng như những xu thế diễn ra trên
sở giao dịch thì sẽ là một khối lượng khách hàng tiềm năng cho sở giao dịch, nên các
công ty nhỏ cũng có thể là một lực lượng chủ thể đáng kể.
Rủi ro biến động giá cả trên thị trường giao ngay: mục đích để các sở giao
dịch tương lai hàng hóa xuất hiện chính là để phịng ngừa những rủi ro về giá cả
mà những sở giao dịch hàng hóa hữu hình khơng thể đáp ứng được nhu cầu đó.
Lợi ích chính mà sở giao dịch tương lai về hàng hóa đó chính là nó khơng chỉ là
một cơ chế thị trường góp phần làm giảm các chi phí giao dịch, phát hiện giá cả
một cách chính xác và minh bạch như những sở giao dịch hàng hóa thơng
thường mà nó cịn là một nơi chuyển giao rủi ro. Thơng qua sở giao dịch khách
hàng có thể chốt được mức giá và do đó có thể tự bảo hiểm khỏi những rủi ro do
những biến động giá cả mà họ không thể lường trước được trước ngày giao hàng.

Do đó nếu như giá cả khơng có những biến động mạnh và khơng có sự bất ổn
trong những biến động đó thì những người tham gia thị trường sẽ khơng cần
thiết phải sử dụng tới những biện pháp hay công cụ trên sở giao dịch tương lai
hàng hóa như đã nêu ra ở trên.
Rủi ro này cũng chính là những lợi ích tiềm năng hấp dẫn sự tham gia của
các nhà đầu cơ, họ là những người tham gia chính trên thị trường tương lai, là
những người tạo nên đến 90% giao dịch trên thị trường. Những người đầu cơ
này có thể là những cá nhân có tiềm lực tài chính lớn muốn tham gia vào sở giao
dịch hàng hóa hơn là đầu tư vào chứng khoán hay cổ phiếu, là những thành viên
tự doanh của sở giao dịch, hoặc là những quỹ đầu tư trong và ngoài nước. Mối
quan tâm chính của họ chính là việc thu lợi nhuận chính vì vậy muốn thành lập


các sở giao dịch tương lai thì phải có những cơ hội thu lợi lớn từ đó mới thu hút
được những nhà đầu tư này. Những rủi ro biến động giá cả gây thiệt hại cho
người sản xuất, hay người tiêu dùng nhưng lại chính là một nhân tố tạo cơ hội
thu lợi nhuận cho những nhà đầu cơ.
2.1.2.2. Điều kiện cơ sở hạ tầng trang thiết bị
Việc dễ dàng tiếp cận và trang bị đầy đủ cũng là một điều kiện cần thiết, ví dụ
như việc dễ dàng tiếp cận với các trục đường, sự sẵn có các cơng ty vận tải, những
thiết bị cân cầu đường, dịch vụ quản lý chất lượng, sự quản lý có hiệu quả, kho hàng
và thông tin liên lạc (nếu các nhà kho và các cơng ty vận tải thuộc quyển kiểm sốt
của chỉ một vài công ty và không được sử dụng chung, thì sẽ chỉ nhận được rất ít lợi
ích từ một sở giao dịch hàng hoá). Việc xác định địa điểm để xây dựng sở giao dịch
cũng là một điều kiện quan trọng. Ví dụ đối với các sở giao dịch với những hình thức
đấu giá cơng khai thì cần phải có đủ khơng gian cho việc tháo dỡ hàng hoá, kho hàng
và vận chuyển hàng hoá đã được giao dịch, và cần phải có hệ thống đường sá có thể
cho phép những xe tải có trọng tải lớn vận hành. Nếu như sở giao dịch giao dịch hàng
hoá trên cơ sở các loại mẫu hàng hố thì hàng hố cần phải được đưa đến địa điểm thu
nhận hàng một cách nhanh chóng. Thêm vào đó trong một thời gian ngắn các phịng

thí nghiệm cần phải kiểm tra đánh giá chất lượng hàng hoá và đưa tới các sàn giao
dịch hàng hố mà có thể ở rất xa. Do đó tất cả các cơng việc này có thể diễn ra trong
một khung cảnh ồn ào và bừa bộn do đó sở giao dịch không thể ở gần một khu vực
dân cư, nhưng phải có điều kiện giao thơng thích hợp, gần với nguồn cung hàng hố
để giảm thiểu chi phí. Hơn nữa đối với những hàng hoá được giao dịch để xuất khẩu
hay nhập khẩu thì nên xem xét đến việc đặt các sở giao dịch gần các bến cảng. Tuy
nhiên đối với các sở giao dịch hàng hoá đã áp dụng phương tiện giao dịch điện tử thì
việc xác định địa điểm cho sàn giao dịch là không cần thiết, thay vào đó cần phải có
một hệ thống thơng tin liên lạc sẵn có. Và đối với các sở giao dịch bất kể là giao dịch
điện tử hay đấu giá đề cần thiết phải có những yêu cầu máy móc nhất định như: hệ
thống điện thoại tốt, các bảng điện tử và một mạng lưới máy tính kết nối thông suốt,
với hệ thống hỗ trợ hiệu quả, mạng lưới cung cấp điện ổn định.
2.1.2.3. Các chính sách của chính phủ


Nhà nước được xem như một chủ thể hết sức quan trọng trên thị trường sở giao
dịch hàng hóa. Ngay cả nếu như khơng đóng vai trị là một trong những thành viên
sáng lập nên sở giao dịch hàng hóa đi nữa thì sự hỗ trợ đúng đắn từ phía chính phủ
cũng là điều kiện quan trọng, bao gồm sự sẵn sàng thông qua những quy định mới và
sự giám sát một cách hợp lý vào sở giao dịch. Không chỉ những chính sách trực tiếp
điều chỉnh hoạt động sở giao dịch hàng hóa mà cả những chính sách khác của chính
phủ liên quan đến thị trường hàng hố và giao dịch hàng hoá đều phải đáp ứng những
điều kiện chung nhất định và tốt nhất là khơng nên có những sự can thiệp độc quyền
của chính phủ làm gián đoạn việc trao đổi.
Đối với các sở giao dịch thì nhà nước có những vai trị nhất định, trong đó có
hai vai trị tích cực: một là vai trị giám sát, chính phủ xử phạt những người cố tìm
cách thao túng thị trường vì lợi ích riêng của mình, đảm bảo sự ràng buộc của hợp
đồng, và vai trò thứ hai là vai trò hỗ trợ, nhà nước đưa ra khung pháp lý hồn thiện và
thậm chí là một cơ cấu cơ sở hạ tầng (mà nếu khơng có nó thì một sở giao dịch khơng
thể hoạt động một cách chính xác được). Các thị trường cần chính phủ nhưng khơng

phải là sự kiểm sốt q mức. Những vai trị này được thể hiện qua các chính sách của
nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế nói chung như các chính sách về thuế, hay chính
sách đối với các ngân hàng, và các thành phần kinh tế.
Các chính sách thuế: Các chính sách này là một trong những chính sách vĩ
mô sức quan trọng được nhà nước sử dụng để thể hiện chủ trương của mình đối
với việc hình thành sở giao dịch hàng hóa. Bởi lẽ, các sở giao dịch hàng hóa muốn
hoạt động được thì cần phải có một hệ thống thuế hợp lý và tạo điều kiện cho các
giao dịch trên sở giao dịch. Do đó, nếu như nhà nước ủng hộ việc thành lập sở
giao dịch hàng hóa thì các chính sách thuế sẽ tạo điều kiện hết sức cho các hoạt
động của nó; ví dụ như cho phép những sản phẩm nhập khẩu được bán đấu giá
trên sở giao dịch, và việc thu thuế có thể được lùi lại cho đến khi người mua nhận
hàng. Bản thân thuế cũng có thể là một vấn đề, đặc biệt là nếu các giao dịch giấy
tờ bị đánh thuế như là các giao dịch hàng hố thơng thường. Nếu sở giao dịch
tiến hành giao dịch các hóa đơn nhà kho, thì thuế cũng được đánh chỉ tại thời
điểm giao hàng gốc và/hoặc giao hàng cuối cùng, những thời điểm giữa hai mốc
thời gian này thì việc trao đổi có thể hồn tồn khơng mất phí đăng kí, thuế gia


trị gia tăng hay sự đánh thuế nào (ngoài một khoản phí giao dịch rất thấp cho sở
giao dịch). Với các giao dịch tương lai cũng vậy, chỉ những giao dịch giao hàng
thật mới bị đánh thuế. Do đó, việc hồn thiện hệ thống thuế và các chính sách
thuế liên quan tới sở giao dịch hàng hóa là một trong những điều kiện cần để có
thể hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hóa.
Các chính sách tiền tệ - ngân hàng: Cần phải nhấn mạnh rằng các chính
sách tiền tệ có thể tác động mạnh đến các chức năng của sở giao dịch hàng hoá.
Nếu lạm phát cao, thì các hợp đồng kỳ hạn về tiền tệ và lãi suất khó có thể được
giao dịch, và hàng hố được giao dịch bằng đồng nội tệ, bất cứ giao dịch kỳ hạn
nào với kỳ hạn hơn một khoảng từ một đến ba tháng (tuỳ thuộc vào mức tăng và
khả năng dự đoán được của lạm phát) sẽ là hiệu quả cho mục đích tự bảo hiểm
lạm phát, chứ khơng phải là tự bảo hiểm giá cả hàng hoá: cuối cùng thì giá cả

của hàng hố lúc kết thúc kỳ hạn được được xác định phụ thuộc vào tỷ lệ lạm
phát hơn là giá trị thực của hàng hoá. Các sở giao dịch hàng hố ở các quốc gia
có tỷ lệ lạm phát cao do đó sẽ hướng tới những khách hàng liên quan đến thương
nhân hơn là việc sử dụng các hợp đồng giao ngay hoặc có thời hạn ngắn, và
nhóm các ngân hàng và các thể thế tài chính với việc sử dụng các hợp đồng giao
ngay hơn là các hợp đồng kỳ hạn. Việc kiểm soát vốn có thể cũng có tác dụng nếu
họ hạn chế việc các khách hàng tham gia vào các sở giao dịch nội địa; trong
trường hợp này, trong các quy định về các dịng vốn, các chính phủ có thể sẽ đưa
ra một ngoại lệ cho việc lợi nhuận tạo ra trên các sở giao dịch về nước của các
khách hàng nước ngồi
Tại nhiều nước, các quy định khơng cho phép các ngân hàng tham gia vào các
hoạt động như là buôn bán hàng hoá, cấp tiền bảo chứng cho các nhà tự bảo hiểm, tích
trữ hàng hố, hay là các gói cơng cụ trên các sở giao dịch hàng hố cho các nhà đầu
tư. Những quy định này đều là những rào cản khá lớn cho việc thực hiện các chức
năng của các sở giao dịch hàng hoá; các ngân hàng và các sở giao dịch do đó nên hợp
tác để sửa đối những quy định này.
Chính vì vậy, thơng qua các cơng cụ chính sách này, nhà nước thể hiện sự ủng
hộ hay không ủng hộ đối với việc thành lập sở giao dịch hàng hóa. Sự ủng hộ của nhà


nước được xem như là một điều kiện chủ quan hết sức quan trọng tạo tiền đề để xây
dựng sở giao dịch hàng hóa.
2.1.2.4. Năng lực các nhà đầu tư
Thu hút sự mối quan tâm của những người tham gia thị trường, cũng như
những nhà đầu cơ ở được xem như điều kiện sống còn đối với sự tồn tại của một sở
giao dịch hàng hoá. Tuy nhiên một các thành viên này cần phải được trang bị những
kiến thức và tiềm năng nhất định chứ không phải những người khơng có một sự hiểu
biết một cách đúng đắn về vai trị của các sở giao dịch hàng hóa. Trên thực tế thị
trường cà phê Việt Nam đã chứng minh rất rõ điều này. Một số doanh nghiệp Việt
Nam giao dịch cà phê trên sở giao dịch hàng hóa của Luân Đôn (LIFFE) đang phải

đối mặt với những khoản thua lỗ đáng kể. Thua lỗ chủ yếu do các doanh nghiệp, cá
nhân không nhận thức đầy đủ về phương thức này, họ khơng xem nó như một cơng cụ
phịng, chống rủi ro khi thị trường biến động, mà tham gia giao dịch mang tính đầu cơ,
“đỏ đen”, đặt lệnh mua bán khống, khơng có cà phê robusta vẫn tham gia giao dịch
với thị trường Liffe (London), khơng có cà phê arabica vẫn giao dịch với thị trường
Nybot (New York). Điều đáng nói nữa là một số doanh nghiệp đã tự đứng ra làm
trung gian giao dịch để thu phí bất hợp pháp từ các đối tượng không đủ điều kiện giao
dịch với Techcombank, trong khi các đối tượng chưa được khuyến cáo đầy đủ, chưa
hiểu biết sâu về phương thức này và thực sự khơng có cà phê, năng lực tài chính lại
quá nhỏ bé so với các đại gia nước ngồi, vì thế việc thua lỗ là tất yếu...Theo như
thống kê của VICOFA hiệp hội cà phê Việt Nam, trong đợt khảo sát đối với 9 trong
tổng số doanh nghiệp có tham gia hoạt động trên sở giao dịch nước ngồi thì đã thua
lỗ tới gần 30 tỷ đồng-đây là một khoản “học phí” q lớn để tìm hiểu về hoạt động
trên sở giao dịch hàng hóa. Hơn nữa những người chưa có sự hiểu biết này là những
người có tâm lý dễ dao động nhất và do đó dễ gây đến những rối loạn trên thị trường.
Nếu như sở giao dịch hàng hóa Việt Nam được thành lập trong điều kiện như vậy, thì
liệu sẽ tồn tại được bao lâu với những chủ thể như thế này?
Chính vì những lý do như vậy, việc thu hút những người tham gia thị trường là
một vấn đề then chốt cho sự tồn tại của thị trường nhưng sự thu hút đó cũng phải dựa
trên cơ sở chọn lọc và dần dần. Để hình thành được các sở giao dịch thì cần phải có sự
chuẩn bị sẵn về việc phổ biến vai trị lợi ích cũng như những nguy cơ tiềm ẩn trên sở


giao dịch từ đó thu hút được những người tham gia có nhu cầu thực sự, với động cơ
chân chính.
2.2. NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN SỞ GIAO DỊCH
HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM
2.2.1. Cơ chế kinh tế của việt Nam
Nền kinh tế Việt Nam kể từ năm 1954 cho đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ
phát triển khác nhau. Song tổng quan lại có thể chia ra làm hai giai đoạn lớn với hai

phương pháp tổ chức và quản lỹ nền kinh tế hoàn toàn khác nhau:
Giai đoạn 1954-1986: thực chất giai đoạn này Việt Nam chưa có thị trường
hàng hóa theo đúng nghĩa của nó. Hầu hết những sản phẩm của xã hội đều do nhà
nước quản lý, tổ chức sản xuất hay nhập khẩu cũng đều phụ thuộc vào những quyết
định của nhà nước và sau đó được phân phối theo hiện vật theo nhu cầu của nền kinh
tế quốc dân và đời sống dân cư. Vào giai đoạn này bức tranh nền kinh tế Việt Nam hết
sức ảm đạm.
Giai đoạn 1987 đến nay: Sau khi tiến hành một cơng cuộc Đổi mới tồn diện
nền kinh tế, Việt nam đang chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Bước ngoặt có ý nghĩa cơ bản là xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung và ln đi liền với
hành chính quan liêu bao cấp trước đây và thực hiện cơ chế thị trường. Vấn đề độc
quyền nhà nước được xem xét lại và có những thay đổi đáng kể. Nhà nước bắt đầu
giảm sự can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh và vào thị trường nói chung. Đồng
thời nhà nước cũng vạch ra những nguyên tắc nhất định trong việc can thiệp vào thị
trường như sau:
Nguyên tắc thứ nhất: Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô và bằng các biện
pháp vĩ mô đối với hoạt động kinh tế nói chung; cịn những hoạt động mang tính vi
mơ, vốn dĩ là công việc của các chủ thể kinh tế thì để cho họ tự quyết định theo sự dẫn
dắt của các quy luật thị trường và tự chịu trách nhiệm.
Nguyên tắc thứ hai: Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào hoạt động
kinh tế phải xuất phát từ hồn cảnh đặc thù của Việt Nam, có tính đến yêu cầu hội
nhập quốc tế trong giai đoạn đương đại. Mọi hành vi sao chép một cách máy móc các
mơ hình quản lý của nước ngồi mà khơng tính đến hồn cảnh và điều kiện đặc thù


của Việt Nam sẽ là khơng thích hợp và thậm chí cịn có thể gây ra những hậu quả vơ
cùng bất lợi cho nền kinh tế và xã hội.
Nguyên tắc thứ ba: Nhà nước thực hiện các hành vi can thiệp vào nền kinh tế
phải nhằm thoả mãn các mục tiêu cơ bản về kinh tế, chính trị và xã hội theo định
hướng XHCN như văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra.

Nguyên tắc thứ tư: Nhà nước có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh bằng
nhiều công cụ và biện pháp khác nhau (chẳng hạn như cơng cụ pháp luật, các chính
sách và hệ thống chương trình, kế hoạch định hướng…) nhưng các biện pháp và công
cụ này không được gây cản trở cho q trình tự do hố thương mại quốc tế Việt Nam
đã tham gia hoặc cam kết sẽ tham gia, cũng như không cản trở quyền tự do kinh
doanh của các chủ thể tham gia giao dịch kinh tế.
Nguyên tắc thứ năm: Tiêu chí xác định giới hạn hợp lý cho hành vi can thiệp
của Nhà nước vào kinh tế là hậu quả của sự can thiệp đó phải là cho kinh tế tăng
trưởng bền vững; các chủ thể kinh tế thoả mãn được lợi ích của mình khi giao dịch
kinh tế; nền kinh tế và đời sống xã hội không gặp phải các rắc rối và những biến động
bất lợi; không bị cản trở xu hướng hội nhập quốc tế.
Thị trường đã dần được hình thành theo quy luật khách quan là thị trường tự
do, nhiều thành phần kinh tế cạnh tranh và theo dẫn dắt của cung cầu. Nhà nước
khuyến khích sự phát triển của tất cả các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế
được tự do phát triển và bình đẳng trước pháp luật. Danh mục các hàng hóa do nhà
nước độc quyền đã giảm đáng kể và hiện chỉ còn một số mặt hàng thiết yếu như điện,
than, nước. Thị trường cạnh tranh hiện là hình thái thị trường phổ biến đối với hầu hết
các mặt hàng như lương thực, thực phẩm thông dụng, dệt may. Tuy nhiên, ở Việt Nam
nhiều năm qua tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh và thiếu bình đẳng vẫn thường
xảy ra. Chẳng hạn đầu vào của ngành kinh doanh sản xuất gạo, cà phê có rất nhiều
người bán nên sự cạnh tranh là phổ biến, song đầu ra của nó lại bị khống chế bởi quy
định giao cho một số doanh nghiệp làm đầu mối xuất khẩu. ở đây, các yếu tố phi cạnh
tranh là những “rào chắn” được tạo bởi việc quy định đầu mối và quota hạn ngạch. Do
vậy khi thị trường thế giới biến động đã phát sinh cạnh tranh không lành mạnh do việc
tranh mua tranh bán chèn ép lẫn nhau và yếu tố độc quyền lúc này trở thành đặc quyền
đem lại lợi ích cho các đầu mối.


Đặc biệt trong những nỗ lực để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO,
Việt Nam đã có rất nhiều cam kết nhằm cải cách cơ cấu kinh tế, dần dần hội nhập nền

kinh tế trong nước với các nền kinh tế khác trên thế giới. Việt Nam chấp nhận bị coi là
nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tức là không muộn hơn 31/12/2018. Tuy
nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác nào là kinh tế Việt
Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối tác đó ngừng áp dụng chế độ
“phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện
chống bán phá giá. Và các thành viên WTO khơng có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc
thù đối với hàng xuất khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường. Trong
những cam kết này có rất nhiều cam kết liên quan đến những lĩnh vực hàng hóa xuất
khẩu góp phần thúc đẩy việc hình thành sở giao dịch hàng hóa việt Nam. Ví dụ Về trợ
cấp phi nơng nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo
quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi
đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu
thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may). Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam
kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy
nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước
đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt
giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức khơng q 10% giá trị sản lượng. Ngồi mức
này, ta cịn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm.
Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nơng hay trợ cấp phục vụ phát triển nông
nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế. Những biện pháp
bảo hộ đối với nông dân trước đây nay đã bị dỡ bỏ, do đo người nông dân lại càng cần
cơ một cơ chế thị trường mới để thay thế những biện pháp này để tránh những rủi ro
hay ít nhất là khơng bị lâm vào tình trạng bị ép giá hoặc cạnh tranh quá khốc liệt trên
thị trường thế giới.
Với những cải cách như vậy, cơ chế thị trường của Việt nam đã cỏ thể cho
phép việc hình thành và phát triển một cơ cấu thị trường hiện đại với nhiều hình thức
kinh doanh khơng chỉ ở những sở giao dịch hàng hóa hữu hình thơng thường mà ngay
cả với những sở giao dịch tương lai về hàng hóa.



2.2.2. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam
Nếu chỉ có nhiều người mà khơng có tiềm năng về kinh tế thì cũng khơng thể
hình thành nên sở giao dịch hàng hóa được. Thực tế sự phát triển nền kinh tế Việt
Nam với những thành tựu vượt bậc đã có những tác động hết sức tích cực tác động tới
những tiềm năng về chủ thể của sở giao dịch hàng hóa của Việt Nam. Trải qua 20 năm
đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được mức tăng trưởng vượt bậc với sự thay đổi
cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng phù hợp với các xu hướng chung trên thế giới.
Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế, 2003-07 (%)
2003

2004

2005

2006

2007

GDP

7,34

7,79

8,44

8,17

8,48


Nông-lâm-thủy sản

3,62

4,36

4,02

3,40

3,40

Công nghiệp-xây dựng

10,48

10,22

10,69

10,37

10,60

Dịch vụ

6,45

7,26


8,48

8,29

8,68
Nguồn: CIEM

Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh đã kéo theo những tác động tích cực
tới những sự phát triển con người, chỉ số HDI tăng lên qua các năm (1985 mới đạt
0,590, năm 1990 đạt 0,620, năm 1995 đạt 0,672, năm 2000 đạt 0,711, năm 2005 đạt
0,733, khả năng năm 2007 đạt trên 0,75). Thứ bậc về HDI tăng lên trong khu vực
Đông Nam Á, ở châu Á và trên thế giới. Thứ bậc trên thế giới về HDI cao hơn thứ bậc
về GDP bình qn đầu người tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương (105 so
với 123), cao hơn hàng chục nước có GDP bình qn đầu người cao hơn Việt Nam,
phù hợp với nền kinh tế thị trường mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường theo
định hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tỷ lệ nghèo
đã giảm (từ 17,8% xuống cịn 14,8%).
Thêm vào đó, với sự thành cơng của thị trường chứng khốn trong những năm
vừa qua cũng góp phần tăng số lượng chủ thể tiềm năng cho sở giao dịch hàng hóa. Vì
xét về cơ cấu cũng như hình thức hoạt động thì sở giao dịch hàng hóa và sở giao dịch
chứng khốn khơng khác nhau mấy, vì vậy giao dịch trên sở giao dịch hàng hóa cũng
sẽ là một cơng cụ đầu tư hữu hiệu có thể thu hút được những nhà mơi giới, hay những
người đầu tư muốn thu lợi nhuận.


Trong những năm vừa qua Việt Nam đã khẳng định được vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới với việc
trở thành thành viên thứ 150 của WTO, được bầu làm ủy viên không thường trực của
hội đồng bảo an liên hợp quốc… Nhờ vậy mà uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng gia tăng và thu hút mối quan tâm ngày càng lớn của các nhà đầu tư. Bằng

chứng là việc thu hút FDI của Việt Nam trong những năm vừa qua tăng nhanh và năm
2007 đã đạt con số kỷ lục là 20,3 tỷ USD tăng 69,1% so với năm trước, vượt 56% kế
hoạch dự kiến. Qua kết quả khảo sát triển vọng thu hút đầu tư của Hội nghị Thương
mại và Phát triển liên hợp quốc (UNCTAD) vừa công bố, Việt Nam đã vươn lên đứng
thứ 6 trong tổng số 141 nền kinh tế được khảo sát (sau Trung Quốc, ấn Độ, Mỹ, Nga
và Brazil). Cho đến nay các nhà đầu tư từ khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh đã tiến
hành các hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Điều đó cho thấy các đối tác nước ngồi đã
đặt lịng tin vào các chính sách kinh tế của Việt Nam. Họ cũng đã tìm thấy ở Việt
Nam khả năng tạo ra lợi ích cho các nỗ lực kinh doanh của học và Việt Nam không
phải là một thị trường quá mới mẻ với họ nữa. Chính yếu tố này đã tạo cho đối tác
nước ngoài tâm lý yên tâm kinh doanh lâu dài khi tham gia vào các giao dịch thu lợi
nhuận của Việt Nam, và đây sẽ là một lực lượng chủ thể đáng kể khi Việt Nam hình
thành sở giao dịch hàng hóa.
2.2.3. Nguồn sản phẩm nơng nghiệp phong phú
Việt nam là một nước nông nghiệp điều kiện tự nhiên như khí hậu, thổ nhưỡng
rất thuận lợi để phát triển nơng nghiệp, nhưng do nhiều mặt cịn hạn chế, đặc biệt là
khâu tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch nên thời gian qua việc sản xuất của nông sản
Việt nam chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của mình. Tuy nhiên trong kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam hiện nay trị giá của các mặt hàng nông nghiệp chiếm một tỷ
trọng cịn rất cao và đóng một vai trị quan trọng. Một số hàng nơng sản xuất khẩu của
ta như gạo, cà phê, hạt tiêu, cao su, hạt điều, rau quả… chiếm một thị phần lớn trên thị
trường khu vực và thế giới.
2.2.3.1. Tầm quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam
Trong những năm gần đây, cùng với xu hướng cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ thì tỷ lệ đóng góp vào GDP của Việt Nam


ngày càng có xu hướng giảm xuống từ chỗ chiếm tới 38,74% năm 1990 xuống còn
20.36% năm 2006, đến năm 2007, con số này đã giảm xuống còn dưới 20% (19,8%)
và kế hoạch đến năm 2020 thì con số này sẽ giảm xuống dưới 10%. Tuy nhiên giá trị

đóng góp của ngành tăng liên tục từ năm 1990 là 16252 tỷ VNĐ thì đến năm 2006 đã
tăng hơn 12 lần đạt 198266 tỷ VNĐ.
Bảng 2.2: Tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế phân theo khu vực kinh tế
Đơn vị: Nghìn tỷ, %

Năm

Tổng số

Nơng, Lâm nghiệp

Cơng nghiệp và

và thủy sản

xây dựng

Trị giá

%

Trị giá

%

Dịch vụ
Trị giá

%


1990

41955

16252

38.74

9513

22.67

16190

38.59

1995

228892

62219

27.18

65820

28.76

100853


44.06

2000

441646

108356

24.53

162220

36.73

171070

38.74

2001

481295

111858

23.24

183515

38.13


185922

38.63

2002

535762

123383

23.03

206197

38.49

206182

38.48

2003

613443

138285

22.54

242126


39.47

233032

37.99

2004

715307

155992

21.81

287616

40.21

271699

37.98

2005

839211

175984

20.97


344224

41.02

319003

38.01

2006

973790

198266

20.36

404753

41.56

370771

38.08

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, nhà xuất bản thống kê
Tuy chỉ đóng góp vào GDP chung của cả nước nhỏ hơn so với những ngành
công nghiệp và dịch vụ nhưng nông nghiệp lại thu hút phần lớn lực lượng lao động
của cả nước. Cho dù là tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp ngày càng giảm trong
những năm gần đây nhưng số lượng lao động trong nông nghiệp vẫn luôn chiếm đa số
lao động trong xã hội (chiếm hơn 50% lao động). Do vậy việc thúc đẩy tăng trưởng và

phát triển nông nghiệp vẫn sẽ là một trong những ưu tiên đầu tiên trong chiến lược
phát triển kinh tế.
Bảng 2.3: Cơ cấu lao động làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm theo ngành
Đơn vị: %
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Nông nghiệp và lâm nghiệp
62.5 60.6 58.7 57.0 55.4 53.8 52.1


Thuỷ sản
Công nghiệp
Xây dựng
Thương nghiệp
Khách sạn, nhà hàng
Vận tải, kho bãi, thơng tin liên
lạc
Văn hố, y tế, giáo dục
Các ngành dịch vụ khác

2.6
10.3
2.8
10.4
1.8
3.1
3.6
2.9

2.8
11.0

3.3
10.5
1.8

3.2
11.5
3.9
10.8
1.8

3.3
12.3
4.2
11.2
1.8

3.4
12.7
4.6
11.5
1.8

3.5
13.5
4.7
11.6
1.8

3.6
14.3

4.6
11.7
1.8

3.1
3.0
2.9
2.9
2.7
2.6
3.7
3.8
3.9
4.0
4.1
4.2
3.1
3.3
3.5
3.7
4.4
5.2
Nguồn: tổng cục thống kê www.gso.gov.vn

Nông nghiệp không chỉ đóng vai trị quan trọng trong việc thu hút lao động, tạo
công ăn việc làm cho tới hơn 50% lao động trong nước, góp phần tạo sự ổn định trong
xã hội mà cịn góp phần đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Tuy một mặt,
nông nghiệp phải đảm bảo lương thực cho người dân trong nước, dự trữ lương thực,
đảm bảo các chính sách về đảm bảo lương thực quốc gia nhưng hiện nay nông sản
cũng vẫn là một trong những sản phẩm mũi nhọn trong cơ cấu xuất khẩu Việt Nam.

Đã qua rồi cái thời là một nước nông nghiệp nhưng phải nhập khẩu lương thực, hiện
nay Việt Nam là một trong những nhà xuất khẩu nông sản lớn của thế giới với sản
lượng cao trên thế giới. Về trị giá xuất khẩu gần đây mặt hàng nơng sản có xu hương
giảm so với những mặt hàng khác nhưng vẫn luôn chiếm một tỷ lệ tương đối lớn. Năm
2007 hầu hết hàng nông sản năm nay đều được giá nên giá trị xuất khẩu tăng mạnh
với nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD trở lên như thủy sản, gạo, cà
phê, cao su, sản phẩm gỗ. Cà phê là mặt hàng về đích với khoảng 1,8 tỷ USD tăng gần
50% so với năm 2006 (năm 2006 xuất khoảng 1,2 tỷ USD). Mặt hàng gỗ chế biến đạt
khoảng 2,34 tỷ USD tăng 21% so với năm 2006; cao su trên 1,4 tỷ USD, tăng 10%;
gạo là 1,48 tỷ USD tăng 16%, trong khi đó thủy sản vẫn dẫn đầu với con số 3,75 tỷ
USD.
Bảng 2.4: Xếp hạng sản lượng một số nông sản năm 2001, 2004 và 2007.
Lúa
5

2001
Cà Chè

Hạt

Phê
2

Tiêu
4

8

Lúa
5


2004
Cà Chè

Hạt

phê
2

tiêu
1

7

Lúa
5

2007
Cà Chè

Hạt

phê
2

tiêu
1

7



Nguồn: Số liệu kinh tế - xã hội các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhà
xuất bản thống kê, và số liệu tự tổng hợp.
Những số liệu trên cho thấy rằng, cho dù cơng nghiệp hóa hiện đại hóa là một
xu thế tất yếu để phát triển đất nước và do đó, nơng nghiệp sẽ đóng góp ngày càng ít
vào GDP của cả nước, nhưng điều đó khơng có nghĩa rằng vai trị của nơng nghiệp
đến nền kinh tế sẽ giảm. Nông nghiệp trong thời kỳ mới sẽ khơng chỉ tập trung về việc
tăng về lượng mà cịn phải tập trung về chất để có thể cạnh tranh hơn nữa trên thị
trường. Hơn nữa, công cuộc đổi mới của nước ta sẽ góp phần thúc đẩy lực lượng sản
xuất trong nơng nghiệp, cơ giới hóa các khâu sản xuất, nông thôn sẽ chuyển dịch dần
sang hướng khai thác tiềm năng lợi thế và cải thiện cơ cấu xuất nhập khẩu hàng nông
lâm thủy sản ở nước ta thời gian qua.
2.2.3.2. Khả năng tham gia sở giao dịch hàng hóa của một số nơng sản Việt Nam
Lúa gạo
Như đã đề cập ở trên, nông nghiệp Việt Nam giữ một vai trò quan trọng trong
sự phát triển và ổn định xã hội và trong đó nơng nghiệp sản xuất lượng thực chiếm vị
trí quan trọng nhất. Nghề trồng lúa vốn là một nghề đã có từ lâu đời ở Việt nam, hơn
nữa do điều kiện tự nhiên thuận lợi nên Việt nam là một nước sản xuất lúa gạo đứng
vào loại hàng đầu các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay tuy sản lượng sản xuất
của Việt Nam chỉ đứng thứ 5 trên thế giới nhưng Việt Nam hiện đang đứng thứ 2 trên
thế giới về lượng gạo xuất khẩu.
Về diện tích: tổng diện tích tự nhiên của cả nước là vào khoảng 329.314,04ha
với khoảng 20,25% đất đai được sử dụng vào mục đích sản xuất nơng nghiệp trong đó
hơn một nửa dùng cho sản xuất lúa. Trong những năm gần đây diện tích trồng lúa của
Việt nam ngày càng tăng nhưng đó khơng chỉ nhờ tăng diện tích tự nhiên mà phần lớn
do tăng vụ, hiện nay nhiều nơi ở Việt Nam đã tiến hành trồng lúa 3 vụ.

Bảng 2.5: Diện tích đất trồng lúa qua các năm
Năm
Diện tích


Đơn vị: nghìn ha
1985 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2006 2007
5718 6766 7666 7493 7504 7452 7444 7325 7181
Nguồn: Tổng quan ngành lúa gạo năm 2005 và số liệu tự tổng hợp.

Các cùng sản xuất lúa gạo ở nước ta chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long,
đồng bằng sông Hồng và một phần duyên hải miền Trung.


Về năng suất: Do có truyền thống canh tác canh tác lâu đời cộng với điều kiện
thiên nhiên thuận lợi nên năng suất lúa của Việt Nam thuộc vào loại cao so với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Bảng 2.6: Năng suất và tốc độ tăng trưởng năng suất lúa 1995-2004 của một số
nước châu á.
Năng suất (tấn/ha)
1995
2004

Nước

Thái Lan
2,42
2,57
Philippin
2,8
3,55
Myanmar
2,98
3,83

Việt Nam
3,69
4,82
Băngladesh
2,65
3,45
Ấn Độ
2,7
2,93
Nguồn: tổng hợp dựa trên “số liệu kinh

Tốc độ tăng trưởng trung bình
(%/năm)
1,67
8,33
9.44
12.6
8,89
2,56
tế_xã hội các nước và vùng lãnh thổ

trên thế giới” (NXB thống kê)
Sự tăng trưởng vượt bậc như vậy là nhờ sự cởi trói trong lĩnh vực xuất khẩu
của chính phủ trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế và cải cách nhằm trở thành hội
viên của tổ chức thương mại thế giới WTO như bãi bỏ giấy phép xuất khẩu chuyển
năm 1996, bỏ quy định đầu mối xuất khẩu gạo vào tháng 4/2001.
Về sản lượng: Nhờ tăng diện tích và năng suất, sản lượng nông nghiệp tăng lên
rõ rệt, năm 1985 tổng sản lượng lúa là 15,8 triệu tấn đến năm 2004 sản lượng này đã
tăng hơn 200% lên 35,8 triệu tấn.


Bảng 2.7: Sản lượng lúa Việt nam qua các năm
Đơn vị: triệu tấn
Năm
SL

1985
15,86

2000
32,53

2001
32,11

2002
34,45

2003
34,57

2004

200

200

2007

35,87


5
-

6
35,8

35,9

2
Nguồn: tổng cục thống kê Việt Nam và số liệu tự tổng hợp.
Về chi phí sản xuất: Giá thành là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất để
đánh giá hiệu quả. Giá thành sản xuất lúa của Việt Nam nhìn chung là khá thấp, theo
đánh giá của Viện nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI), Việt Nam là


một trong những nước có chi phí sản xuất lúa thấp nhất trên thế giới. Hệ số “chi phí
nguồn lực nội địa” (DRC) cho thấy Việt Nam có lợi thế khá mạnh trong sản xuất gạo,
trong giai đoạn 1995-2000, chỉ số DRC bình qn ở đồng bằng sơng Cửu Long là 0,42
nghĩa là chỉ với 42 đồng chi phí nguồn lực trong nước có thể tạo ra 100 đồng lợi
nhuận khi bn bán với nước ngồi. Con số này ở đồng bằng Sông Hồng là 0,75 cũng
tương đối thấp trong nhưng vấn cao hơn so với đồng bằng sông Cửu Long.
Về chất lượng: Mặc dù trong những năm vừa qua năng suất và sản lượng lúa
của Việt Nam không ngừng gia tăng nhưng chất lượng thì vẫn cịn cần phải được cải
thiện nhiều. Gạo chất lượng cao cũng đã bắt đầu chiếm một tỷ lệ khá lớn trong kim
ngạch xuất khẩu Việt Nam với hơn 25%. Chất lượng gạo không cao chính là do hệ
thống chế biến lúa gạo của chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu ngày càng tăng. Tỷ
lệ gạo sau chế biến chỉ đạt 60 đến 65% so với mức trên 70% của máy hiện đại mà các
nước đang sử dụngtrong đó tỷ lệ gạo nguyên hạt chỉ chiếm 42-48%, vừa gây lãng phí
trong chế biến, vừa phải xuất với giá thấp. Vì vậy, trong những năm gần đây, nhà
đước đã đưa ra rất nhiều giải pháp nhằm cải thiện chất lượng gạo thông qua công nghệ

mới, và chế biến tập trung.
Tình hình tiêu thụ:Tiêu thụ trong nước bao gồm tiêu thụ cho nhân dân cho chăn
ni và tiêu thụ khác. Cịn lại là để phục v cho mc tiờu xut khu

Lượng(nghìnư
tần)
Kimưngạchư
(triệuưUSD)ư

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nguồn: Triển vọng một số mặt hàng nông sản Việt Nam 2006,và số liệu tính đến
12/2007
Kim ngạch xuất khẩu gạo đóng một vai trị hết sức quan trọng trong kim ngạch
xuất khẩu chung của Việt Nam, là một trong 10 mặt hàng có kim ngạch trên tỷ USD,



×