Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Điều kiện hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.71 KB, 114 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cho đến nay sở giao dịch hàng hóa (Commodity exchange) đã không còn mới
lạ đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Kể từ lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1848 cho
đến nay, sở giao dịch hàng hóa đã không ngừng phát triển và đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại và góp phần vào phát triển nền kinh tế nói
chung. Tuy nhiên, ở Việt Nam sở giao dịch hàng hóa vẫn còn là một khái niệm khá
xa lạ với những nhà sản xuất hay các nhà đầu tư. Người ta vẫn mới chỉ biết đến một
loại hình sở giao dịch tương tự sở giao dịch là sở giao dịch chứng khoán mà thôi. Với
thị trường tiềm năng là hơn 80 triệu dân, trong đó phần lớn là ở nông thôn, cộng với
nền kinh tế ngày càng phát triển với tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục,
và sự hội nhập ngày càng sâu rộng của thương mại Việt Nam với thế giới, nhu cầu về
sự hình thành sở giao dịch hàng hóa nhằm tăng cường giao dịch hàng là rất lớn. Nh-
ưng tại sao ở Việt Nam vẫn chưa hình thành những sở giao dịch hàng hóa thế mạnh
đặc biệt là các mặt hàng nông sản? Chính vì vậy, câu hỏi đặt ra hiện nay là cần phải
đáp ứng những yếu tố nào để có thể thành lập được sở giao dịch hàng hóa ở Việt
Nam, do đó em đã chọn “Điều kiện hình thành và phát triển sở giao dịch hàng hóa
ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của khóa luận
Trên cơ sở xây dựng hệ thống cơ sở lý luận chung về sở giao dịch hàng hóa
trên thế giới cũng như việc tìm hiểu những điều kiện cần thiết để hình thành và phát
triển sở giao dịch hàng hóa, khóa luận đã đưa ra nhận xét về khả năng xây dựng sở
giao dịch hàng hóa ở Việt Nam. Đồng thời, trên cơ sở tìm hiểu kinh nghiệm của một
số quốc gia đang phát triển, đề xuất mô hình sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: các điều kiện khách quan và chủ quan để xây dựng sở
giao dịch hàng hóa trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
1
Phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu cơ sở lý luận chung sở giao dịch hàng hóa, đánh
giá khả năng thành lập sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam đồng thời đề xuất mô hình
áp dụng cho Việt Nam.


4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để nghiên cứu đề tài, em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: thu
thập tài liệu, phân tích thống kê, hệ thống hóa và diễn giải. Bên cạnh đó còn sử dụng
phương pháp so sánh đối chiếu để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, đồng thời
nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của khóa luận được phân bổ thành 3 chương:
- Chương I: Tổng quan về sở giao dịch hàng hóa.
- Chương II: Điều kiện để xây dựng sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.
- Chương III: Kinh nghiệm thành lập sở giao dịch ở một số nước và một số đề xuất
về sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam.
Trong quá trình làm khóa luận này em xin gửi lời cảm ơn trước nhất tới PGS.
TS Nguyễn Văn Hồng – Bộ môn Giao dịch Thương mại quốc tế, khoa kinh tế và kinh
doanh quốc tế đã hướng dẫn và giúp em hoàn thiện bài khóa luận của mình.
Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn, và các
thầy cô giáo trong khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế và của trường đại học Ngoại
Thương đã trang bị cho em những kiến thức hết sức bổ ích và thiết thực giúp em
hoàn thành bài khóa luận này cũng như trong quá trình công tác sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2008
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ
1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN SỞ GIAO DỊCH HÀNG
HOÁ
1.1.1. Quá trình phát triển sở giao dịch hàng hoá
Đối với nhiều người thì nhắc đến sở giao dịch hàng hoá là nhắc đến một hệ
thống thị trường phức tạp với một hệ thống giao dịch phát triển các giao dịch tương
lai và quyền chọn hàng hoá như những sở giao dịch nổi tiếng như sở Thương Mại
Chicago (CBOT), sở giao dịch ngũ cốc Tokyo (Tokyo Grain Exchange), hay là sở

giao dịch kim loại Luân Đôn (London Metal Exchange). Đối với một số người khác
thì lại cho rằng sở giao dịch là một cơ cấu thị trường tiên tiến được sử dụng ở các
nước công nghiệp các nước có thu nhập thấp không thể mơ tới.
Lịch sử về sự phát triển thị trường ở Chicago đã cho thấy rằng, hệ thống thị
trường sẽ dần phát triển cùng với sự phát triển của các thị trường này cũng như khi
sự tăng tưởng kinh tế chứ không phải xuất phát từ một thị trường phức tạp ngay từ
đầu. Hay nói khác đi, sở giao dịch Chicago không bắt đầu từ một thị trường phát triển
ngay như ngày hôm nay. Vào những năm 1840, khi mà việc sản xuất ngũ cốc ngày
càng phát triển nhờ sự cải tiến về công nghệ thì những người nông dân ở phía Tây
nước Mĩ thường đến Chicago để bán ngũ cốc cho các thương gia, rồi sau đó những
người này sẽ đưa lượng hàng hoá này đi khắp cả nước. Dần dần, hoạt động này trở
nên sôi nổi đến mức hầu như không đủ nhà kho chứa lúa mì của nông dân. Khối
lượng sản xuất ngày càng lớn trong khi hệ thống vận tải chưa phát triển phù hợp
không thể đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa. Khi những người nông dân
này đến Chicago họ không hề biết trước giá cả thị trường, hơn nữa ở Chicago lúc này
có rất ít các công cụ để cất trữ hàng hoá và cũng không có một quy trình chuẩn nào
để cân và đánh giá chất lượng ngũ cốc, khiến cho nông dân rơi vào thế bị động và
phụ thuộc vào thương nhân. Thị trường tiêu thụ hỗn loạn, các nhà đầu cơ lợi dụng
tình trạng này ép giá làm giá ngũ cốc giảm mạnh sau vụ thu hoạch rồi sau đó lại tăng
lên khi nguồn cung đã được giải toả. Những hiện tượng mang tính chu kỳ như vậy đã
gây nên những thiệt hại nghiêm trọng cho người sản xuất lương thực, do đó những
3
người nông dân đã tìm cách tránh rủi ro bằng cách bán ngũ cốc trước khi vận chuyển
đến nơi tiêu thụ, kể cả với mức giá thấp hơn một ít so với giá dự kiến khi ngũ cốc
được đưa đến thị trường. Người mua và người bán lúc này phải thoả thuận với nhau
về số lượng ngũ cốc, chất lượng, giá cả, thời gian, địa điểm giao hàng và nhận tiền.
Ban đầu, những hoạt động này diễn ra tự phát và đơn lẻ nhưng dần dần do tính ưu
việt của nó trong việc tiêu thụ cũng như lưu thông hàng hoá nó lại trở nên ngày càng
phổ biến. Do vậy, một thị trường mới dần được hình thành, một thị trường mà ở đó
người mua và người bán gặp nhau để thoả thuận, cam kết với nhau về việc mua bán,

giao hàng và nhận tiền trong tương lai. Tuy nhiên, ở một thị trường mới như vậy,
việc tìm được người mua hay người bán đúng với số lượng và chất lượng hàng hoá
nông sản mình cần không phải là một việc dễ dàng. Chính vì vậy, trên thị trường lúc
này xuất hiện một người thứ ba - người trung gian với vai trò môi giới chắp nối
những người cần mua và cần bán lại với nhau. Nhưng việc chắp nối của người trung
gian thực không đơn giản, để hành nghề họ cũng phải bỏ thời gian và sức lao động và
để thu được lợi nhuận họ cũng phải gánh chịu những rủi ro khi không gặp được đúng
người mua và người bán. Các hiện tương như vậy đã đặt ra cho các nhà kinh tế một
nhiệm vụ cần phải giải quyết, một mặt để giải toả được những ách tắc trong lưu
thông, làm ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế, mặt khác đây cũng là một thị
trường kinh doanh hết sức hấp dẫn. Chính vì vậy vào năm 1848, Chicago Board of
Trade (CBOT) đã được mở ra bởi 82 thương nhân buôn ngũ cốc ở một thị trấn nhỏ là
Midwestern như là một trung tâm mua bán nơi mà những người nông dân và các
thương nhân gặp gỡ để đổi tiền lấy việc giao ngay những loại hàng hoá nông sản như
lúa mì, trên cơ sở những quy định nhất định đã được CBOT thiết lập sẵn về việc đánh
giá và cân đo lúa mì, và việc cất trữ những phần lúa mì còn lại chưa được giao dịch,
cũng như là việc đấu thầu giá cả, và giải quyết những tranh chấp diễn ra. Đây chính
là sở giao dịch hàng hóa đầu tiên trên thế giới.
Sự phát triển các loại hình sở giao dịch hàng hóa: khi cả những người chế
biến, nông dân đều thấy được lợi ích từ việc mua bán giao dịch qua sở giao dịch thì
vào năm 1851, những người nông dân và các thương nhân đã bắt đầu áp dụng các
hợp đồng kỳ hạn (forwards). Người nông dân sẽ thỏa thuận một mức giá để bán một
4
lượng ngũ cốc nhất định tại một thời điểm trong tương lai. Khi những hợp đồng kỳ
hạn này trở nên phổ biến thì vào năm 1865, CBOT đã đưa ra một hợp đồng chuẩn
được biết đến là hợp đồng tương lai với ngày giao hàng được xác định trước và một
khoản tiền bảo chứng để ràng buộc việc thực hiện nghĩa vụ. Ngay sau năm đó thì Sở
giao dịch bông New York cũng được thành lập và đã bắt đầu chi phối thị trường
bông, từ việc mua bán bông rồi sau đó là thực hiện mua các các loại nông sản khác.
Dựa trên những sự phát triển này, năm 1859 nghĩa là đúng một thập niên sau khi

được thành lập, chính phủ Mĩ đã chính thức trao quyền cho CBOT và do đó uỷ quyền
cho CBOT việc đặt ra những tiêu chuẩn về chất lượng của hàng hoá và đảm nhận
việc giám sát thường xuyên vào mặt hàng ngũ cốc được giao dịch trên sở giao dịch,
nhằm bảo đảm sự thống nhất của thị trường. Sự cải tiến này đã giảm những rủi ro và
chi phí liên quan đến việc thoả thuận các hợp đồng kỳ hạn trên cơ sở cá nhân.
Ban đầu hoạt động của các thị trường tương lai không có gì đặc biệt. Lúc đó
người ta gọi những người hoạt động theo kiểu này là những “kẻ đầu cơ liều mạng”.
Những người này thành công trong việc mua vét hàng hay ép giá một mặt hàng nào
đó trên thị trường nhất định. Một biến cố nổi tiếng đã xảy ra đó là: ngày thứ sáu đen
tối năm 1869 là ngày giá vàng bị phá. Việc hai nhà kinh doanh Jay Gould và Jim Fisk
mua vét giá vàng đã bị đổ bể khi tổng thống Grant ra lệnh bán vàng của kho bạc Mỹ.
Với ấn tượng là việc mua bán tương lai hàng hoá mang tính chất đầu cơ tạo nên sự
bất ổn định về tài chính và sự biến động giá giao ngay quá lớn làm cho những nhà lập
pháp liên tiếp phản đối và thậm chí họ còn muốn loại bỏ hình thức giao dịch này trên
thị trường. Cuối cùng vào năm 1922 tức là khoảng 74 năm sau ngày thành lập đầu
tiên của sở giao dịch Chicago, chính phủ Mỹ đã thành lập Grain Futures
Administration là một cơ quan giám sát để giám sát sự mở rộng của hoạt động giao
dịch trên sở giao dịch ngũ cốc và năm 1936 ban hành luật về sở giao dịch hàng hoá.
Năm 1968, các luật trên lại được sửa đổi và điều chỉnh với các điều khoản phù hợp
trong việc mua bán tương lai. Năm 1974 ủy ban mua bán tương lai (CFTC) được
thành lập. Vai trò và quyền hạn của CFTC hết sức quan trọng vì đó là tổ chức duy
nhất thay mặt chính quyền quản lý các hoạt động của thị trường tương lai. Tuy sự
hình thành và phát triển của thị trường tương lai đã tiếp thu được tất cả những ưu việt
5
đồng thời cũng khắc phục được những hạn chế của thị trường kỳ hạn nhưng các sở
giao dịch tương lai hàng hóa không thay thế hoàn toàn thị trường kỳ hạn - tiền thân
của giao dịch tương lai, mà chúng song song tồn tại. Các giao dịch kỳ hạn vẫn tiếp
tục tồn tại với tư cách là những hoạt động giao dịch ngoài sở, lúc này sở giao dịch
trong thị trường tương lai đóng vai trò như người trung gian chắp nối cho các nhu cầu
mua và bán trong thị trường kỳ hạn một cách có tổ chức.

Cùng với làn sóng tự do hoá thương mại trên toàn cầu thì sự hình thành các sở
giao dịch hàng hoá ngày càng nhiều với khối lượng giao dịch ngày càng lớn
1
, đặc biệt
là ở các quốc gia đang phát triển và để thu hẹp khoảng cách để lại do hệ thống giá cả
cố định trước đây chứ không chỉ có trong phạm vi nước Mỹ
2
. Những sở giao dịch
còn tồn tại được và hiện nay là những sở giao dịch lớn nhất trên thế giới và đang giao
dịch những loại hàng hoá hoàn toàn khác so với những loại hàng hoá mà ban đầu nó
vẫn giao dịch. Ví dụ như sở giao dịch Chicago (Chicago Mercantile Exchange) ban
đầu chủ yếu giao dịch nông sản, còn hiện tại lại chủ yếu giao dịch các hợp đồng
tương lai tài chính; sở giao dịch năng lượng lớn nhất hiện nay, sở giao dịch New
York (New York Mercantile Exchange) trước đây giao dịch chủ yếu là khoai tây và
bơ. Hiện nay rất nhiều sở giao dịch đang phải đối mặt với một câu hỏi là liệu họ có
nên tiếp tục tập trung vào việc giao dịch những loại hàng hoá truyền thống hay là tìm
kiếm một loại hình hợp đồng mới. Sự cân nhắc này dẫn tới việc xuất hiện hợp đồng
dầu mỏ trên sở giao dịch hàng nông sản, các hợp đồng quyền chọn đối với các hợp
đồng tương lai đã được giao dịch, thậm chí là cả những hợp đồng phái sinh phức tạp
khác như ( bảo hiểm mùa vụ, chi phí vận tải, quyền thải khí ô nhiễm, v.v…). Do đó,
ngày nay hàng hoá giao dịch trên các sở giao dịch ‘hàng hoá’ trên thị trường thế giới
hiện nay hết sức đa dạng chứ không chỉ gói gọn trong mặt hàng nông sản truyền
thống nữa.
3
Xu hướng sáp nhập các sở giao dịch hàng hóa: Các sở giao dịch hàng hóa
ngày nay đã trải qua một số giai đoạn sáp nhập, các sở giao dịch ở Mĩ vào những năm
1980, hầu hết đều là kết quả của các vụ sát nhập của hai hay thậm chí là nhiều sở
1
Xem phô lôc 1
2

Xem phô lôc 3 vµ phô lôc 4
3
Xem phô lôc 10 vµ phô lôc 11
6
giao dch. Nhng nm 90 ca th k 20 thm chớ cũn chng kin nhiu v sỏp nhp
hn na. Mt trong nhng nguyờn nhõn ca xu hng ny chớnh l tớnh cnh tranh
ngy cng tng ca cỏc giao dch hp ng tng lai: mi e da t h thng giao
dch in t i vi nhng s giao dch vi nhng h thng giao dch truyn thng.
Thờm vo ú mt nguyờn nhõn na l t phớa cỏc quy nh ca chớnh ph c bit l
nhng quc gia nh Nht Bn v Trung Quc. Nhng nguyờn nhõn ú ó dn ti
mt lot cỏc cuc sỏp nhp: Nht s lng cỏc cuc sỏp nhp ó lm cho s lng
cỏc s giao dch nc ny gim xung hn mt na t 17 s giao dch nm 1993
xung cũn 8 nm 1997. Anh, Liffe ó sỏp nhp vi S giao dch hng húa Luõn
ụn vo thỏng 9/1996. Ti M, NYMEX sn giao dch tng lai nng lng ln nht
th gii lỳc by gi ó sỏp nhp vi Comex (Comex hin nay ang hot ng nh l
mt cụng ty con ca Nymex), v cỏc thnh viờn ca c NYCE v CSCE ó u b
phiu ng ý sỏp nhp v thnh lp NYBT (Board of Trade of city New York). Xu
hng sỏp nhp cỏc s giao dch hng húa trờn th gii c d oỏn l s tip tc
kộo di, in hỡnh l v sỏp nhp gia hai s giao dch ln nht ca M l CBOT v
CME hỡnh thnh mt s giao dch ln nht th gii.
4

iu ỏng chỳ ý t cỏi nhỡn tng quỏt v s lch s phỏt trin ca s giao dch
hng hoỏ ny chớnh l vic th trng Chicago ó c thnh lp v phỏt trin gii
quyt nhng vn v chi phớ cng nh l ri ro m nụng dõn phi gỏnh chu trờn th
trng, v nhu cu phi sp xp th trng hng hoỏ nụng sn qua nhng ngi tham
gia th trng, qua khụng gian v thi gian. Cng cn phi nhn mnh rng quy nh
ca chớnh ph tng lờn khi th trng phỏt trin l thỳc y s phỏt trin th trng
ch khụng phi l kim soỏt th trng.
1.1.2. c im s giao dch hng húa

Xột v bn cht mt s giao dch hng hoỏ ch n gin l mt ni m ngi
mua v ngi bỏn tp trung trao i theo mt cỏch thc ó c nh trc, vi
nhng quy nh c th v ht sc rừ rng. Vi ngha rng ny, mt s giao dch
hng hoỏ l bt c th trng cú t chc no, giao dch hng hoỏ thc hoc khụng,
c tp trung qua mt b mỏy duy nht, cho phộp s cnh tranh hiu qu nht gia
4
Xem phụ lục 7: các tập đoàn sở giao dịch thế giới
7
những người mua và những người bán. Do đó giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa là
một phương thức giao dịch đặc biệt so với các phương thức giao dịch khác như mua
bán trực tiếp, mua bán qua trung gian, mua bán đối lưu,…ở những đặc điểm sau đây
1.1.2.1. Các hợp đồng phải có tiền bảo chứng
Tiền bảo chứng (hay mức ký quỹ) là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng,
bắt buộc đối với cả bên bán và bên mua. Thay vì phải bỏ ra một khoản tiền lớn để đặt
cọc hoặc một lượng tiền bằng với giá trị hàng hóa (thế chấp) để bảo đảm cho việc
mua bán thì sở giao dịch chỉ quy định một mức bảo chứng rất thấp, tùy vào loại hàng
hóa. Mức yêu cầu về tiền bảo chứng thấp khi tham gia vào các hợp đồng tại sở giao
dịch là một trong những nguyên nhân làm cho chúng trở thành những công cụ đòn
bẩy tài chính mạnh mẽ. Các loại tiền bảo chứng trên sở giao dịch gồm
• Tiền bảo chứng ban đầu (Initial Margin): Tiền bảo chứng ban đầu là khoản
tiền ký quỹ vào tài khoản bảo chứng để bảo đảm trang trải bất cứ khoản lỗ nào do
những biến động xấu trên thị trường. Việc ký quỹ tiền bảo chứng ban đầu này được
xem như khoản tiền đặt cọc cam kết thi hành hợp đồng mà hai bên mua bán phải thực
hiện. Mức tiền bảo chứng ban đầu cũng khác nhau tùy loại hợp đồng và phải trả
trước khi chuyển lệnh cho người môi giới.
Mỗi người tham gia thị trường đều phải trả khoản tiền bảo chứng ban đầu cho
người môi giới của mình và phải duy trì khoảng mức tiền bảo chứng được yêu cầu.
Trong trường hợp các khách hàng còn phải thông qua một hãng môi giới khác ngoài
các thành viên môi giới của sở giao dịch hàng hoá, như là các FCM (hãng buôn hoa
hồng_Futures commission Merchants) thì họ còn phải nộp một khoản tiền bảo chứng

ban đầu cao hơn vì các FCM này thường yêu cầu khách hàng phải nộp khoản tiền lớn
hơn vì mục tiêu kinh doanh của họ.
• Tiền bảo chứng duy trì (Maintenance Margin): Khi tiền bảo chứng đạt mức
duy trì tối thiểu, nhà đầu tư cần phải nộp tiền để đảm bảo đưa mức tiền bảo chứng trở
lại tiền bảo chứng ban đầu (Initial margin). Đây là khoản tiền tối thiểu mỗi hợp đồng
mà khách hàng phải ký quỹ mãi mãi. Khoản bảo chứng này thường thấp hơn khoản
tiền bảo chứng ban đầu, nó thường bằng 75% khoản tiền bảo chứng ban đầu.
8
• Tiền bảo chứng biến đổi (Variation Margin hay Margin Call): Những khoản lỗ
và lãi của những khách hàng của các thành viên được kết toán thông qua trung tâm
thanh toán bù trừ. Cuối mỗi ngày giao dịch, trung tâm thanh toán lại xác định các
mức giá kết toán cho mỗi hợp đồng trên cơ sở giá niêm yết trên thị trường vào cuối
phiên giao dịch. Những thành viên mà bị lỗ ở cuối ngày giao dịch sẽ bị yêu cầu nộp
tiền bảo chứng thêm. Các thành viên thanh toán lại chuyển thông báo về số tiền phải
nộp thêm cho khách hàng của mình.
1.1.2.2. Đa số các hợp đồng được thanh lý trước thời hạn
Trong các hợp đồng thông thường, khi các bên muốn thanh lý hợp đồng trước
ngày giao hàng đồng nghĩa với việc thỏa thuận để chấm dứt hợp đồng hoặc thoả
thuận chuyển nghĩa vụ của mình cho người khác, khi đó các bên sẽ thoát khỏi sự ràng
buộc về nghĩa vụ với nhau. Nhưng trong hợp đồng giao sau được mua bán tại sở giao
dịch hàng hóa thì các bên có thể thanh lý hợp đồng trước ngày đáo hạn một cách dễ
dàng mà không cần phải thông qua một sự thoả thuận nào. Chẳng hạn như thanh toán
hợp đồng tương lai, giao và nhận hàng hữu hình là cách thanh lý hợp đồng mà không
mấy người tham gia thị trường này lựa chọn:
• Giao hàng hữu hình: Kết thúc một vị thế tương lai bằng việc nhận giao hàng
thường là biện pháp ‘nặng nhọc’ để hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng. Việc giao hàng
hữu hình đặt ra những chi phí rõ rệt: chi phí kho hàng, bảo hiểm, xếp tàu, và lệ phí
môi giới. Trên trên thực tế việc giao hàng hữu hình chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ
(khoảng 2%) bởi nó đòi hỏi mua hay bán thực sự một thứ hàng, điều mà các nhà kinh
doanh thường không muốn làm trừ khi họ có nhu cầu cụ thể đối với hàng hoá (với và

do đó chỉ những công ty kinh doanh hàng hoá mới ưa chuộng hình thức này.
• Bù trừ (Offsetting): đây là hình thức thanh toán vị thế phổ biến nhất, người
mua khởi đầu và kết thúc vị thế của mình bằng việc bán một hợp đồng tương lai y hệt
(cùng một loại hàng và cùng tháng giao hàng). Tương tự, người bán khởi đầu kết thúc
vị thế của mình bằng cách mua một hợp đồng y hệt. Sau khi việc mua bán đó được
thực hiện và báo cáo về trung tâm thanh toán thì nghĩa vụ của cả hai bên được xoá đi
trong sổ sách của trung tâm thanh toán và của những người môi giới ngoài sở (nếu
có).
9
So với việc nhận hoặc giao hàng hữu hình thì việc thanh toán bằng bù trừ
tương đối đơn giản hơn. Nó chỉ đòi hỏi thị trường tương lai đủ cơ động để tạo thuận
lợi mua bán bằng bù trừ và chỉ khuyến khích chi phí môi giới thông thường.
1.1.2.3 Các điều khoản trong hợp đồng được tiêu chuẩn hóa
Các hoạt động mua bán tại sở giao dịch hàng hóa phải được thực hiện liên tục
với trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bảo đảm an toàn cao. Từ yêu cầu đó mà các
điều khoản trong hợp đồng phải được tiêu chuẩn hóa một cách tối đa, giúp cho việc
ký kết hợp đồng nhanh chóng, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý. Các điều khoản được
tiêu chuẩn hóa thường bao gồm: tên hàng, chất lượng, quy mô hợp đồng, thời gian
giao hàng và địa điểm giao hàng.
Tên hàng là hàng hóa được phép giao dịch trên sở giao dịch đó. Hàng hóa đó
đa số là hàng hóa thông thường nhưng cùng với sự mở rộng hoạt động thì một số sở
giao dịch lớn còn cung cấp các sản phẩm hợp đồng tài chính. Mỗi sở giao dịch chỉ
giao dịch một số loại hàng hóa nhất định, người tham gia thị trường chỉ được phép
giao dịch các hàng hóa cho phép đó.
Chất lượng hàng hóa cũng được tiêu chuẩn hóa và giám sát nghiêm ngặt.
Hàng hóa được phân thành các mức chất lượng khác nhau nhưng thông thường thì sở
giao dịch chỉ cho phép giao dịch một vài mức chất lượng nhất định. Khi chất lượng
hàng hóa được chuẩn hóa, phân loại rõ ràng thì đã tạo điều kiện cho hoạt động giao
dịch trở nên thuận tiện, nhanh chóng và đáng tin cậy, từ đó tạo nên uy tín của từng sở
giao dịch hàng hóa. Đó là lý do vì sao việc làm đánh giá chất lượng hàng hóa là một

công việc cơ bản có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các sở giao dịch.
Quy mô hợp đồng là độ lớn giá trị tài sản được giao dịch trong một hợp đồng.
Độ lớn mỗi hợp đồng tương lai về mỗi loại hàng hóa đều được thống nhất và hầu như
được thống nhất trên toàn thế giới giúp cho việc mua bán giữa các sở giao dịch hàng
hóa trên thế giới thông qua hệ thống kết nối mạng toàn cầu lại càng dễ dàng hơn.
Việc quy định độ lớn mỗi hợp đồng sao cho không quá lớn để những nhà bảo hộ nhỏ
cũng có khả năng tham gia và không quá nhỏ để đảm bảo giá trị được bảo hiểm hoặc
đầu cơ sẽ bù đắp được chi phí huê hồng hay các chi phí cố định khác.
10
Thời điểm giao hàng (thời điểm đáo hạn hợp đồng) thường được xác định là
tháng giao hàng trong năm. Trong tháng giao hàng đó, ngày giao hàng được quy định
cụ thể tuỳ vào loại hàng hóa và thị trường. Thời điểm giao hàng còn là điều kiện xác
định để nhằm phân biệt đối tượng được giao dịch trong hợp đồng tương lai, ví dụ
như: hợp đồng giao sau cà phê tháng 3 năm 2005 khác với hợp đồng giao sau cà phê
tháng 5 năm 2005…
Địa điểm giao hàng do sở giao dịch quy định trong hợp đồng. Như đã trình
bày thì việc mua bán trong các hợp đồng tại sở giao dịch thường là mang tính danh
nghĩa và không gắn với việc chuyển giao hàng hóa thực tế. Nhưng nếu có những
thương nhân muốn thực hiện hợp đồng chuyển giao hàng hóa thực sự khi hợp đồng
đáo hạn thì việc giao hàng này sẽ tiến hành tại các địa điểm do sở giao dịch quy định
để tiết kiệm chi phí, tạo thuận lợi cho cả thương nhân và sở.
Sự tiêu chuẩn hóa các điều khoản chủ yếu trong hợp đồng giao dịch tại sở giao
dịch hàng hóa là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt sở giao dịch với các
phương thức mua bán hàng hóa khác.
1.1.2.4. Trung tâm thanh toán giám sát việc thực hiện hợp đồng
Trung tâm thanh toán bù trừ đóng một vai trò quan trọng trong các sở giao
dịch tương lai và quyền chọn hàng hoá bởi vì nó kiểm soát rủi ro vỡ nợ của tất cả các
thành viên của các sở giao dịch đó. Người mua và người bán không ràng buộc trực
tiếp với nhau trên cơ sở hợp đồng nhưng đều bị ràng buộc bởi trung tâm thanh toán
này. Để đảm bảo chức năng của mình thì trung tâm thanh toán bù trừ của các sở giao

dịch hàng hóa đều phải thực thi những nhiệm vụ nhất định, bao gồm:
- Thiết lập và thực hiện chức năng của thị trường: nghĩa là thực hiện thiết lập và
quản lý các mức giá cả trên sở giao dịch; ghi nhận các giao dịch; giám sát các hoạt
động tại sàn; nhập và công cố các mức giá trong suốt phiên giao dịch và các mức giá
thực hiện ở cuối ngày giao dịch.
- Giám sát và quản lý các thành viên tham gia thị trường.
- Các hoạt động thanh toán bù trừ: bao gồm những công tác đảm bảo rủi ro tín
dụng; duy trì các tài khoản bảo chứng; thực hiện giao hàng đối với những hợp đồng
không được bù trừ trước hạn.
11
- Phát triển các loại sản phẩm mới: đưa vào áp dụng những công cụ tài chính
mới nhằm thu hút nhà đầu tư, đưa thêm các công cụ bảo hiểm.
1.1.3. Phân loại sở giao dịch hàng hoá
Hiện nay trên thế giới các sở giao dịch hàng hóa tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau. Và sự phân loại này cũng được dựa trên những tiêu chí khác nhau, đó là:
1.1.3.1. Căn cứ theo hình thức sở hữu
Luật pháp các nước đều quy định sở giao dịch hàng hoá là một tổ chức có tư
cách pháp nhân được thành lập theo quy định của pháp luật. Hiện nay trên thế giới,
sở giao dịch hàng hoá có những hình thức sở hữu sau:
• Hình thức sở hữu phi lợi nhuận (non-for-profit): Các thành viên có quyền hội
viên ở sở giao dịch cho phép họ có quyền giao dịch trên sở giao dịch và có quyền
quyết định, hoặc biểu quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động tại sở giao dịch
hàng hoá.
Mô hình sở hữu chung có thể có một số lợi ích cho những sở giao dịch hàng
hoá non trẻ. Bởi vì các thành viên có thể nhất trí trong việc trả những chi phí lớn ban
đầu xuất hiện trong những giai đoạn đầu của sự phát triển sở giao dịch hàng hoá. Một
cách tiếp cận khác là nhà nước sẽ là người sở hữu của sở giao dịch hàng hoá. Cách
tiếp cận này có những ưu thế nhất định nếu nó thu hút đầu tư và thúc đẩy trao đổi
mua bán trên thị trường, quản lý vì lợi ích thị trường nói chung chứ không phải để sử
dụng những sở giao dịch hàng hoá cho mục đích hay đòn bẩy chính trị.

Tuy nhiên, như vậy không có nghĩa là chỉ những sở giao dịch mới thành lập
mới sử dụng hình thức sở hữu này, ngay cả những sở giao dịch hàng hóa lớn thì mô
hình sở hữu này cũng vẫn được ưa chuộng và được áp dụng. Sở giao dịch ngũ cốc
Tokyo (Tokyo Grain exchange – TGE) là một ví dụ cho mô hình này được thành lập
dưới sự quản lý của bộ Nông, Lâm, Nghư nghiệp. Là một tổ chức thành viên, hội
đồng thành viên là cơ quan cao nhất của sở giao dịch. Các hoạt động hàng ngày của
sở giao dịch đều dưới sự quản lý của ban giám đốc, đứng đầu là chủ tịch, tất cả đều
được các thành viên của hội đồng thành viên bầu.
• Hình thức công ty cổ phần (for-profit organization): Các sở giao dịch tiến
hành cổ phần hoá (demutualize) đây là sự chuyển đổi sở giao dịch hàng hoá từ hình
12
thức sở hữu thành viên phi lợi nhuận sang hình thức công ty cổ phần. Các thành viên
nắm giữ cổ phần.
Rất nhiều sở giao dịch hàng hoá được hình thành như là tổ chức nhằm phục vụ
cho lợi ích cho thành viên của mình nên thường có cấu trúc như là các công ty sở hữu
bởi các thành viên, đặc biệt là các thành viên cùng một mối quan tâm mua bán. Tuy
nhiên, sự tách riêng sự quản lý sở giao dịch thành quyền sở hữu và quyền mua bán là
một trong những xu hướng phổ biến trên các sở giao dịch hàng hoá trên thế giới trong
5 năm trở lại đây. Quá trình này được thúc đẩy do những mối quan tâm đến sự quản
lý một cách hiệu quả, cơ chế tự điều chỉnh, niềm tin của những người tham gia thị
trường, và thúc đẩy sự tiếp cận tới nguồn vốn đầu tư.
1.1.3.2. Căn cứ vào hình thức thị trường
Hầu hết các sở giao dịch hàng hóa trên thế giới đều trải qua hai giai đoạn phát
triển chính. Và các hình thức giao dịch sở giao dịch hàng hóa này được phân chia dựa
trên các hình thức hợp đồng được giao dịch trên các Sở giao dịch tại mỗi giai đoạn
phát triển này.
Hình thức thị trường sơ cấp: sở giao dịch hình thành như là một địa điểm
tập trung những người mua và người bán có nhu cầu thực sự tiến hành mua bán và
giao nhận hàng hoá. Do đó những người mua và bán này cũng là những người tham
gia chính trên thị trường, họ là những người sản xuất, chế biến, người tiêu dùng hay

là những người buôn bán hàng hoá hữu hình và họ có nhu cầu thực sự về hàng hóa,
nên thị trường này được gọi là thị trường sơ cấp. Trên thị trường sở giao dịch lúc này
thực hiện các giao dịch các loại hợp đồng sau:
• Hợp đồng giao ngay hàng hoá: Là hợp đồng của những giao dịch trong đó
hàng hoá được giao ngay và trả tiền ngay vào lúc ký kết hợp đồng. Hợp đồng giao
ngay được ký trên cơ sở hợp đồng mẫu của Sở giao dịch giữa người có sẵn hàng
muốn giao ngay với người có nhu cầu gấp, cần được giao ngay.
Vì vậy đây chính là một hợp đồng hiện vật. Giá cả mua bán ở đây là giá giao
ngay (spot price hoặc spot quotation). Giao dịch này hiện chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong các giao dịch trên sở giao dịch hàng hoá trên thế giới (chỉ khoảng dưới 10%).
13
• Hợp đồng kỳ hạn (Forward): Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó
người mua và người bán chấp nhận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng
xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá ấn định vào
ngày hôm nay.
Điểm khác biệt giữa một hợp đồng kỳ hạn và giao dịch giao ngay là thời điểm
thanh toán giao dịch. Trong phần lớn các giao dịch giao ngay, hàng hoá được trao đổi
và việc thanh toán được thanh toán ngay lập tức (nếu trả bằng tiền mặt) hoặc trong
vòng hai ngay giao dịch kể từ khi ký kết hợp đồng. Đối với hợp đồng kỳ hạn, thời
hạn kết thúc giao dịch được để lùi lại một khoảng thời gian trong tương lai. Các hợp
đồng kỳ hạn xác định một ngày thanh toán cụ thể hoặc một thời điểm tiến hành giao
dịch trên thực tế, tới ngày thanh toán người mua trả tiền để mua hàng hoá tại mức giá
thoả thuận ban đầu và người bán chuyển giao hàng với số lượng ấn định ban đầu. Giá
hàng hoá trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng có thể thay đổi, tăng
lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai
bên mua hoặc bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết một mức giá thấp hơn (đối với bên
bán) hoặc cao hơn (đối với bên mua) giá thị trường.
Như vậy, bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều giới
hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình. Vì chỉ có
hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên chỉ phụ thuộc vào bên kia trong việc

thực hiện hợp đồng mà thôi. Ngoài ra, vì giá cả đặt ra mang tính chất cá nhân và chủ
quan nên có thể không chính xác.
Hình thức thị trường thứ cấp: giá cả xác định bởi các giao dịch trên sở giao
dịch hàng hoá trở thành mức giá tham khảo trên thị trường cho những nhà kinh doanh
rủi ro về giá trên thị trường. Với hình thức thị trường này thì khối lượng giao dịch
không đơn thuần phản ánh khối lượng giao nhận hàng hoá, mua bán thực nữa mà chủ
yếu phản ánh những giao dịch liên quan đến rủi ro giá cả trên thị trường hàng hoá.
Nhờ có những giao dịch này mà khối lượng giao dịch trên các sở giao dịch hàng hoá
được nhân lên rất lớn từ khối lượng hàng hoá mua bán thực. Những giao dịch đó bao
gồm giao dịch những loại hợp đồng sau:
14
• Hợp đồng tương lai hàng hoá (futures): Hợp đồng tương lai là một thoả thuận
đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn
xác định trong tương lai theo một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản
của các thị trường hợp đồng tương lai là tạo điều kiện cho những người tham gia thị
trường có thể phòng ngừa rủi ro và những biến động giá bất lợi.
Hợp đồng tương lai là những sản phẩm do các sở giao dịch tạo ra. Trước năm
1972, chỉ có các hợp đồng tương lai liên quan tới những nông sản truyền thống như
ngũ cốc hay gia súc, thực phẩm nhập khẩu (cà phê, ca cao và đường) hay kim loại
được giao dịch. Chúng được gọi chung là các hợp đồng tương lai hàng hoá. Các hợp
đồng tương lai dựa trên cơ sở một công cụ tài chính hay một chỉ số tài chính được gọi
là hợp đồng tương lai tài chính và đang chiếm phần lớn lượng giao dịch trên sở giao
dịch hàng hóa
5
.
Bên cạnh những đặc điểm tương tự như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai
có những điểm khác biệt cơ bản như sau:
-Niêm yết trên sở giao dịch: Điểm khác biệt lớn nhất chính là tồn tại một sở
giao dịch có tổ chức với hợp đồng tương lai. Sở giao dịch hợp đồng tương lai cho
phép người giao dịch được mua và bán các hợp đồng tương lai mà không phải xác

định phía đối tác trong một hợp đồng cụ thể.
-Tiêu chuẩn hoá: Không giống như các hợp đồng kỳ hạn, các hợp đồng tương
lai được tiêu chuẩn hoá. Các hợp đồng kỳ hạn có thể được lập ra cho bất kỳ loại hàng
hoá nào, với bất kỳ số lượng và chất lượng như thế nào và với thời hạn thanh toán bất
kỳ được hai bên hợp đồng chấp thuận. Trong khi đó, các hợp đồng tương lai niêm yết
tại các sở giao dịch quy định một số dạng hàng hoá cụ thể, với một số lượng nhất
định đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về chất lượng và tại một thời điểm giao hàng xác
định.
-Kiểm soát rủi ro thanh toán: sử dụng các hợp đồng tương lai được niêm yết
trên sở giao dịch thay vì dùng các hợp đồng kỳ hạn, hai bên tham gia vào hợp đồng
tương lai sẽ kiểm soát được rủi ro thanh toán. Các trung tâm thanh toán bù trừ tại sở
5
Xem phô lôc 10
15
sẽ thực hiện chức năng trung gian trong tất cả các giao dịch đảm bảo khả năng tài
chính của các thành viên từ đó đảm bảo sự an toàn cho toàn bộ thị trường.
-Tính thanh khoản: Sự tồn tại của công ty thanh toán bù trừ và sự thuận lợi
của việc giao dịch qua sở giao dịch khiến cho tính thanh khoản của các hợp đồng
tương lai cao hơn nhiều so với các hợp đồng kỳ hạn.
• Hợp đồng quyền chọn: là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được
mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối
lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất đinh.
Như vậy, quyền chọn khác với các nghiệp vụ khác trên sở giao dịch bởi khi
bán quyền, người bán trao quyền chứ không phải là nghĩa vụ cho người mua để đổi
lấy một khoản tiền được gọi là giá quyền hoặc phí quyền. Phí quyền chọn được xem
như là mức giá của quyền chọn đó; giống như những mức giá khác nó được xác định
thông qua các sức mạnh cung cầu của thị trường. Do đó phí thường biến động. Cho
dù người mua quyền chọn có quyết định thực hiện quyền của anh ta hay không thì
mức phí này vẫn thuộc về người bán quyền chọn và không phải hoàn lại.
Hình 1.1: Phí quyền chọn

Mục đích của tất cả các sở giao dịch hàng hoá là phát triển lên hình thức thị
trường thứ cấp, khi đó giá của nó trở thành mức giá tham khảo đáng tin cậy cho loại
hình hàng hoá mà nó đang giao dịch. Điều này có nghĩa rằng mức giá được phản ánh
từ các giao dịch được xem như một chỉ số tốt nhất phản ánh mức giá của các hàng
hoá cơ sở và được những người tham gia thị trường tin tưởng. Để làm được điều đó
các sở giao dịch hàng hóa cần xây dựng cho mình một hệ thống quy định đúng đắn
để điều chỉnh hoạt động của mình.
1.1.4. Tổ chức hoạt động sở giao dịch hàng hoá
1.1.4.1. Tổ chức sở giao dịch hàng hóa
Phí quyền chọn
Khoản lỗ tối đa người mua quyền chọn phải chịu
Lợi nhuận tối đa dành cho người bán quyền chọn
16
Sở giao dịch tồn tại dưới hai hình thức chính dưới hình thức các công ty lợi
nhuận hoặc phi lợi nhuận. Và giống như tất cả các công ty khác một sở giao dịch đều
có cổ đông (nếu là hình thức công ty cổ phần), ban giám đốc, các phòng ban chức
năng riêng.
Ban giám đốc: Ban giám đốc tùy theo hình thức sở hữu mà có thể là các thành
viên hoặc là những người được hội đồng thành viên chỉ định. Ban giám đốc sở giao
dịch hàng hóa có quyền ban hành các quy tắc, quy định, thông báo hoặc ra lệnh về
các vấn đề liên quan đến các hoạt động của sở giao dịch hàng hóa. Vì thế các thành
viên ban giám đốc phải là những người có kiến thức và năng lực về các lĩnh vực kinh
tế tài chính cũng như quản lý. Tuy nhiên, quyền quyết định cuối cùng vẫn nằm trong
tay các hội đồng thành viên.
Các phòng ban chức năng: Để thực hiện tốt chức năng của một sở giao dịch,
thì các sở giao dịch này cần phải có những phòng ban với những nhiệm vụ riêng:
• Phòng đăng ký và lưu giữ các phiếu lệnh, hợp đồng: Các đơn đặt hàng của
người mua hoặc người bán thường là những người sản xuất thông qua các tổ chức
môi giới trung gian được đưa vào phòng này. Phòng này có nhiệm vụ là xác nhận
tính khả thi, hợp pháp của các đơn hàng, sau đó chuyển thành các hợp đồng và thành

các lệnh giao dịch theo mẫu. Khi lệnh được thực hiện tại sàn giao dịch thì tiến hành
quản lý theo dõi các hợp đồng.
• Phòng giao dịch: Các phiếu lệnh sau khi được phòng đăng ký và được xác
nhận là thích hợp sẽ được chuyển thành các lệnh đưa vào giao dịch tại sàn. Phòng
giao dịch có nhiệm vụ tổ chức điều hành các phiên giao dịch đồng thời có nhiệm vụ
quản lý và điều hành hệ thống thiết bị giao dịch, đảm bảo duy trì và xử lý các hiện
tượng bất trắc trong giao dịch.
• Phòng giám sát: thực hiện việc theo dõi và giám sát thường xuyên các hoạt
động giao dịch tại sàn giao dịch. Theo dõi các hành vi của các thành viên giao dịch
(các thương gia hoa hồng). Nếu phát hiện thấy nghi vấn có thể tiếp tục theo dõi điều
tra hoặc tiến hành xử lý.
` Ngoài ra tùy theo sở giao dịch hàng hóa lại có thêm các phòng ban khác như:
phòng nghiên cứu pháp chế và thông tin thị trường, phòng tổng hợp…
17
1.1.4.2. Các công ty môi giới
Trên thực tế, không có thương nhân nào có đủ điều kiện để thu thập đầy đủ
thông tin, tiến hành ra quyết định mua hay bán và gửi trực tiếp lệnh giao dịch lên sàn.
Đó là bởi vì những công việc đó quá tốn thời gian và công sức cũng như những hạn
chế trong công nghệ của từng cá nhân. Và nếu từng thương nhân đơn lẻ thực hiện
công việc đó thì đôi khi chi phí bỏ ra còn lớn hơn cả nguồn lợi thu được từ họat động
kinh doanh trên thị trường. Từ phía sở giao dịch, để đảm bảo tổ chức hoạt động giao
dịch thuận tiện và dễ kiểm soát thì cần phải có một số thành viên đóng vai trò như
những trung gian giữa các thương nhân với nhau và với sở giao dịch. Bắt nguồn từ
những lý do đó mà các môi giới đã ra đời và đóng vai trò không thể thiếu trong hoạt
động của sở giao dịch.
Nhà môi giới chính là những người trung gian giữa từng thương nhân với các
thành viên giao dịch ở sở giao dịch. Họ luôn sẵn sàng cung cấp thông tin, đưa ra
những lời khuyên, xử lý và thực hiện các giao dịch cho khách hàng, cập nhật thông
tin tài khoản từng cá nhân tham gia giao dịch trên sàn. Tất cả công ty môi giới đều
hoạt động trên cơ sở hoa hồng. Cho mỗi giao dịch thì một khoản phí phải được trả

cho công ty môi giới bất chấp vụ làm ăn đó thành công hay thất bại. Những người
muốn tham gia giao dịch thường phải giao dịch thông qua những tổ chức môi giới
này rồi sau đó lệnh mới được chuyển cho các thành viên tại sàn. (Hình 1.2)
Hình 1.2: Tổ chức hoạt động cơ bản của sở giao hàng hóa
Nguồn: Futures Markets _ Darell Duffie
1.1.4.3. Các thành viên sở giao dịch hàng hóa
Thành viên sở giao dịch
Thành viên
thanh toán
Thành viên
giao dịch
Exchange
Corporation
Công ty
môi giới
Khách hàng
công ty môi giới
Trung tâm thanh toán
18
Quyền hội viên chỉ giới hạn vào một số lượng chỗ quy định. Trên thế giới ở
các sở giao dịch khác nhau thì có thể có những tên gọi khác nhau đối với các thành
viên của mình, nhưng xét về bản chất thì có hai loại thành viên chính sau:
Các thành viên giao dịch (Exchange member): Các thành viên này thường có
mặt tại các điểm sàn giao dịch của các loại hợp đồng khác nhau. Tuy nhiên để thực
hiện được giao dịch họ phải đăng ký các giao dịch của mình với các thành viên thanh
toán mà mình đã có thoả thuận về việc thanh toán bù trừ hợp đồng giao dịch.
Một đặc điểm quan trọng của một thị trường tương lai hiệu quả đó là khả năng
thanh khoản (liquidity) của nó, đó là khả năng thu hút được khối lượng giao dịch lớn
cho phép khách hàng tham gia vào thị trường này có được vị thế mà họ mong muốn.
Có hai loại thành viên giao dịch, cả hai thành viên này đều góp phần vào việc tạo tính

thanh khoản cho thị trường
− Những thành viên môi giới (Brokers): Brokers thực hiện giao dịch các hợp
đồng theo uỷ nhiệm từ khách hàng của mình hoặc vì quyền lợi của chính mình.
− Các thành viên tự doanh (Locals): Locals là những cá nhân độc lập, những
thành viên này sẽ giao dịch chỉ vì lợi ích của mình, do đó họ sẽ tự gánh chịu rủi ro.
Các thành viên này thường kỳ vọng vào các chênh lệch giá cả.
Các thành viên thanh toán (Clearing member): Các thành viên thanh toán là
những ‘đối tác’ duy nhất của các trung tâm giao dịch hàng hoá. Các thành viên giao
dịch không phải là các thành viên bù trừ, do đó để thực hiện được các giao dịch các
thành viên này phải thông qua các thành viên bù trừ. Để đảm bảo an toàn cho cả hệ
thống thì trước khi được chấp nhận là một thành viên bù trừ, thì mỗi ứng viên phải
trả một khoản tiền đặt cọc bảo đảm dài hạn cho trung tâm thanh toán bù trừ.
Các thành viên giao dịch phải thực hiện các lệnh của khách hàng ngay cả nếu
khách hàng mất khả năng thanh toán hay không thể giao hàng. Nếu một khách hàng
vỡ nợ, thì thành viên thanh toán phải chịu trách nhiệm này. Nếu một thành viên thanh
toán vỡ nợ, thì các trách nhiệm của nó lại chuyển sang trung tâm thanh toán.
Hai lý do cơ bản để mua một chỗ tại sở giao dịch:
Lý do thứ nhất là để tham gia vào hoạt động mua bán diễn ra tại sàn, và có
quyền thực hiện các giao dịch mà không phải trả lệ phí cho các người môi giới trong
19
cng nh ngoi sn. Ngi ta ó thng kờ c rng khi tr thnh thnh viờn, thỡ so
vi phớ ca nhng ngi cha phi l thnh viờn thỡ s tin trung bỡnh m mt thnh
viờn cú th tit kim c s c biu din trong bng sau:
Bng 1.1. Cỏc khon tit kim hng thỏng
Ngun: www.marketwatch.com
Lý do th hai s hu mt ch trờn s giao dch l mc ớch u t. Thụng
thng, tr giỏ ca quyn hi viờn S giao dch tng theo khi lng mua bỏn. Vỡ vy
giỏ ch s tng nu nh khi lng giao dch ln tc l cú nhiu nh u c v nh t
bo him tham gia giao dch ti s, v ngc li giỏ s gim khi khi lng giao dch
ny gim xung. Giỏ ch mi s giao dch trong iu kin hin ny khụng ngng

bin ng ging nh giỏ cỏc loi hng hoỏ c kinh doanh trờn th trng, v do ú
nú cng l mt cụng c giao dch hu hiu em li li ớch cho nhng nh u t. Vớ
d nh s giao dch hng hoỏ COMEX chuyờn giao dch mt hng kim loi quý
nh vng, bc v bch kim, giỏ ch ca s giao dch ny ch trong vũng hai nm ó
tng gp 4 ln v khỏ tng quan vi bin ng giỏ vng.
6
Do vy, giỏ ch ngi
õy c xem nh l mt cụng c u t hp dn.
1.1.4.4. Sn giao dch hng húa (Trading floor)
6
Xem phụ lục 5: Giá chỗ và giá vàng ở COMEX
Khi lng giao dch
bỡnh quõn
Khon phớ tit kim c
Thuờ ch (phớ thuờ $103/thỏng) S hu ch
5 $59 $164
15 $327 $492
25 $595 $820
35 $863 $1,148
45 $1,131 $1,476
50 $1,265 $1,640
75 $1,935 $2,460
100 $2,605 $3,280
150 $3,945 $4,920
200 $5,285 $6,560
20
Sàn giao dịch là nơi các lệnh giao dịch được công bố tự do và thực hiện khớp
lệnh, xác nhận giao dịch. Bản chất của sàn giao dịch cũng giống như không gian mở
của một khu chợ nơi mà các thương nhân có thể tham gia một cách chủ động hơn vào
các giao dịch; đồng thời có thể tìm kiếm thông tin và nghe ngóng từ động thái của

các thương nhân khác. Trên các sở giao dịch hàng hoá hiện nay nhìn chung đều áp
dụng hai hệ thống sàn giao dịch đó là các sàn giao dịch đấu giá tuyên bố công khai
(Open outcry) và sàn giao dịch điện tử (electronic trading floor).
Các sàn giao dịch đầu giá tuyên bố công khai: Việc đấu giá công khai được
tiến hành ở những khu vực chỉ định (trading pits) tại sàn giao dịch để tiến hành mua
bán. Các khu vực chỉ định này thường là một cái bục hình tròn bát giác hay hình tam
giác, có nhiều bậc đồng tâm dốc xuống giữa. Một pit thường phục vụ cho giao dịch
một loại hình hợp đồng nhất định (tức là một loại hàng hoá hoặc một công cụ tài
chính nhất định) và các thương gia thuộc loại hợp đồng giao hàng trong ngày thường
tụ họp ở các chỗ tương ứng. Hợp đồng có ngày giao hàng sớm nhất thường được mua
bán nhộn nhịp nhất, do đó thường diễn ra ở vòng lớn nhất
Theo quy chế, một thương gia công bố cuộc gọi thầu (bid) hoặc chào bán
(offer) phải vừa tuyên bố bằng lời nói (kêu giá và số lượng hợp đồng) vừa phải dùng
tay ra hiệu. Giá nêu trong hợp đồng đã cho thường thường chào theo một đơn vị
thuận tiện như ounce đối với vàng, thùng đối với dầu, kể cả khi một hợp đồng có bội
số so với đơn vị (ví dụ như 5000 thùng dầu). Gọi thầu và chào bán phải được tiến
hành công khai vì lợi ích của các thương gia tại các pít; mua bán sẽ được hình thành
với thương gia đầu tiên ra hiệu chấp nhận. Nếu hai hay nhiều thương gia cùng đồng ý
thì cuộc mua bán sẽ được bàn bạc giữa những người tham gia. Cuối cuộc mua bán,
thương gia mỗi bên ghi lại số hợp đồng, loại hợp đồng, tháng giao hàng, giá cả…
Các sàn giao dịch điện tử: năm 1967 CBOT bắt đầu áp dụng việc yết giá
bằng điện tử, giảm thời gian báo giá xuống còn vài giây. Hầu hết những sở giao dịch
được thành lập kể từ sau năm 1990 đều chọn hệ thống giao dịch bằng điện tử. Nhờ sự
phát triển bùng nổ của ngành công nghệ thông tin, với những ứng dụng điện tử mà
ngày nay người mua và người bán (hoặc là những người môi giới đại diện cho họ)
không cần phải có mặt tại một địa điểm cụ thể nữa mà được kết nối thông qua một
21
mạng máy tính, mạng máy tính này sẽ tự động tổng hợp và phân phát thông tin các
giao dịch và thông tin giá cả. Chính vì vậy mà sở giao dịch sẽ tiết kiệm được chi phí
xây dựng và trang bị sàn giao dịch như hình thức đấu giá công khai.

Nhìn chung, nếu sản xuất tập trung ở một địa điểm thì sở giao dịch mới được
thành lập thì hệ thống đấu giá công khai phù hợp hơn. Nếu như đã có sẵn cơ sở vật
chất thì việc trang bị một sàn đấu giá công khai rẻ hơn và rủi ro hệ thống bị lỗi là
thấp và điều quan trọng là những thành viên giao dịch trên sàn giao dịch thì thích
hình thức này hơn bởi vì họ muốn thu nhặt thông tin và tiếp xúc trực tiếp với các
công ty bởi vì ở hình thức này người mua và người bán đều phải có mặt. Tuy nhiên,
nếu như giao dịch hữu hình đã phát triển và được tổ chức tốt và những nhà đầu tư
tiềm năng lại ở rải rác khắp nơi thì một hệ thống thích hợp hơn. Một hệ thống giao
dịch điện tử có thể phải mất những chi phí ban đầu lớn, nhưng khi đã được lắp đặt thì
việc thêm những sản phẩm mới là dễ dàng và rẻ hơn. Chính vì vậy tuỳ từng điều kiện
mà mà sở giao dịch nên cân nhắc nên sử dụng hệ thống giao dịch nào cho phù hợp
nhất và đem lại hiệu quả cao nhất.
1.1.4.5. Trung tâm thanh toán (Clearing house)
Người bảo lãnh cuối cùng về trách nhiệm giao hàng của người bán và quyền
được nhận hàng của người mua đối với hàng hoá cơ sở. Có nhiều cách để có một
trung tâm thanh toán bù trừ, trong đó:
- Trung tâm thanh toán bù trừ là một phòng ban của sở giao dịch hàng hoá: Sự
đảm bảo về tài chính của những trung tâm này sẽ đảm bảo thông qua sự đảm bảo về
tài chính của các thành viên thanh toán của sở giao dịch và những khoản vốn thu
được sẽ được tích luỹ như là một khoản đảm bảo cố định. Hệ thống này có một lợi
thế là tất cả những khoản thu nhập từ các hoạt động thanh toán là khoản thu nhập của
sở giao dịch. Tuy nhiên, chỉ khi các thành viên thanh toán là những công ty lớn và uy
tín (như sở giao dịch hàng hoá ở Singapore với những công ty lớn đạt chuẩn 3A),
hoặc một quỹ bảo hiểm tín dụng lớn đã được tích luỹ trong nhiều năm (ví dụ như ở
CBOT) thì hệ thống này mới tạo ra một biện pháp bảo vệ an toàn.
- Thành lập trung tâm thanh toán độc lập ở ngoài sở giao dịch: Các thành viên
của các trung tâm này chủ yếu là các ngân hàng, họ thực hiện các chức năng thanh
22
toán bù trừ và đảm bảo về độ an toàn tài chính của thị trường để thu phí. Hình thức
này có lợi ích chính là sự tham gia của những tổ chức có vốn lớn với những xếp hạng

tín dụng tốt, sẽ đảm bảo cho những người tham gia trên sở giao dịch rằng thị trường
thực sự đảm bảo. Để không mất hết những lợi nhuận tài chính thu được từ các hoạt
động thanh toán, các sở giao dịch hoặc các thành viên của nó thường có cổ phần sở
hữu ở tổ chức thanh toán đó. Trong trường hợp ở những quốc gia đang phát triển, thì
họ nên cân nhắc việc thành lập các trung tâm thanh toán trong đó tất cả các sở giao
dịch trong quốc gia đó hoặc trong khu vực cùng tham gia.
- Sử dụng dịch vụ của một trung tâm thanh toán sẵn có: Lợi thế của hình thức
này là những trung tâm thanh toán này có uy tín và nó đã có sẵn những hệ thống cần
thiết để thực hiện việc thanh toán có hiệu quả.
Các trung tâm thanh toán hay các phòng thanh toán này không những cần phải
có lượng vốn lớn, mà còn phải có khả năng kiểm soát độc lập, nhanh chóng và phù
hợp với các điều kiện thị trường. Các hệ thống được sử dụng để vận hành một cách ở
trung tâm thanh toán có thể được mua trên thị trường và việc mua lại này thường là rẻ
hơn rất nhiều so với việc tự mình phát triển một hệ thống mới. Hệ thống phần cứng
và phần mềm cần thiết để lập nên một sở giao dịch tương lai và quyền chọn hiệu quả
và các hoạt động thanh toán của nó có thể tốn tới 1 tới 2 triệu đô la Mỹ, vì vậy các sở
giao dịch khi mới thành lập cần phải hết sức cân nhắc nên sử dụng hình thức trung
tâm thanh toán cho thích hợp nhất và đem lại hiệu quả cao nhất.
1.2. NHỮNG GIAO DỊCH TRÊN SỞ GIAO DỊCH HÀNG HOÁ
Như đã đề cập ở trên, giao dịch giao ngay chỉ chiếm một con số rất nhỏ trong
số các giao dịch trên sở giao dịch hàng hóa; thêm nữa loại hình giao dịch này cũng
khá giản đơn nên ở đây trình bầy hai loại giao dịch phức tạp và phổ biến hơn là giao
dịch tương lai và quyền chọn hàng hóa mà thôi.
1.2.1. Giao dịch tương lai hàng hoá (Futures Commodity Trading)
1.2.1.1. Trạng thái giao dịch mở và khối lượng giao dịch
Trạng thái giao dịch mở (open interest): là số lượng các hợp đồng, mà cụ thể
là hợp đồng tương lai vẫn còn hiệu lực, chưa được tất toán bằng một giao dịch bù trừ
hoặc việc giao hàng theo hợp đồng. Tổng giao dịch mở bằng với các vị thế mua cũng
23
như bằng với các vị thế bán, chứ không phải là tổng của cả hai. Khi một giao dịch

hình thành, giao dịch mở sẽ:
- Tăng nếu cả hai bên giao dịch để tăng vị thế đang có của mình.
- Không đổi nếu một bên tăng và bên khác lại giảm vị thế của mình cùng tỷ lệ.
- Giảm nếu cả hai bên muốn giảm vị thế đang có của mình.
Hình 1.3: Giao dịch mở trên sở giao dịch hàng hóa
Khối lượng giao dịch: là tổng số hợp đồng giao dịch một loại hàng hoá nhất
định. Nó được tính bằng số lượng hợp đồng chứ không phải là giá trị thực của hàng
hoá cơ sở đem giao dịch.
Cũng giống như giao dịch mở, khối lượng giao dịch cũng là một chỉ số đo về
lượng cung, cầu và biến động thị trường. Tuy nhiên, khối lượng giao dịch không giúp
xác định hành vi của các nhà đầu tư như chỉ số về khối lượng giao dịch mở và do đó
không dự đoán được xu hướng về giá cả dựa trên khối lượng giao dịch được.
1.2.1.2. Mối quan hệ giữa giá giao ngay và giá tương lai
Mặc dù giá giao ngay không dao động hoàn toàn giống nhau nhưng chúng có
xu hướng dao động tương tự như nhau. Bởi vì các hợp đồng tương lai hoàn toàn có
thể kết thúc với việc giao hàng vào ngày đáo hạn, do đó mức giá trong hợp đồng này
phụ thuộc khá nhiều vào giá thị trường giao ngay.
Số giao
dịch mở
thực tế
Giao dịch mở có thể được tính tổng
hoặc thực tế. Giao dịch mở thực tế là
tổng của tất cả các vị thế được đưa đến
thanh toán qua thành viên thanh toán.
Tổng giao dịch mở là số vị thế mở của
tất cả những người tham gia thị trường.
Tổng giao dịch mở bao giờ cũng lớn
hơn giao dịch mở thực tế vì các vị thế
của các khách hàng khác nhau của một
thành viên thanh toán không bù trừ cho

nhau được, hơn nữa việc tính tất cả các
vị thế của những người tham gia thị
trường cũng khó. Do đó, giao dịch mở
thực tế sẽ phản ánh thị trường chính
xác hơn.
24
3 vị thế mở 2 vị thế mở
5 vị thế mở
Tổng số
lượng
giao dịch
mở
khách hàng B:
mua 3 hợp
Khách hàng A
bán 3 hợp đồng
1 vị thế mở
Thành viên
thanh toán
Môi giới/
người buôn
bán hợp đồng
Trung tâm
thanh toán
Về lý thuyết giá tương lai bằng giá giao ngay cộng với chi phí bảo quản (cost-
of-carry), trừ đi lợi thế việc sẵn có hàng hoá (convenience yeild). Do đó nó không
bao giờ cao hơn giá hàng hoá giao ngay cộng với chi phí bảo quản. Sự khác biệt giữa
hai hợp đồng tương lai bằng chi phí bảo quản giữa những ngày đáo hạn khác nhau.
Chi phí bảo quản tích trữ hàng hoá là những chi phí tài chính khi mua bán hàng hoá
cơ sở và những chi phí giữ hàng hoá này cho đến khi đáo hạn. Càng gần đến ngày

đáo hạn của hợp đồng tương lai, thì chi phí bảo quản càng ít, vì càng gần tới tháng
giao hàng thì những kỳ vọng của thị trường được phản ánh trong giá tương lai lại
càng giống với những kỳ vọng trên thị trường giao ngay.
Chênh lệch giá (the basis): Thuật ngữ “chênh lệch” là để chỉ sự khác biệt
giữa giá giao ngay và giá tương lai của cùng một loại hàng. Chênh lệch biến đổi theo
thời gian: tăng nếu giá tương lai giảm còn giá giao ngay lại tăng, và ngược lại.
Hình 1.4 : Chênh lệch giá trên các thị trường (Basis)
1.2.1.3. Những hoạt động trên thị trường tương lai
Tự bảo hiểm (Hedging): Hoạt động tự bảo hiểm được thực hiện thông qua
việc đảm nhận một vị thế trên thị trường tương lai gần như tương đương về giá trị
nhưng ngược về cam kết ở thị trường giao ngay. Tự bảo hiểm thông thường hoàn
toàn độc lập với bất cứ một đánh giá nào đưa ra liên quan đến các mức giá tương lai.
Nghiệp vụ này thường được những người tham gia thị trường như nông dân, công ty
chế biến hay nhà xuất khẩu…những người không muốn tốn tiền và thời gian nghiên
cứu về thị trường tương lai hoặc là những nhà đầu tư không chắc chắn rằng liệu
Tháng ba
Tháng hai
Tháng một
Giá giao ngay
Chênh lệch
Giá tương lai giao vào tháng 3
25

×