Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

CHƯƠNG I DU LỊCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA DU LỊCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.18 KB, 11 trang )

CHƯƠNG I DU LỊCH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA DU LỊCH
TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống kinh tế xã hội
và đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia và là một thói quen trong nếp sống sinh
hoạt trong xã hội hiện đại. Có nước coi Du lịch là nguồn thu chủ yếu, điều chỉnh
cán cân thanh toán quốc tế, có nước coi Du lịch như một ngành kinh tế mũi
nhọn, có sức hút đối với nhiều ngành. Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1960
ngành Du lịch đã ra đời đánh dấu nhận thức của Đảng và Nhà nước về triển
vọng kinh tế này.
Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới và hội nhập, Du lịch Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc,
nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển Du lịch với các nước trong khu
vực trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
1.2. Khái niệm về Du lịch
Từ xa xưa trong lịch sử nhân loại , Du lịch đã được ghi nhận như một sở
thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở
thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không chỉ ở các nước phát triển
mà còn ở cả các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến
nay, nhận thức về nội dung du lịch trên thế giới vẫn chưa thống nhất. Bởi hoàn
cảnh (thời gian, khu vực) khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau,
mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Đúng như một chuyên gia đã
nhận định “đối với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định
nghĩa”.
Trong giáo trình Thống kê Du lịch , Nguyễn Cao Thường và Tô Đông
Hải chỉ ra rằng: Du lịch là một ngành kinh tế xã hội, dịch vụ, có nhiệm vụ phục
vụ nhu cầu tham quan, giải trí nghỉ ngơi có hoặc không kết hợp với các hoạt
động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác.
Nhưng theo hai học giả Hoa Kỳ - Mathieson và Wall thì du lịch là sự di
chuyển tạm thời của người dân đến ngoài nơi ở và làm việc của họ là những


hoạt động xảy ra trong quá trình lưu lại nơi đến và các cơ sở vật chất tạo ra để
đáp ứng những nhu cầu của họ.
Còn theo nhà địa lý học Michaud lại cho rằng: Du lịch là tập trung những
hoạt động sản xuất và tiêu thụ phục vụ cho việc đi lại và ngủ ít nhất một đêm
người nơi ở thường ngày với lý do giải trí, kinh doanh, sức khoẻ, hội họp, thể
thao hoặc tôn giáo.
Như vậy, dưới mỗi góc độ nghiên cứu đều có một cách nhìn nhận khác
nhau về khái niệm Du lịch. Chính vì vậy, trong pháp lệnh Du lịch của Tổng cục
du lịch Việt Nam cũng đưa ra khái niệm: Du lịch là hoạt động của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan,
giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất đinh.
1.3. Tầm quan trọng của ngành Du lịch đối với nền kinh tế quốc dân
Dựa vào định nghĩa chúng ta thấy về phương diện kinh tế, Du lịch là một
ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó dựa trên và bao gồm sản phẩm có chất
lượng cao của nhiều ngành kinh tế khác nhau.
Vì vậy, Du lịch ngày nay không chỉ là ngành kinh tế mang lại hiệu quả
kinh tế cao mà là đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác, tạo
ra tích luỹ ban đầu cho nền kinh tế, là phương tiện quan trọng để thực hiện các
chính sách mở cửa, là chiếc cầu nối giữa thế giới bên ngoài và bên trong.
Du lịch có ảnh hưởng rất rõ nét tới sự phát triển của nền kinh tế đất nước
thông qua việc tiêu dùng của du khách. Và để hiểu rõ vai trò của Du lịch trong
quá trình tái sản xuất xã hội trước hết, ta quan tâm tới việc tiêu dùng của Du
lịch, đó là những nhu cầu tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức, học
hỏi, vãn cảnh thư giãn, nghỉ ngơi....
Du lịch nhằm thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng các hàng hoá vật chất và
các hàng hoá phi vật chất. Do đó, nhu cầu về dịch vụ rất được du khách quan
tâm.
Một đặc điểm quan trọng và khác biệt giữa việc tiêu dùng Du lịch và tiêu
dùng các hàng hoá khác là việc tiêu dùng sản phẩm Du lịch xảy ra cùng một lúc,
cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Do đó để thực hiện được quá trình tiêu thụ

sản phẩm, người mua hàng được đưa đến nơi sản xuất và tiêu dùng tại chỗ. Vì
vậy, sản phẩm du lịch mang tính độc quyền và không thể so sánh giá của sản
phẩm Du lịch này với sản phẩm Du lịch kia một cách tuỳ tiện đựơc.
Như vậy, ảnh hưởng kinh tế của Du lịch được thể hiện thông qua tác
động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm Du lịch . Quá
trình này tác động lên lĩnh vực phân phối, lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến
những lĩnh vực khác nhau của quá trình tái sản xuất xã hội.
Trên bình diện chung, hoạt động Du lịch có tác dụng biến đổi cán cân thu
chi của khu vực và của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước
mà họ đi Du lịch , làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước đến, ngược lại phần
thu ngoại tệ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người Du lịch nước ngoài.
Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động Du lịch làm xáo động hoạt động luân
chuyển tiền tệ, hàng hoá. Cán cân thu chi được thực hiện giữa các vùng có trình
độ kinh tế khác nhau, tuy không làm biến đổi cán cân kinh tế của đất nước, song
có tác dụng điều hoá nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kém phát
triển hơn kích thích sự tăng trưởng kinh tế các vùng sâu vùng xa.
Khi khu vực nào đó trở thành một điểm Du lịch , du khách từ mọi nơi đổ
về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá tăng lên đáng kể. Việc đòi hỏi một số
lượng lớn vật tư, hàng hoá các loại đã kích thích mạnh mẽ các ngành kinh tế có
liên quan, đặc biệt là nông nghiệp, công nghiệp chế biến......Bên cạnh đó các
hàng hoá vật tư cho Du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng
loại, hình thức đẹp và hấp dẫn. Điều này có nghĩa là yêu cầu hàng hoá phải
được sản xuất trên một công nghệ cao, trình độ tiên tiến...để sản xuất ra các sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của du khách.
So với ngoại thương ngành Du lịch cũng có nhiều ưu thế nổi trội. Du lịch
quốc tế xuất khẩu tại chỗ được nhiều mặt hàng không phải qua nhiều khâu nên
tiết kiệm được lao động, chênh lệch giá giữa người bán và người mua không
quá cao.
Qua đây, ta thấy Du lịch có tác dụng tích cực làm thay đổi bộ mặt kinh tế
của nền kinh tế đất nước. Ngược lại, nó cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực, rõ

ràng nhất là tình trạng lạm phát cục bộ hay giá cả hàng hoá tăng cao, nhiều khi
vượt quá khả năng chi tiêu của người dân địa phương, nhất là của những người
mà thu nhập của họ không liên quan đến Du lịch .
Việt Nam, với chủ trương mở cửa “làm bạn với tất cả các nước” nền kinh
tế Việt Nam phát triển nhanh chóng, thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp
nước ngoài vào hợp tác cùng phát triển, tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao
động với thu nhập cao, thúc đẩy nền kinh tế của đất nước tăng trưởng với nhịp
độ cao, mức sống của người dân ngày càng được cải thiện, giá cả trong nước ổn
định.
Du lịch quốc tế còn là phương tiện tuyền truyền và quảng cáo không mất
tiền cho nước ta. Cụ thể, khi khách hàng đến một khu du lịch nào đó, khách có
điều kiện làm quen với một số mặt hàng ở đó. Khi trở về đất nước họ, khách bắt
đầu tìm kiếm những thứ đó ở thị trường địa phương và nếu không thấy, khách
có thể yêu cầu cơ quan ngoại thương nhập những mặt hàng đó. Theo cách này,
du lịch quốc tế đã góp phần tuyên truyền cho nền sản xuất của nước ta, mà nhất
là trong khi chúng ta chưa có điều kiện truyền quảng bá rộng rãi nhiều sản
phẩm, mặt hàng trong nước ra thị trường nước ngoài.
1.4. Đường lối đổi mới trong sự nghiệp phát triển Du lịch của Đảng ở Việt
Nam và những thành tựu về du lịch trong những năm qua
Sau khi giành được độc lập tự do trên một phần của đất nước, mặc dù
còn có rất nhiều vấn đề quan trọng cần giải quyết dong Đảng ta đã có sự quan
tâm đến hoạt động du lịch. Chỉ 6 năm sau ngày chiến thắng Điện Biên Phủ,
với Nghị định 26/CP ngày 9/7/1960 của Hội đồng Chính phủ, Công ty du lịch
Việt Nam đầu tiên của nước ta được thành lập. Đây là lần đầu tiên ở nước ta
có một cơ quan chuyên trách về vấn đề du lịch. Là một Công ty trực thuộc Bộ
Ngoại thương, nhiệm vụ cơ bản của Công ty Du lịch là phục vụ các đoàn
khách của Đảng và Chính phủ. Tuy gặp nhiều khó khăn do trình độ chuyên
môn, cơ sở vật chất non kém gây nên nhưng tổ chức này đã đặt nền móng cho
sự hình thành một ngành kinh tế mới mẻ của đất nước. Như vậy, quyết định
này của Đảng và Nhà nước có một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự hình

thành ngành Du lịch Việt Nam. Chính vì vậy, ngày 9 tháng 7 được coi là ngày
thành lập của ngành Du lịch Việt Nam.
Ngày 23/1/1979, Thủ tướng đã ban hành Nghị định 32/CP chính thức
thành lập Tổng cục Du lịch. Sự ra đời của Tổng cục Du lịch cho thấy Đảng và
Nhà nước đã đánh giá cao vai trò của du lịch trong giai đoạn mới. Điều đó đã
tạo ra bước ngoặt mới đối với hoạt động du lịch Việt Nam. Với cơ sở vật chất
lớn mạnh, quyền hạn được mở rộng, giai đoạn này Tổng cục Du lịch trực tiếp
quản lý trên 30 công ty du lịch trong cả nước cùng với hàng trăm khách sạn,
nhà hàng, biệt thự, hàng ngàn phương tiện, hàng vạn CBCNV có trình độ và
kinh nghiệm để phục vụ khách trong và ngoài nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu cho một
giai đoạn mới của đất nước. Đó là đường lối đổi mới. Luồng gió này đã đem
lại một nguồn sinh lực mới cho tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội như
kinh tế, văn hoá, giáo dục, quản lý… Với chính sách mở cửa: Việt Nam muốn

×