Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO DỊCH VỤ THẺ TÍN DỤNG TẠI NHNTVN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.15 KB, 34 trang )

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO DỊCH VỤ THẺ
TÍN DỤNG TẠI NHNTVN
2.1 Khái quát thực trạng phát triển dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàng
ngoại thương Việt Nam
2.1.1 Sự hình thành và phát triển thẻ tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam
Ta có thể phân quá trình phát triển thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam ra làm 3 giai đoạn:
2.1.1.1 Giai đoạn 1990-1995
Có thể nói hoạt động thẻ của NHNTVN bắt đầu vào năm 1990, khi
NHNTVN trở thành đại lý thanh toán thẻ Visa đầu tiên tại Việt Nam của ngân
hàng BFCE Singapore, tiếp đó trở thành đại lý thanh toán thẻ Mastercard của
Công ty tài chính MBF Malayxia và đại lý thanh toán thẻ JCB của công ty JCB
Nhật.
Đến năm 1994, một ngày sau khi Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt
Nam, NHNTVN ký hợp đồng trở thành đại lý thanh toán thẻ American Express
với Công ty American Express Hongkong. NHNTVN giữ vị thế độc quyền
trong việc cung ứng dịch vụ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế đến gần hết năm
1995.
Năm 1995, NHNTVN thực hiện dự án thẻ ATM với công nghệ thẻ từ và
được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chọn là ngân hàng triển khai thí điểm với
hai máy ATM được đặt tại trụ sở chính. Thẻ được phát hành để trả lương cho
cán bộ nhân viên Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và một số cán bộ nhân
viên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2.1.1.2 Giai đoạn 1996-1999
Đến năm 1996 thị trường thẻ Việt Nam bắt đầu trở nên sôi động, vị thế
độc quyền trong lĩnh vực thẻ của NHNTVN bị phá vỡ khi có sự tham gia của
các NHTM trong nước và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Vào tháng 4 năm 1996, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cùng với
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu-ACB, Ngân hàng thương mại cổ phần
Eximbank và ngân hàng liên doanh FirstVina trở thành 4 thành viên đầu tiên


của tổ chức thẻ quốc tế Mastercard tại Việt Nam. Đây là điểm mốc đánh dấu sự
tiến triển đầu tiên của thị trường thẻ Việt nam và cũng là điểm mốc chấm dứt tư
cách ngân hàng đại lý thanh toán thẻ Mastercard của Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam cho công ty tài chính MBF Malayxia.
Cũng vào thời điểm này, chiếc thẻ tín dụng quốc tế Mastercard đầu tiên
được Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phát hành. Vào quý III năm đó, ACB
đưa sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế Mastercard vào thị trường.
Ngày 16 tháng 8 năm 1996, xuất phát từ ý tưởng của Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam chi nhánh Hà nội, hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt
Nam (VBCA) đã chính thức ra đời với tôn chỉ cùng hợp tác tương trợ lẫn nhau,
thống nhất ý chí và hành động đảm bảo các bên cùng có lợi để phát triển thị
trường thẻ ngân hàng Việt Nam.
Năm 1997, NHNTVN và ACB trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thẻ quốc tế Visa. Trong hai năm 1997 và 1998, hai ngân hàng này tiếp tục
đưa vào thị trường sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế Visa.
Năm 1998, ngân hàng liên doanh Indovina lần đầu tiên đưa thẻ Diner
Club vào thanh toán tại thị trường Việt Nam và sau đó NHNTVN cũng trở
thành ngân hàng chấp nhận thanh toán loại thẻ này.
2.1.1.3 Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Trong giai đoạn này thị trường thẻ Việt Nam càng có những biến đổi tích
cực. Hầu hết các ngân hàng, cả các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân
hàng thương mại cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đều quan tâm
triển khai và phát triển dịch vụ thẻ. Với sự xuất hiện của nhiều sản phẩm thẻ và
các dịch vụ gia tăng trên thẻ khác nhau, cả sản phẩm mang thương hiệu quốc tế
và nội địa đều được đưa vào thị trường. Những năm này cũng đánh dấu sự nỗ
lực của các ngân hàng thương mại quốc doanh trong việc đi đầu triển khai các
hệ thống giao dịch ATM. Khái niệm thẻ ngân hàng tuy không còn xa lạ đối với
công chúng nhưng cũng chưa thực sự phổ biến do tâm lý tiêu dùng tiền mặt vẫn
còn ăn sâu trong tiềm thức của người dân. Các ngân hàng còn phải làm rất nhiều
để tiếp tục khai phá thị trường thẻ đầy tiềm năng.

2.1.2 Thực trạng dịch vụ thẻ tín dụng tại Ngân hàn Ngoại thương Việt Nam
2.1.2.1 Thực trạng phát hành thẻ
* Hoạt động phát hành thẻ quốc tế
Hoạt động thẻ tín dụng được bắt đầu vào năm 1996. Đối tượng phát hành
thẻ tín dụng quốc tế của NHNTVN là các cá nhân người Việt Nam và người
nước ngoài từ 18 tuổi trở lên, sống và làm việc hợp pháp tại Việt Nam, được các
tổ chức nơi cá nhân công tác đứng ra uỷ quyền cho cá nhân đó sử dụng thẻ với
trách nhiệm thanh toán chi tiêu thẻ của chính tổ chức đó; hoặc người có thu
nhập cao, ổn định; hoặc người có tiền ký quỹ hoặc chứng từ có giá dùng để thế
chấp, cầm cố tại NHNTVN hoặc người được các đối tượng trên bảo lãnh.
Ngay từ những ngày đầu tiên triển khai việc phát hành thẻ, NHNTVN đã
xây dựng một qui trình phát hành đảm bảo thông suốt từ trung ương xuống các
chi nhánh. Trung ương đưa ra các quy định chung, khống chế hạn mức tín dụng
tối đa và tối thiểu cho từng hạng thẻ, các loại phí và các mức phí, các thông tin
phải thu thập từ khách hàng... Theo đó NHNTVN phát hành 2 hạng thẻ cho
từng loại thẻ Vietcombank Visa và Vietcombank MasterCard: hạng vàng với
hạn mức tín dụng từ 50 triều VNĐ đến 90 triệu VNĐ và hạng chuẩn với hạn
mức tín dụng từ 10 triệu VNĐ đến dưới 50 triệu VNĐ.
Thời gian đầu việc phát triển thẻ gặp rất nhiều rất khó khăn bởi thẻ vẫn là
một sản phẩm rất xa lạ đối với người dân kể cả những người thuộc tầng lớp tri
thức. Thẻ chỉ được những người thường xuyên đi công tác ở nước ngoài chú ý
tới. Bên cạnh đó, vào thời điểm này sau một loạt các vụ đổ vỡ tín dụng vào đầu
thập niên 90 có quy mô lớn thì tình hình cấp phát tín dụng của các ngân hàng rất
khó khăn. Chính vì thắt chặt tín dụng, việc thẩm định khả năng tài chính của
khách hàng được NHNTVN làm rất thận trọng, hầu hết khách hàng đều được
yêu cầu thế chấp hoặc ký quỹ để phát hành thẻ. Số lượng thẻ phát hành vì thế
tăng trưởng rất chậm.
Sau những năm khó khăn cho dịch vụ thẻ phát triển, từ năm 2000 trở lại
đây, số thẻ phát hành của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã có dấu hiệu
tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng về phát hành là rất cao về số tương đối tuy

còn khiêm tốn về số tuyệt đối.
Bảng 2.1: Số lượng thẻ quốc tế phát hành qua các năm
Loại thẻ
Năm
2000
Năm
2001
Năm
2002
Năm
2003
Năm
2004
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Visa 1243 2531 6750 8570 5953 8018 5337 6128
MasterCar
d
195 616 1240 1470 2390 4074 12626 17645
American
Express
0 0 0 1140 422 3274 1344 1250
Tổng 1438 3147 7990 11180 8765 15366 19307 25023
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam)
Trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2003, tổng số lượng thẻ phát hành
liên tục tăng. Năm 2002 phát hành đạt mức tăng trưởng cao nhất : 7990 thẻ,

tăng 153,8% so với năm 2001, trong đó thẻ Master tăng 101.3%, thẻ Visa tăng
166,7%. Năm 2003 số lượng thẻ phát hành tăng 3190 thẻ so với năm 2002, đưa
tổng số lượng thẻ phát hành đang sử dụng của NHNTVN lên đến 28.680 thẻ .
Năm 2003 cũng là năm đầu tiên NHNTVN chính thức ký hợp đồng là ngân
hàng độc quyền phát hành và thanh toán thẻ American Express tại Việt Nam.
Trong năm 2003, NHNTVN đã phát hành được 1140 thẻ American Express,
một con số rất đáng khích lệ nếu so sánh với các sản phẩm thẻ tín dụng khác
của NHNTVN khi bắt đầu đưa ra phát hành. Số lượng phát hàng thẻ tín dụng
trong năm 2003 vẫn tăng nhưng đã có dấu hiệu chậm lại, đạt mức tăng trưởng
thấp nhất ( 39%) trong 4 năm 2000 đến 2003 do gặp phải sự cạnh tranh gay gắt
của các ngân hàng thương mại trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Sang
năm 2004, NHNTVN chỉ phát hành được 8765 thẻ, thấp hơn so với năm 2003,
đặc biệt thẻ Visa chỉ còn phát hành được 5953 thẻ so với 8570 thẻ của năm
2003. Nguyên nhân là do trong năm 2004, ngân hàng thương mại cổ phần Á
Châu (ACB) đã phát hành thẻ Visa Electron và Master Electronic. Đây là sản
phẩm thẻ ghi nợ quốc tế, sử dụng trên cơ sở số dư trên tài khoản của khách
hàng, ưu thế hơn hẳn thẻ tín dụng Visa, MasterCard phát hành bằng hình thức
thế chấp, do đó đã thu hút nhiều khách hàng đến phát hành thẻ. Đây là thách
thức thật sự với hoạt động phát hành thẻ tín dụng của NHNTVN, đòi hỏi
NHNTVN cũng phải nhanh chóng phát hành thẻ ghi nợ, đồng thời nghiên cứu,
phát triển tính năng của thẻ tín dụng Visa, MasterCard nhằm duy trì sự tăng
trưởng trong hoạt động phát hành thẻ quốc tế.
Trước với sự gia tăng những thách thức trong hoạt động cạnh tranh đối
với thị trường dịch vụ ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế, các ngân
hàng đều chú trọng tập trung đầu tư phát triển dịch vụ thẻ và tung ra thị trường
nhiều sản phẩm thẻ phong phú, đa dạng. Sự đa dạng về thành phần sở hữu và
các sản phẩm dịch vụ thẻ của các ngân hàng đã làm cho hoạt động thẻ trở nên
rất sôi động, cạnh tranh diễn ra gay gắt trên cả hai lĩnh vực phát hành và thanh
toán thẻ. Và NHNTVN với vai trò là ngân hàng đi tiên phong trong lĩnh vực thẻ
đã có những chiến lược hợp lý đẩy số lượng thẻ quốc tế phát hành của ngân

hàng có những bước tiến đáng kể trong 2 năm 2006 và 2007.
Bảng 2.2: Số lượng thẻ quốc tế của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Loại thẻ 2003 2004 2005 2006 2007
Visa 22264 28217 36235 41572 47700
Master 5376 7766 11840 24466 41931
American 1140 1562 4836 6180 7430
Express
Tổng 28780 37545 52911 72218 97241
( Nguồn: Báo cáo tổng kết của phòng thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam)
Tổng số thẻ quốc tế phát hành năm 2005 là 15366 tăng 1,75 lần so với
năm 2004 với sự tăng lên của cả 3 loại thẻ Visa, Master, Amex. Thẻ Amex có
mức tăng trưởng cao nhất, đạt 209,6%. Sự vượt trội của thẻ Amex vể số lượng
thẻ phát hành là do sau gần 8 tháng triển khai sản phẩm thẻ liên kết Amex Bông
Sen Vàng, tổng số lượng thẻ Amex Bông Sen Vàng đã đạt 2890 thẻ. Thẻ
MasterCard đạt mức tăng trưởng 52,45% là kết quả của việc tiếp tục triển khai
sản phẩm thẻ MasterCard Cội Nguồn từ tháng 10/2004. Và đặc biệt trong năm
2006 và năm 2007 ghi nhận sự tăng lên vượt trội của số lượng thẻ Master. Số
lượng thẻ Master phát hành trong năm 2006 là 12626 thẻ lớn hơn con số phát
hành từ năm 2000 cho đến hết năm 2005 là 11840 còn trong năm 2007 là 17645
thẻ. Có được sự tăng trưởng nhanh chóng này là do sự ra đời của sản phẩm thẻ
ghi nợ Master MTV với nhiều tính năng vượt trội và tiện ích đối với người sử
dụng. Với thẻ MTV chủ thẻ có thể dễ dàng sở hữu một thẻ thanh toán quốc tế
nhiều tiện ích với hàng trăm ngàn điểm chấp nhận thẻ trên toàn thế giới với
nhãn hiệu Master nổi tiếng mà không cần ký quỹ mà chỉ cần đơn giản có tài
khoản kết nối. Với tính năng của một thẻ ghi nợ quốc tế, thẻ Master MTV đã
thực sự tạo một bước đột phá trong năm 2006 và năm 2007 trên thị trường thẻ
quốc tế ở Việt Nam.
* Hoạt động phát hành thẻ nội địa
Vào quý II năm 2002, cùng với hệ thống giao dịch tự động ATM,
NHNTVN cho ra đời thẻ Connect24. Về thực chất, thẻ Connect24 là thẻ ghi nợ

nội địa được NHNTVN phát hành cho khách hàng cá nhân sử dụng để rút tiền
từ các tài khoản cá nhân mở tại NHNTVN. Với hệ thống giao dịch ATM đạt
tiêu chuẩn quốc tế phát triển trên nền tảng hệ thống công nghệ thanh toán trực
tuyến VCB on-line, thẻ Connect24 vừa triển khai đã được khách hàng và xã hội
đón nhận nồng nhiệt. Đến nay, ngoài các giao dịch truyền thống như rút tiền từ
tài khoản cá nhân, đổi mã số cá nhân, tra cứu thông tin tài khoản, hệ thống giao
dịch tự động ATM của NHNTVN còn cung cấp cho khách hàng những dịch vụ
gia tăng khác như: rút tiền mặt bằng thẻ tín dụng Visa/MasterCard, in sao kê
giao dịch, chuyển khoản, thanh toán tiền điện, điện thoại, nước, mua thẻ trả
trước ... đặc biệt là trong năm 2007 NHNTVN đã và đang triển khai nhiều dịch
vụ mới trên hệ thống ATM như: gửi tiền trực tiếp qua máy ATM đây là một
bước đột phá và là một sự nỗ lực cố gắng rất lớn của NHNTVN trước xu thế và
sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
Kể từ khi chính thức ra mắt trên thị trường, tổng số phát hành thẻ
Connect24 liên tục tăng, năm 2003 tăng trên 500% so với năm 2002. Sang năm
2004, số thẻ phát hành đạt 300.000 thẻ, gấp đôi tổng số thẻ phát hành trong 2
năm 2003,2004, đưa tổng số thẻ Connect24 đang lưu hành trên thị trường lên
tới 488.721 thẻ.
Biều 2.1 Số thẻ Connect 24 của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
( Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007của phòng thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam )
Đến năm 2005 sự tăng trưởng này càng mạnh hơn, số thẻ Connect 24 của
NHNTVN đã gần đạt 1 triệu thẻ (920 nghìn thẻ) gần gấp đôi năm 2004. Và đến
năm 2006 thì số lượng này đã lên đến khoảng 1,5 triệu thẻ. Đến năm 2007 số
lượng thẻ Connect 24 đạt mức kỷ lục 1,95 triệu thẻ. Mức tăng trưởng này cho
thấy sự phát triển nhanh của thẻ Connect 24 cũng như cho thấy sự chiếm lĩnh thị
trường thẻ ghi nợ nội địa của NHNTVN
2.1.2.2 Thực trạng thanh toán thẻ
* Hoạt động thanh toán thẻ tín dụng quốc tế:
 Giai đoạn trước năm 1996:
Từ năm 1996 trở về trước, đây là giai đoạn NHNTVN chiếm độc quyền

trong lĩnh vực thẻ ở Việt Nam. Thời gian này doanh số thanh toán thẻ quốc tế
của NHNTVN có tốc độ tăng trưởng cao, thấp nhất là 60%, đỉnh điểm cao nhất
đạt mức 126 triệu USD năm 1996.
 Giai đoạn 1996 – 2004:
Một sự kiện không thể nhắc tới trong thời kỳ này nó đã gây ảnh hưởng rất
lớn tới lĩnh vự thẻ nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung đó chính
là cuộc khửng hoảng kinh tế khu vực năm 1997. Khủng hoảng kinh tế khu vực
năm 1997 cùng với sự tham gia của các NHTM trong nước vào hoạt động kinh
doanh thẻ khiến doanh số thanh toán thẻ quốc tế của NHNTVN trong giai đoạn
1997 - 2000 sụt giảm nhanh chóng, thị phần thanh toán bị chia sẻ và ngày càng
thu hẹp lại. Doanh số thanh toán thẻ năm 2000 đạt mức thấp nhất trong hơn 10
năm trở lại đây: 71 triệu USD, chỉ chiểm 35% thị phần thanh toán thẻ trên thị
trường.
Nhận thức được sức ép cạnh tranh ngày càng lớn, Ban lãnh đạo
NHNTVN, phòng Quản lý Thẻ NHNTVN đã nghiêm túc phân tích, đánh giá thị
trường, nhìn nhận vấn đề một cách khách quan để từ đó tìm ra các tồn tại trong
hoạt động thanh toán và thực hiện hàng loạt các giải pháp tích cực: đổi mới
công nghệ, chấn chỉnh hoạt động Marketing, nâng cao chất lượng công tác
thanh toán, rút ngắn thời gian xử lý giao dịch, áp dụng các chính sách chăm sóc
đơn vị chấp nhận thẻ ..... nhằm sốc lại hoạt động thanh toán thẻ của ngân hàng.
Nhờ chủ trương, chính sách đúng đắn của Ban lãnh đạo NHNTVN cộng với sự
nỗ lực cố gắng của đội ngũ cán bộ thẻ, hoạt động thanh toán đã có sự chuyển
biến tích cực ngay tử năm đầu tiên thực hiện. Đến năm 2001, doanh số thanh
toán thẻ đã có sự tăng trưởng trở lại . Doanh số thanh toán cho cả 4 loại thẻ
Visa, MasterCard, American Express và JCB đều tăng cao, đạt 86,72 triệu, tăng
22% so với năm 2000. Kết quả này đưa NHNTVN trở lại vị trí đứng đầu thị
trường thanh toán thẻ ở Việt Nam với thị phần chiếm 45% trong năm 2001.
Bảng 2.3: Tình hình thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam
Đơn vị: Triệu USD

Loại thẻ 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Visa 55 38 33 33 37.25 46.98 61.80 75.10 120.50
MasterCard 26 19 15 14 17.40 19.52 24.20 31.70 56.90
American Express 41 36 27 23 14.73 17.84 19.70 33.60 42.40
JCB 4 3 2 1 1.69 2.38 2.80 2.90 2.90
Diners Club 0 0 0 0 0 0 0.20 0.80 3.20
Tổng 126 96 77 71 71.06 86.72 108.70 144.10 225.90
(Báo cáo kết quả kinh doanh thẻ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 1996-2004)
Với những sự điều chỉnh, thay đổi phù hợp, kịp thời đã tạo nên sự phát
triển liên tục về thẻ của NHNTVN trong những năm tiếp theo. Kế tiếp đà phát
triển, liên tục trong những năm 2002 trở lại đây, NHNTVN luôn là ngân hàng
thanh toán lớn nhất trên thị trường, doanh số thanh toán thẻ tăng trưởng với
mức độ cao, tốc độ bình quân 20%/ năm, nắm giữ hơn 50% thị trường thanh
toán thẻ quốc tế trong nước. Giai đoạn 2003 - 2004 là giai đoạn các ngân hàng
tập trung đẩy mạnh dịch vụ thẻ trên tất cả các mặt trận: thanh toán và phát hành,
tín dụng và ghi nợ, thẻ nội địa cũng như thẻ quốc tế. Trước sức ép cạnh tranh
ngày càng gay gắt, doanh số thanh toán thẻ quốc tế của NHNTVN vẫn đạt mức
144,1 triệu USD năm 2003 và 225,9 triệu USD năm 2004, tăng 81,8 triệu USD.
Mức tăng trưởng cao nhất là của thẻ Dinner Club: 300% tuy số tuyệt đối còn ít
(3,2 triệu USD) nhưng tốc độ tăng trưởng cao được duy trì qua 2 năm 2003,
2004 là hết sức khả quan. Trong số các loại thẻ còn lại, thanh toán thẻ
MasterCard đạt tăng trưởng nhanh nhất với tốc độ 79,5%, tiếp theo là thẻ Visa
60,45 % và thẻ American Express 26.19%.
Về tương quan giữa các loại thẻ, thẻ Visa vẫn có doanh số thanh toán cao
nhất chiếm 54%, MasterCard 25%, American Express 19%. Tuy nhiên xét về
mức tăng trưởng, thị phần MasterCard tăng 3% so với năm 2003, thị phần Visa
tăng 1% trong khi thị phần của American Express giảm 4%.
Thanh toán thẻ Dinner Club đã vượt doanh số thẻ JCB. Việc doanh số
thanh toán thẻ JCB không có sự tăng trưởng là do trong năm các ngân hàng
ACB, ANZ, UOB cũng đã ký hợp đồng chấp nhận thanh toán thẻ với JCB tại

Việt Nam.
Tuy nhiên những năm qua, doanh số thanh toán thẻ vẫn tập trung chủ yếu
ở địa bàn Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố du lịch như Huế,
Nha Trang, Vũng Tàu. Chỉ tính riêng tại địa bàn Hà Nội và Hồ Chí Minh, doanh
số thanh toán thẻ chiếm 87,8% doanh số thanh toán toàn hệ thống, trong đó chi
nhánh Hồ Chí Minh là 60,67% trong năm 2004.
Để được kết quả đáng khích lệ như trong giai đoạn 2000-2004 kể trên là
do hệ thống công nghệ thanh toán thẻ tại NHNTVN đã được nâng cấp, đổi mới,
hệ thống xử lý dữ liệu hoạt động tương đối ổn định. Hơn nữa, việc đầu tư trang
thiết bị công nghệ phục vụ hoạt động thanh toán thẻ đã được chú trọng. Hơn
50% số lượng đơn vị chấp nhận thẻ trong hệ thống đã được trang bị máy EDC
nhằm giảm thiểu rủi ro và tăng thu lợi nhuận cho ngân hàng. NHNTVN cũng đã
ký hợp đồng bảo trì bảo dưỡng thiết bị thanh toán thẻ với một công ty chuyên
nghiệp. Công ty này thực hiện bảo dưỡng theo định kỳ và thường xuyên đáp
ứng nhu cầu thay thế, sửa chữa của các đơn vị chấp nhận thẻ, góp phần chăm
sóc khách hàng, nâng cao chất lượng thanh toán của các đơn vị chấp nhận thẻ.
Dịch vụ khách hàng và cấp phép được cung cấp 24/24h. Yếu tố thứ 2 phải kể tới
là sự tăng trưởng của du lịch và đầu tư vào thị trường Việt Nam trong giai đoạn
2000 – 2004. Lượng khách du lịch đến Việt Nam liên tục tăng trưởng với tốc độ
cao kéo theo sự phát triển của các ngành dịch vụ phục vụ nhu cầu của khách du
lịch quốc tế, nguồn thu từ ngành kinh tế du lịch nói chung và doanh số thanh
toán thẻ quốc tế nói riêng cũng tăng trưởng nhanh chóng. Ngoài ra, yếu tố
không thể nhắc đến là nghiệp vụ thẻ NHNTVN đã được điều chỉnh bởi một môi
trường pháp lý đầy đủ và hiệu quả hơn.
 Giai đoạn từ năm 2004 đến nay :
Trước với sự gia tăng những thách thức trong hoạt động cạnh tranh đối
với thị trường dịch vụ ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế, các ngân
hàng đều chú trọng tập trung đầu tư phát triển dịch vụ thẻ và tung ra thị trường
nhiều sản phẩm thẻ phong phú, đa dạng. Sự đa dạng về thành phần sở hữu và
các sản phẩm dịch vụ thẻ của các ngân hàng đã làm cho hoạt động thẻ giai đoạn

này trở nên rất sôi động, cạnh tranh diễn ra gay gắt trên cả hai lĩnh vực phát
hành và thanh toán thẻ.
Trong bối cảnh đó, việc duy trì thị phần và giữ vững mức tăng trưởng cao
của hoạt động thanh toán thẻ của NHNTVN là một thành tựu không nhỏ của
Ban lãnh đạo cũng như toàn thể cán bộ công nhân viên NHNTVN. Năm 2006,
doanh số thanh toán thẻ quốc tế ước đạt 386,3 triệu USD (tương đương 6.180 tỷ
VNĐ), cao gấp 1.7 lần so với năm 2004 và tăng 22,75% so với 2005. Năm 2007
sau sự kiện Việt Nam tổ chức thành công hội nghị Apec tại Hà Nội và sự kiện
Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO (lượng du
khách quốc tế và doanh nhân đến Việt Nam tăng) nên doanh số thanh toán thẻ
quốc tế đạt mức tăng ngoạn mục ước đạt 482,5 triệu USD tăng gần 25% so với
năm 2006.
Bảng 2.4: Tình hình thanh toán thẻ quốc tế của Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam 2007
Đơn vị: triệu USD
Loại thẻ 2004 2005 2006 2007
Visa 120,5 166,7 196,8 224,2
MasterCard 56,9 82,4 99,0 125,4
American Express 42,4 58,1 81,8 123,7
JCB 2,9 3,8 4,8 5,2
DinerClub 3,2 3,7 3,9 4
Tổng 225,9 314,7 386,3 482,5
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2007 của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam)
Mức tăng trưởng doanh số thanh toán cao nhất là của thẻ American
Express:51,2%, tuy số tuyệt đối mới chỉ đạt ½ số tuyệt đối về doanh số thanh
toán của thẻ VisaCard nhưng tốc độ tăng trưởng cao của thẻ American Express
là hết sức khả quan. Trong số các loại thẻ còn lại, mức tăng trưởng doanh số
thanh toán thẻ Master ở vị trí thứ hai: 26,67%, tiếp theo là doanh số thanh toán
thẻ Visa với mức tăng trưởng 13,92%, tiếp đó là thẻ JCB với mức 8,3% thấp
hơn mức 26% của năm 2006 mặc dù về số tuyệt đối là có tăng. Cuối cùng là thẻ

Diner Club có mức tăng trưởng rất thấp chỉ có 2.5% so với 5,4% của năm 2006
đồng thời cũng giảm cả về số tuyệt đối (0,1 triệu USD so với 0,2 triệu USD của
năm 2006 ). Nhìn chung mức tăng trưởng của tất cả các loại thẻ đều giảm, duy
chỉ có thẻ American Express là tăng trưởng. Điều này chứng tỏ sự cạnh tranh
ngày càng khốc liệt của các ngân hàng trong thị trường thanh toán thẻ.
Biểu 2.2 Tỷ lệ doanh số thanh toán thẻ năm 2007
Về tương quan giữa các loại thẻ, thẻ Visa vẫn có tỷ lệ doanh số cao nhất
và duy trì ở mức 46% tổng doanh số thanh toán thẻ, MasterCard 26%, Amex
26%. Xét về mức tăng trưởng, thị phần Amex tăng nhiều nhất, từ chỗ kém
MasterCard năm 2006 8% đến năm 2007 đã đạt xấp xỉ MasterCarrd.Năm 2005,
doanh số thanh toán thẻ Diners Club đã vượt doanh số thanh toán thẻ JCB
nhưng năm 2006, việc phối hợp đẩy mạnh các chương trình marketing giữa
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Tổ chức thẻ JCB đã mang lại sự tăng
trưởng vượt bậc về doanh số thanh toán của thẻ JCB so với Diners Club về cả
số tuyệt đối và tương đối.
Khi nền kinh tế tăng trưởng ở mức ổ định, sức mua hàng hoá của người
tiêu dùng tăng, các khâu cung ứng dịch vụ phát triển thu hút khách du lịch nhiều
hơn thì dịch vụ thẻ của Ngân hàng Ngoại thương cũng có cơ hội phát triển và
dần lấy lại được vị thế của mình. Tuy nhiên, trước tình hình cạnh tranh gay gắt
của hơn 10 ngân hàng thanh toán thẻ, trong đó có những ngân hàng nước ngoài
với công nghệ tiên tiến và bề dày kinh nghiệm, Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đà phát triển và giữ vững vị trí hàng
đầu trong thị trường thẻ sôi động này.
* Hoạt động của hệ thống ATM
Cùng với hoạt động phát hành thẻ Connect24, hoạt động của hệ thống

×