Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.66 KB, 8 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM
A. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM
I. Vì sao bảo hiểm ra đời
Quá trình tồn tại và phát triển của loài người là quá trình đấu tranh để cải
tạo và hoà hợp với thiên nhiên, quá trình đó chịu sự tác động của thiên nhiên
theo hai hướng tích cực và tiêu cực. Sự tác động tiêu cực của thiên nhiên như
bão, lũ lụt, hạn hán, động đất,... là những thiên tai có thể gây hậu quả thiệt hại
về con người, tài sản. Không những thiên tai mà ngay con người cũng có thể
gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản cho người khác. Những
thiệt hại đó gây cho con người bao nhiêu khó khăn, bất hạnh trong cuộc sống và
trong sản xuất. Sự tác động của thiên tai, tai biến đặt ra một nhu cầu nội tại của
đời sống cộng đồng là con người phải có các biện pháp phòng ngừa, hạn chế,
khắc phục hậu quả có thể bằng các cách như: buộc người gây thiệt hại phải bồi
thường tổn thất trong trường hợp tai nạn xảy ra do lỗi của con người.

Biện pháp phòng ngừa: là biện pháp được con người sử dụng do nhận
thức được các qui luật của thiên nhiên để khắc phục và hạn chế thiệt hại như
đắp đê chống lụt, trồng rừng phòng hộ, phòng cháy,... Mục đích của biện pháp
phòng ngừa là nhằm ngăn ngừa rủi ro hoặc hạn chế hậu quả phát sinh từ rủi ro.

Biện pháp cứu trợ: là biện pháp được thực hiện để khắc phục hậu quả
phát sinh từ các rủi ro. Sự cứu tế, trợ giúp của xã hội là một biện pháp tích cực.
Nguồn trợ giúp có thể từ ngân sách Nhà nước hoặc từ sự đóng góp từ thiện của
các cá nhân, tổ chức mang tính tự nguyện nhằm giúp đỡ các tổ chức cá nhân
gặp rủi ro khắc phục các hậu quả. Biện pháp này rất hữu hiệu trong những
trường hợp thiên tai xảy ra ở phạm vi một vùng, một bộ phận dân cư.

Biện pháp lập ra các quỹ dự phòng để bù đắp kịp thời tổn thất xảy ra.
Trong nhiều trường hợp các biện pháp trên tỏ ra rất hiệu quả nhưng nhiều
trường hợp khác chúng lại cho thấy những hạn chế trong việc khắc phục hậu
quả. Đó là:


Cho dù con người có chú ý đến biện pháp phòng ngừa nhưng những rủi ro,
tai nạn vẫn có thể xảy ra như động đất, núi lửa. Những thiệt hại do thiên tai gây
ra không thể buộc cá nhân hay tổ chức nào đó bồi thường được vì không ai có
lỗi. Biện pháp cứu trợ lại kém hiệu quả đối với trường hợp thiệt hại do thiên tai
gây ra quá lớn. Hay trường hợp xảy ra thiệt hại nhưng không tìm ra thủ phạm
hoặc thiệt hại xảy ra do lỗi của chính người bị thiệt hại khiến họ bị đẩy vào thế
suy kiệt kinh tế.
Trong bối cảnh đó hình thức bảo hiểm ra đời để giải quyết cơ bản những
hạn chế đó. Biện pháp bảo hiểm được thực hiện thông qua hoạt động lập và sử
dụng quĩ bảo hiểm nhằm bù đắp thiệt hại, khắc phục hậu quả của các rủi ro. Vậy
tại sao bảo hiểm lại có khả năng khắc phục được những thiệt hại to lớn đó. Để
trả lời câu hỏi này ta tìm hiểu vai trò của bảo hiểm.
II. Vai trò của bảo hiểm
1. Bảo hiểm là công cụ để xử lý rủi ro, duy trì đời sống và hoạt động bình
thường của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Hoạt động bảo hiểm được thực hiện theo phương thức “lấy ít của số đông
bù cho số ít” đã tập trung được một lượng của cải cần thiết có khả năng bù đắp
thiệt hại cho các tổ chức và cá nhân gặp rủi ro thuộc diện được bảo hiểm. Chính
vậy mà việc tham gia bảo hiểm tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân trong xã
hội có thể duy trì đời sống và hoạt động bình thường khi gặp rủi ro. Ngay cả khi
thiệt hại quá lớn hay không tìm thấy người gây thiệt hại thì bảo hiểm cũng đảm
bảo được khả năng bồi thường thiệt hại. Và vì một thiệt hại khi xảy ra trong
phạm vi bảo hiểm đã được chia sẻ cho nhiều người cùng gánh chịu nên tác hại
của hiểm hoạ không còn lớn như khi chỉ có một số ít người phải gánh chịu toàn
bộ.
Vai trò to lớn của bảo hiểm trong đời sống, sản xuất kinh doanh thể hiện là:
+ Đem lại tâm lý an tâm về mặt tài chính trước các nguy cơ xảy ra gây thiệt hại.
+ Nhanh chóng được bồi thường tổn thất khi rủi ro gây thiệt hại.
+ Giúp doanh nghiệp, cá nhân tự tin trong việc mở rộng sản xuất, kinh
doanh hoặc tham gia vào lĩnh vực đầu tư mới.

Quĩ bảo hiểm tập trung được coi là nguồn bảo đảm tài chính vững chắc cho
các tổ chức kinh tế để khắc phục hậu quả của hiểm hoạ, bảo toàn và phát triển
nguồn vốn của mình. Trong kinh doanh, qui mô đầu tư càng lớn thì rủi ro càng
cao. Để phân tán rủi ro, các nhà đầu tư thường tham gia bảo hiểm. Họ lựa chọn
và gửi gắm doanh nghiệp của mình vào các loại hình bảo hiểm về tài sản. Còn
các loại hình bảo hiểm về con người thì góp phần ổn định cả sản xuất và đời
sống vì nó góp phần bảo toàn sức lao động, khôi phục sức khoẻ của con người
sau cơn tai biến.
Không những thế, bảo hiểm còn đóng vai trò trong quản lý Nhà nước:
+ Giảm gánh nặng cho ngân sách, góp phần tăng tích luỹ cho ngân sách.
+ Tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động trong xã hội.
+ Góp phần đề phòng hạn chế tổn thất phát sinh.
Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất và đời sống do đó góp phần ổn định
“khoản thu cho ngân sách Nhà nước như thuế,...” Bảo hiểm có thể bổ sung hoặc
thay thế một số khoản thu chính sách (do thiên tai hoặc tai biến xã hội). Do vậy
bảo hiểm góp phần ổn định nền tài chính ngân sách tránh cho Nhà nước phải chi
khoản ngân sách lớn khi có thiên tai, tai nạn xảy ra. Quĩ bảo hiểm ngày càng
chiếm một tỉ trọng lớn trong toàn bộ các quĩ tập trung.
Trong nhiều tác phẩm của mình, Mác đã nhiều lần đề cập đến sự cần thiết
khách quan phải thành lập quĩ bảo hiểm. Mác nhấn mạnh “Để đảm bảo quá
trình tái sản xuất mở rộng, trong tổng sản phẩm bên cạnh phần dùng để bù đắp
tư liệu sản xuất đã tiêu hao và thặng dư để mở rộng sản xuất phải có một phần
để làm quĩ dự phòng hoặc quĩ bảo hiểm để đề phòng tai nạn và thiên tai” (C.Mác
- Anghen tuyển tập, tập III, NXB Sự thật, Hà Nội - 10/1, Tr 604).
Bảo hiểm góp phần ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội cũng
chính là góp phần lập lại sự cân đối mới cho nền kinh tế xã hội sau khi tổn thất
xảy ra. Đặc biệt quĩ bảo hiểm cùng với quĩ sản xuất được coi là đảm bảo tài
chính vững chắc cho sự hình thành và phát triển lâu bền của nền văn minh xã
hội. Ănghen đã nói “Quĩ sản xuất và dự phòng của xã hội đã và vẫn còn là cơ sở
của mọi tiến bộ xã hội, về chính trị và trí tuệ” (Ph. Ănghen: chống Duyring -

NXB Sự thật, Hà Nội - 1959, Tr 957).
2. Bảo hiểm nâng cao khả năng ngăn ngừa rủi ro và hạn chế hậu quả phát
sinh từ rủi ro đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Trong nhiều loại hình bảo hiểm như bảo hiểm thương mại, lúc đầu là tập
quán sau đó trở thành qui tắc xử sự được pháp luật ghi nhận, những người tham
gia bảo hiểm (bên mua bảo hiểm) phải thực hiện những biện pháp để phòng
ngừa rủi ro và hạn chế hậu quả khi xảy ra rủi ro. Pháp luật của các nước đều có
các qui định về nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm trong việc thực hiện các
biện pháp phòng ngừa rủi ro và hạn chế hậu quả. Nếu người tham gia bảo hiểm
vi phạm nghĩa vụ này thì tuỳ mức độ mà bị bên bảo hiểm từ chối một phần hoặc
toàn bộ số tiền bồi thường bảo hiểm. Chính vì vậy, khi tham gia quan hệ bảo
hiểm, các tổ chức và cá nhân tích cực thực hiện các biện pháp phòng tránh, hạn
chế hậu quả của rủi ro.
3. Bảo hiểm là công cụ tập trung vốn
Quĩ bảo hiểm được hình thành trên cơ sở phí bảo hiểm do các tổ chức và
cá nhân tham gia bảo hiểm đóng và được sử dụng chi trả khi có sự kiện bảo
hiểm. Do phương thức sử dụng quĩ như vậy nên tạo ra khả năng tạm thời nhàn
rỗi của vốn tiền tệ. Số vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi này được các doanh nghiệp
bảo hiểm sử dụng để tham gia các quan hệ đầu tư. Như vậy, về phương diện
vốn, các quĩ bảo hiểm là những tụ điểm tài chính cần được khai thác, sử dụng
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế.
Với tốc độ phát triển kinh tế hiện nay, bảo hiểm phải đóng vai trò quan
trọng trong việc hỗ trợ đầu tư bằng cách cung cấp những sản phẩm bảo hiểm có
chất lượng cao và an toàn. Nhiều công trình được các cơ quan tài chính quốc tế
và trong nước cung cấp tài chính đến 75-90%. Những người cho vay tiền muốn
chuyển giao rủi ro càng nhiều càng tốt và điều đó đòi hỏi bảo hiểm phải có khả
năng đáp ứng. Trong tình hình đó vai trò của bảo hiểm hay vai trò của chuyển
giao rủi ro và sự phát triển thói quen quản lý rủi ro trở lên ngày càng quan
trọng.
Người ta cho rằng nền văn minh Âu Mỹ có thể phát triển mạnh và tồn tại

lâu dài trong điều kiện thiên nhiên và xã hội có nhiều hiểm hoạ như hiện nay là
do nền kinh tế hàng hoá cùng với bảo hiểm ở đây đã sớm hình thành và phát
triển mạnh hơn các nơi khác. Trong khi ở nhiều nơi trên thế giới khái niệm bảo
hiểm còn mới lạ thì ở các nước tiên tiến bảo hiểm đã trở thành một tập quán,
thói quen của dân chúng, là một nhu cầu của các nhà kinh doanh, một kế sách
quản lý của Nhà nước.
Vai trò của bảo hiểm ngày càng quan trọng do kinh tế càng phát triển, đời
sống càng cao, nhu cầu bảo hiểm càng lớn. Ngược lại bảo hiểm cũng tác động
trở lại thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định đời sống xã hội. ở Việt Nam năm
1999 tổng số phí bảo hiểm chiếm 0,5% GDP (số liệu của tạp chí Bảo hiểm số
1/2000). Ngày nay sự giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các nước càng phát triển thì
bảo hiểm càng được mở rộng.
III. Lịch sử phát triển bảo hiểm trên thế giới.
Bảo hiểm ra đời rất sớm trên thế giới. Hình thức lập quĩ để tự bảo hiểm
xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Hơn 4000 năm trước công nguyên, ở Ai Cập
những người thợ thủ công đã lập “Quĩ tương trợ” bằng sự đóng góp của các
thành viên và giúp đỡ nạn nhân gặp tai nạn nghề nghiệp. Còn ở Trung Quốc các
thương nhân có hàng vận chuyển trên tàu, thuyền đã biết cách phân tán hàng
của mỗi người trên nhiều tàu, thuyền để tránh tình trạng một người gặp rủi ro
phải gánh chịu toàn bộ tổn thất.
Bảo hiểm thương mại, với loại hình đầu tiên là bảo hiểm hàng hải xuất
hiện đầu tiên ở Babylone vào khoảng 1700 năm trước công nguyên. Đến thế kỷ
V trước công nguyên, buôn bán rất phát triển kéo theo sự hưng thịnh của ngành
vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Vào thế kỷ XII, giao lưu đường biển đã
rất phát triển, tổn thất do thiên tai, cướp biển gây ra cũng càng nhiều, nên ở thời
kỳ này tồn tại một hệ thống tín dụng kết hợp hoạt động cho vay với hoạt động
bảo hiểm đối với hàng hoá được mua và vận chuyển bằng tiền vay. Các nhà
kinh doanh đi vay vốn để mua hàng với lãi suất rất nặng. Nếu chuyến hàng gặp
rủi ro tổn thất toàn bộ thì họ không phải trả người cho vay cả vốn và lãi. Lãi
suất này có thể coi chính là hình thức sơ khai của phí bảo hiểm. Sau này số vụ

tai nạn ngày càng nhiều, tổn thất ngày càng lớn khiến cho nhiều nhà kinh doanh
vốn lâm vào thế mạo hiểm. Và để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh
này, hình thức bảo hiểm ra đời. Các nguyên tắc của hoạt động bảo hiểm cùng
với hợp đồng bảo hiểm ngày càng hoàn thiện đã đem lại sự đảm bảo an toàn cao
cho hoạt động bảo hiểm. Năm 1182 ở Limbardine (Bắc Ý) hợp đồng bảo hiểm
sơ khai đã ra đời với tên gọi “Police” (đơn mua). Người bán đơn này ký tên
dưới đơn “Coghataire” cam kết các nội dung ghi trên đơn của mình để phục vụ
người mua đơn.
Từ thế kỷ 14, bảo hiểm chính thức ra đời, đầu tiên là ở Phơ lo ren xơ,
Genois và Flauder. Xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm mà theo đó một nhà bảo
hiểm cam kết với một người được bảo hiểm qua việc nhận được một khoản phí,
bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu
khi có thiệt hại xảy ra trên biển.
Khi đó ở Gene, vào năm 1336, thống đốc đã ra sắc lệnh về bảo hiểm. Ở Bồ
Đào Nha, một chỉ dụ của Vua Ferdinand vào nửa thế kỷ sau thế kỷ 14, thiết lập
bảo hiểm tương hỗ bắt buộc đối với chủ tàu 500 tấn trở lên. Còn ở Bruge (Bỉ)
Uỷ ban BETHUNE năm 1310, thiết lập phòng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm cổ
xưa nhất mà người ta tìm thấy ghi ngày 22 tháng 4 năm 1329, hiện còn lưu giữ
ở Plorenxơ. Sự phát triển của bảo hiểm hàng hải gắn cùng với sự phát hiện ra
Ấn Độ Dương và đương nhiên cả việc tìm ra Châu Mĩ.
Vào thế kỷ 17, luật về bảo hiểm hàng hải đã ngày càng phong phú bởi các
bộ luật và sắc lệnh. Đặc biệt là cuốn “sắc lệnh về hàng hải” xuất bản năm 1680
theo sáng kiến của Cobert. Tác phẩm này ấn hành vào năm 1680 mà hiện nay ta
có thể tìm thấy được, đã đưa vào các nguyên tắc lớn của bảo hiểm hàng hải hiện
đại, đã có ảnh hưởng rất rộng lớn tới nhiều bộ luật hàng hải.
Thế kỉ XVII, nước Anh đã chiếm vị trí đáng kể trong buôn bán thế giới và
cũng là nơi hoạt động bảo hiểm phát triển nhất. Tiệm cà phê của Lloyd’s ở phố
Tower street sau này trở thành nơi giao dịch kinh doanh bảo hiểm, hiện nay vẫn
đang là một trong những hãng bảo hiểm lớn nhất thế giới. Đến thế kỉ 20, các qui
định của luật hàng hải Anh ban hành năm 1906 dưới tên gọi “Luật bảo hiểm

hàng hải” đã ngự trị bảo hiểm hàng hải thế giới.
Và từ bảo hiểm hàng hải, các loại hình bảo hiểm khác kế tiếp nhau ra đời
xuất phát từ nhu cầu được bảo hiểm của các thương gia, người sản xuất và các
tầng lớp dân cư. Có thể nói, hoạt động bảo hiểm phát triển sang nhiều lĩnh vực
khác nhau: bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tín dụng,... Giai

×