Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM TƯƠNG HỖ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.98 KB, 36 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
VÀ BẢO HIỂM TƯƠNG HỖ
I. TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM
1.1. Khái niệm về kinh doanh bảo hiểm :
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng như trong lao động sản xuất
kinh doanh, mặc dù không muốn nhưng con người luôn đứng trước những nguy
cơ rủi ro có thể xảy ra. Do vậy, nhu cầu an toàn đối với các cá nhân và tổ chức
trong xã hội là vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách để bảo vệ chính bản
thân và tài sản của mình trước những bất hạnh của số phận và những biến cố bất
ngờ xảy ra trong sản xuất kinh doanh. Ngay từ thời cổ đại đă xuất hiện các tổ
chức gần giống với bảo hiểm, chẳng hạn người Ba-Bi-Lon đã đưa ra những quy
tắc tổ chức phương tiện vận tải bằng xe kéo để phân chia các thiệt hại do mất
cắp và bị cướp cho các thương gia cùng gánh chịu. Hoặc vào thế kỷ thứ V trước
công nguyên, Pê-Ri-Clex đã tổ chức Hội đoàn tương hỗ nhằm hoạt động trợ
giúp cho các thành viên và gia đình của họ trong các trường hợp bị tử vong, ốm
đau, bệnh tật hay hoả hoạn…Sang thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng
hải đã bắt đầu được hình thành, song phải đến năm 1347 bản hợp đồng bảo
hiểm đầu tiên mới được ký kết tại Gênes. Và cũng chính tại Gênes năm 1424,
công ty bảo hiểm hàng hải đầu tiên đã ra đời, đánh dấu sự phát triển của ngành
bảo hiểm và sự ra đời hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh
bảo hiểm ngày càng phát triển mạnh mẽ và đến nay nó đã thành một lĩnh vực
kinh doanh đặc biệt, phổ biến ở tất cả các nền kinh tế trên thế giới.
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục
đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của bên mua bảo
hiểm, trên cơ sở bên mua đống phí bảo hiểm để doanh nghiệp trả tiền bảo hiểm
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho bên mua bảo hiểm khi có sự kiện bảo
hiểm xảy ra.
Mục đích kinh tế của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là lợi nhuận, chỉ có
thu được lợi nhuận doanh nghiệp bảo hiểm mới có thể tồn tại và phát triển được
trong điều kiện kinh tế thị trường. Lợi nhuận giúp doanh nghiệp trang trải cho
các cá nhân và tổ chức cung cấp vốn cho họ. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể


thu hút được nguồn vốn của các nhà đầu tư khác nếu tỷ suất lợi nhuận của
doanh nghiệp bằng hoặc cao hơn loại hình đầu tư của họ trên thị trường. Mức
lợi nhuận cao còn giúp doanh nghiệp duy trì được nguồn quỹ dự phòng đủ lớn,
hạn chế sự chuyển nhượng tái bảo hiểm và có điều kiện để nâng cao mức thu
nhập cho cán bộ nhân viên. Bên cạnh mục tiêu chính là lợi nhuận, kinh doanh
bảo hiểm còn phải đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng, giúp khách hàng
nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh khi không may tổn thất,
thiệt hại xảy ra đối với họ, đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà
nước. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng giống như các tổ chức khác trong xã hội rất
mong muốn tạo dựng một xã hội an toàn và ổn định góp phần làm cho xã hội
thịnh vượng và phồn vinh. Điều đó thể hiện ở mục đích và những mong muốn
giảm bớt và phòng tránh các tổn thất về người và tài sản cho xã hội. Ngoài ra,
doanh nghiệp bảo hiểm còn đóng góp vào quỹ do các tổ chức y tế giáo dục, các
tổ chức xã hội khác và hình thành các chương trình phúc lợi cho các cán bộ,
công nhân viên của bản thân doanh nghiệp.
Thực chất của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là các doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm chuyển giao cho họ, đồng thời
chấp nhận trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho bên tham gia khi có các sự
kiện bảo hiểm xảy ra. Đổi lại doanh nghiệp sẽ thu được phí bảo hiểm để hình
thành quỹ dự trữ, bồi thường, trang trải các khoản chi khác có liên quan và có
lãi. Tuy nhiên, không phải mọi rủi ro mà bên tham gia chuyển giao, doanh
nghiệp bảo hiểm đều có thể chấp nhận bảo hiểm.
Kinh doanh bảo hiểm thường gắn liền với hoạt động kinh doanh tái bảo
hiểm. Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm
mục đích sinh lời, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản phí bảo hiểm
khác để cam kết bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. Như vậy,
hai loại hình kinh doanh này đều tồn tại ngay trong một doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là chủ yếu nhưng kinh doanh tái bảo
hiểm cũng nhất thiết phải đặt ra. Ngoài mục đích sinh lời, kinh doanh tái bảo
hiểm còn giúp doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng quan hệ với các bạn hàng, tranh

thủ nguồn vốn, học hỏi kinh nghiệm, nắm thêm thông tin, hỗ trợ đào tạo cán bộ.
Hơn thế nữa, đến lượt mình các doanh nghiệp bảo hiểm còn phải thực hiện tái
bảo hiểm để đảm bảo ổn định kinh doanh, tránh phá sản trong những trường
hợp mà đối tượng tham gia có số tiền lớn, hoạt động ở địa bàn quá xa, doanh
nghiệp không đủ khả năng tài chính và khả năng kiểm soát rủi ro. Hiện nay, trên
thế giới đặc biệt là các nước phát triển ngoài sự tồn tại của các công ty tái bảo
hiểm thì hình thức công ty bảo hiểm tương hỗ cũng tương đối phổ biến. Các
công ty bảo hiểm tương hỗ có giá trị vốn góp rất lớn đã và đang đóng vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo khả năng thanh toán và ổn định thị trường bảo
hiểm ở các quốc gia này.
1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm
1.2.1. Đối tượng kinh doanh đa dạng
Khác với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thương mại có đối tượng bảo hiểm là
tài sản, trách nhiệm dân sự và bảo hiểm về con người.
Bảo hiểm tài sản là bảo hiểm những tài sản có thực, tiền, giấy tờ có giá trị
được bằng tiền và các quyền tài sản.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự là bảo hiểm trách nhiệm bồi thường của
người được bảo hiểm .
Bảo hiểm con người là bảo hiểm tính mạng, sức khoẻ, tai nạn và nói
chung là những sự kiện có liên quan đến tuổi thọ của con người.
Mỗi đối tượng bảo hiểm bao gồm rất nhiều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp
vụ là một hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp bán sản phẩm bảo
hiểm ra thị trường và thu về phí bảo hiểm. Phí đó được tính toán trên cơ sở khoa
học đảm bảo thu bù chi làm nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi cho doanh
nghiệp.
Với số lớn các nghiệp vụ (quy luật số lớn phát huy) thì luôn đảm bảo
đẳng thức:
Với sự đa
dạng đối tượng
bảo hiểm, quy

luật số lớn trong kinh doanh bảo hiểm càng phát huy tác dụng; do đó, mục đích
lợi nhuận sẽ đạt được.
1.2.2. Bảo hiểm là ngành kinh doanh có nguồn vốn pháp định lớn
Nguồn vốn doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm
thu được, lãi đầu tư v.v...Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo như mức vốn pháp
định do luật quy định (công ty BHNT 140 tỷ VND, công ty bảo hiểm phi nhân
thọ 70 tỷ VND). Vốn pháp định lớn như vậy là do đặc thù kinh doanh bảo hiểm
- kinh doanh rủi ro.
1.2.3. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm - là nguồn vốn đầu tư sinh lời
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải trích lập dự phòng nghiệp vụ từ
phí bảo hiểm của từng nghiệp vụ (hoặc hợp đồng bảo hiểm đối với bảo hiểm
nhân thọ) đối với phần trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp.
Dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ có
khác nhau.
a) Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, dự phòng nghiệp vụ bao gồm:
- Dự phũng toỏn học là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại của
số tiền bảo hiểm và giá trị hiện tại của phí bảo hiểm sẽ thu được trong
Ph
í
thu
=
Chi hoạt động
kinh doanh
+
Nộp
thuế
+
Lãi kinh
doanh

tương lai để trả tiền bảo hiểm khi sự kịên bảo hiểm xảy ra thuộc trách
nhiệm của bảo hiểm;
- Dự phòng phí chưa được hưởng áp dụng đối với các hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ ngắn hạn (dưới một năm) để trả tiền bảo hiểm sẽ phát
sinh trong thời gian còn hiệu lực của năm hợp đồng tiếp theo;
- Dự phòng bồi thường được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm nhưng chưa được giải quyết cho đến cuối năm tài
chính;
- Dự phòng chia lãi được sử dụng để chia lãi theo thoả thuận của
bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm ;
- Dự phòng đảm bảo cân đối được sử dụng để trả tiền bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm do đó có biến động lớn về tỷ lệ tử vong, lãi suất
kỹ thuật.
b) Đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, dự phòng nghiệp
vụ bảo hiểm bao gồm:
- Dự phòng phí chưa được hưởng dùng để bồi thường cho trách
nhiệm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm
trong năm tiếp theo;
- Dự phòng bồi thường cho khiếu nại chưa được giải quyết;
- Dự phòng bồi thường cho các dao động lớn về tổn thất để bồi
thường khi có giao động lớn về tổn thất hoặc tổn thất lớn xảy ra mà phí
giữ lại sau khi đã trừ đi hai loại dự phòng nghiệp vụ trên không đủ để trả
tiền bồi thường thuộc phần trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm.
Các dự phòng nghiệp vụ trên là nguồn vốn để đầu tư sinh lời nhất là dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ vừa có nguồn vốn lớn vừa dài hạn.
1.2.4. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn gắn kết với hoạt động
đầu tư
Hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Hoạt động đầu tư vừa góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng
quy mô của doanh nghiệp; tăng quỹ phúc lợi, vừa tăng thu nhập cho người lao

động; vừa góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự
nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ
DPNV bảo hiểm.
1.2.5. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tuân thủ các quy định của
pháp luật và các điều ước quốc tế có liên quan
Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tuân thủ
quy định của luật kinh doanh bảo hiểm, các quy đinh khác của pháp luật có liên
quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Tuân thủ pháp luật cũng như các điều ước quốc tế nhằm đảm bảo kinh
doanh đúng hướng, đạt hiệu quả cao, đảm bảo lợi ích của người tham gia, doanh
nghiệp bảo hiểm và Nhà nước.
II. CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt
động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy đinh khác của
pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm.
Nếu kinh tế thị trường là nền kinh tế đa dạng, phang phú các hoạt động
kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế đó có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Vì
vậy, các tổ chức kinh tế cũng phù hợp với thành phần kinh tế đó. Cụ thể trong
thị trường bảo hiểm thưòng bao gồm các hình thức tổ chức như sau:
- Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước;
- Công ty cổ phần bảo hiểm ;
- Công ty bảo hiểm tư nhân;
- Tổ chức bảo hiểm tương hỗ;
- Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh;
- Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là hình thức tổ chức của các công ty độc lập. Ngoài ra, còn có doanh
nghiệp (hay công ty) trực thuộc trong các tổng công ty (hay tập đoàn) kinh
doanh lớn. Chẳng hạn, công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA thuộc tập đoàn công
ty bảo hiểm và dịch vụ tài chính hàng đầu thế giới AIG; Công ty bảo hiểm

Samsung, Công ty bảo hiểm dầu khí trong Tổng công ty dầu khí v.v…
2.1. Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước
Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước thành
lập, đầu vốn và quản lý với tư cách là người chủ sở hữu. donh nghiệp bảo hiểm
Nhà nước là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước
pháp luật.
Ở Việt Nam hiện nay có 2 doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước: Tổng công
ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), Công ty Bảo hiểm Dầu khí (PVIC) và Công
ty tái bảo hiểm quốc gia (VINARE).
Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) được thành lập ngày
17/12/1964, vốn điều lệ khi thành lập lại (vào tháng 3/1996) là 629 tỷ đồng và
được xếp hạng đặc biệt theo Quyết định số 745/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Bảo Việt kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ có hệ thống
các công ty thành viên khắp các tỉnh thành trong cả nước; có quan hệ với nhiều
công ty bảo hiểm các nước trên thế giới v. v…
Công ty Bảo hiểm Dầu khí (PVIC) - Công ty bảo hiểm ngành trong tổng
công ty lớn - Tổng công ty Dầu khí Việt Nam được thành lập ngày 23/1/1996,
với vốn điều lệ là 22 tỷ đồng. PVIC kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và được
phép thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc với tất cả cán bộ công nhân viên trong
ngành dầu khí.
2.2. Công ty cổ phần bảo hiểm
Công ty cổ phần bảo hiểm là loại hình doanh nghiệp do các cổ đông tham
gia đóng góp vốn thông qua hình thức phàt hành cổ phiếu, trái phiếu và có trách
nhiệm hữu hạn. Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, cùng chia lợi, cùng
chịu lỗ tương ứng với số vốn góp.
Ở Việt Nam hiện nay có 5 công ty cổ phần bảo hiểm là:
- Công ty cổ phần Bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) thành lập 11/7/1995,
vốn điều lệ 22 tỷ đồng , kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ; có văn phòng đại
diện khắp các địa phương…
- Công ty cổ phần Petrolimex (PJICO) thành lập 21/6/1996, vốn điều lệ

55 tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, có văn phòng đại diện khắp
các địa phương.
- Công ty cổ phần bảo hiểm Bưu điện (PTI) thành lập cuối năm 1998, vốn
điều lệ 30 tỷ đồng.
- Công ty Bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh) thành lập ngày
28/11/1994, có vốn điều lệ là 45 tỷ đồng, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ;
có mạng lưới văn phòng đại lý khắp nước… Ngày 31/08/2004 Bảo Minh đó
cú quyết định chuyển thành công ty cổ phần bảo hiểm. Kể từ ngày 1/10/2004,
công ty cổ phần Bảo Minh chính thức hoạt động trên thị trường Bảo hiểm
- Công ty Tái bảo hiểm quốc gia (VINARE) được thành lập ngày
27/9/1994, với vốn điều lệ là 40 tỷ đồng. Chức năng của VINARE là kinh
doanh tái bảo hiểm đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và nước
ngoài. Đây là công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên của Việt Nam.
Theo Quy định số 2299/QĐ-BTC ngày 21/7/2004 của Bộ Tài chính phê duyệt
đề án cổ phần hoá của VI IARE. Tổng công ty cổ phần Tái bảo hiểm Quốc
gia Việt Nam chính thức hoạt động từ ngày 01/01/2005.
2.3. Công ty bảo hiểm tư nhân
Công ty bảo hiểm tư nhân là công ty bảo hiểm do một cá nhân làm chủ và
tự chịu trách nhiệm về hoạt động của công ty trước pháp luật. Công ty được
thành lập theo luật doanh nghiệp.
2.4. Tổ chức bảo hiểm tương hỗ
Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành
lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành
viên. Thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ sở hữu vừa là bên mua
bảo hiểm. Về mặt pháp lý, họ vừa là hội viên, vừa là những người được bảo
hiểm.
Tổ chức bảo hiểm tương hỗ chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của tổ chức trong phạm vi tài sản của tổ chức.
2.5. Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh
Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh được hình thành trên cơ sở vốn góp

của các bên (trong nước và nước ngoài). Chẳng hạn, của bên Việt Nam và bên
nước ngoài. Vị trí các bên trong doanh nghiệp phụ thuộc vào mức vốn góp. Các
thành viên trong doanh nghiệp hưởng lợi nhuận cũng như chịu thua lỗ tương
ứng với mức vốn góp.
Hiện nay ở Việt Nam số công ty bảo hiểm liên doanh đang hoạt động:
- Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (V.I.A) thành lập ngày
05/8/1996, vốn điều lệ 6 triệu USD. VIA là công ty liên doanh giữa Bảo Việt
với công ty Tokio Marine and Fire Insurance Co.Ltd của Nhật Bản và công ty
Commercial Union của Anh. V.I.A kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân
thọ, chủ yếu đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Công ty bảo hiểm Liên hiệp (U.I.C) thành lập ngày 01/11/1997, vốn điều
lệ 6 triệu USD. U.I.C là công ty liên doanh giữa công ty Bảo hiểm thành phố Hồ
Chí Minh - Bảo Minh với công ty Ysuda Fire and Marine Insurance Co. Ltd của
Nhật Bản. Lĩnh vực kinh doanh là bảo hiểm phi nhân thọ.
- Công ty Liên doanh môi giới bảo hiểm Aon-Inchinbrok thành lập năm
1993, vốn điều lệ là 250.000 USD. Đây là công ty liên doanh giữa Bảo Việt với
tập đoàn môi giới bảo hiểm AON của Mỹ.
- Công ty Liên doanh bảo hiểm Bảo Minh - CMG thành lập tháng 3/2000
với vốn điều lệ 10.000.000 USD. Bảo Minh - CMG là công ty liên doanh giữa
Bảo Minh với tập đoàn dich vụ tài chính Colonial (Australia). Bảo Minh - CMG
kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ.
2.6. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài
Đây là các doanh nghiệp bảo hiểm do nước ngoài đầu tư vốn hoạt động
tại nước sở tại, theo luật pháp của nước sở tại đồng thời chịu sự chỉ đạo của
công ty mẹ ở chính quốc.
Ở Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài chủ
yếu hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ: Chẳng hạn, công ty Prudentail
của Anh quốc, công ty AIA của Mỹ, công ty Manulife của Canada v.v…Các
công ty này chịu sự chi phối của luật kinh doanh bảo hiểm, luật đầu tư, luật
doanh nghiệp và các luật khác có liên quan.

Theo Luật Kinh doanh Bảo hiểm của Việt Nam, doanh nghiệp bảo hiểm
bao gồm 5 loại theo tính chất sở hữu:
- Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước
- Công ty cổ phần bảo hiểm
- Tổ chức bảo hiểm tươnh hỗ
- Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh
- Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài.
III. DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM TƯƠNG HỖ
3.1. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm tương hỗ
Trên thế giới, các tổ ch7ức tương hỗ có truyền thống khá lâu đời. Hình
thức hợp tác và tương hỗ được bắt nguồn từ việc những người có quan hệ họ
hàng, hàng xóm, những người cùng nhóm kết hợp với nhau nhằm bảo vệ bản
thân từ các rủi ro như cháy, nổ hoặc các tai nạn khác. Những người này thành
lập một hệ thống chia sẻ rủi ro giữa một số lượng lớn cá nhân có cùng chung
mối đe dọa, rủi ro. Trong giai đoạn đầu, tính chất tương hỗ được thể hiện thông
qua việc các cá nhân thỏa thuận chia sẻ các khoản chi phí xác định giữa họ khi
xảy ra rủi ro. Sau đó các tổ chức tương hỗ được hình thành với chức năng xác
lập các nguyên tắc và bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các thành viên của tổ
chức. Các tổ chức bảo hiểm tương hỗ có đặc thù là được thành lập, sở hữu và
kiểm soát bởi chính các thành viên của mình là bên mua bảo hiểm. Trong giai
đoạn phát triển ban đầu, các tổ chức bảo hiểm tương hỗ chịu trách nhiệm vô hạn
theo đó các thành viên cùng có nghĩa vụ chịu trách nhiệm đối với toàn bộ các
tổn thất và chi phí phát sinh. Tuy nhiên, cho đến nay, hầu hết các tổ chức bảo
hiểm tương hỗ được tổ chức dưới hình thức trách nhiệm hữu hạn.
Các công ty bảo hiểm tương hỗ đó hỡnh thành và phỏt triển phố biến khỏ
lõu ở Phỏp, Mỹ. Ở Phỏp, tiờu biểu cho việc hoạt động theo mô hỡnh “tổ chức
tương hỗ nông nghiệp” là Tập đoàn bảo hiểm Groupama. Đây là tập đoàn bảo
hiểm mạnh và có uy tín trong thị trường nông nghiệp của Pháp. Là tổ chức bảo
hiểm tương hỗ đầu tiên của Pháp, do những người nông dân Pháp xây dựng vào
cuối thế kỷ 19 nhằm phục vụ nhu cầu của chính mỡnh. Hiện nay, đồng thời với

việc củng cố vị trí là nhà bảo hiểm nông nghiệp hàng đầu, sau khi mua lại công
ty bảo hiểm GAN tháng 7-1998, Groupama đó trở thành cụng ty bảo hiểm tổng
hợp lớn thứ hai của thị trường Pháp và đứng đầu châu Âu về bảo hiểm nông
nghiệp.
Tại Mỹ, công ty bảo hiểm tương hỗ đầu tiên ở Mỹ được thành lập tại
thành phố Philadenphia (bang Pennsylvania) năm 1784 để kinh doanh bảo hiểm
cháy. Khi mới thành lập, các công ty bảo hiểm tương hỗ có nguồn gốc từ các
hợp tác xó và được tổ chức trên cơ sở các cộng đồng dân cư địa phương.
Cho đến trước khi cuộc công nghiệp hoá và thành thị hoá nông thôn diễn ra
mạnh mẽ trong nửa đầu thế kỷ 19, nhu cầu của công chúng đối với bảo hiểm
nhân thọ ở Mỹ cũn thấp. Cụng ty bảo hiểm nhõn thọ tương hỗ đầu tiên - Công
ty bảo hiểm nhân thọ tương hỗ New York bắt đầu hoạt động năm 1842 và sau
đó là một số công ty khác trong đó đáng chú ý là công ty bảo hiểm New York
Life được thành lập năm 1845.
Trong giai đoạn này, hỡnh thức bảo hiểm tương hỗ tỏ ra thụng dụng và
cạnh tranh với hỡnh thức cụng ty cổ phần trong việc cung cấp nguồn vốn dựa
trờn cơ sở rủi ro. Với cơ cấu tương hỗ, việc bồi thường tổn thất, thiệt hại được
phân bổ rộng rói hơn cho nhiều người so với các công ty bảo hiểm cổ phần do
một số ít người làm chủ. Nhờ đó, có thể làm giảm đáng kể rủi ro phát sinh khi
một công ty không thể đáp ứng nghĩa vụ bồi thường (Chẳng hạn, đám cháy
khủng khiếp ở New York năm 1835 đó khiến cho một số cụng ty bảo hiểm chỏy
được tổ chức dưới hỡnh thức cụng ty bảo hiểm cổ phần bị phỏ sản). Theo cỏch
núi hiện nay, cỏc cụng ty bảo hiểm tương hỗ của thế kỷ 18 thường hoạt động
với chi phí vốn nhỏ hơn và chịu rủi ro ít hơn.
Sự phỏt triển của cỏc loại hỡnh bảo hiểm tương hỗ cũng đó tạo ra vị thế
đỏng kể của loại hỡnh doanh nghiệp này trờn thị trường bảo hiểm Mỹ. Từ giữa
những năm 1920 đến năm 1960, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ tương hỗ đó
tăng thị phần của mỡnh trong khi cỏc cụng ty bảo hiểm cổ phần lại bị giảm thị
phần. Tớnh đến cuối những năm 1960, các công ty bảo hiểm tương hỗ chiếm
khoảng 30% tổng số phí bảo hiểm của toàn thị trường. Kể từ đó trở đó, thị phần

bảo hiểm Mỹ được chia theo tỷ lệ 30/70 giữa các công ty bảo hiểm tương hỗ và
các công ty bảo hiểm cổ phần.
Hiện nay, ở Mỹ có khoảng 1.000 công ty bảo hiểm tương hỗ hoạt động
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, tập hợp trong một tổ chức có
tên gọi “Hiệp hội các công ty bảo hiểm tương hỗ liên bang (NAMIC)”, được
thành lập năm 1895. Trong số đó có khoảng 700 công ty bảo hiểm tương hỗ
nông nghiệp, hoạt động chủ yếu trong phạm vi một địa hạt hành chính và chỉ
được phép cung cấp các sản phẩm bảo hiểm có liên quan đến sản xuất nông
nghiệp và phục vụ đời sống sinh hoạt ở nông thôn. Có khoảng 1/2 trong tổng số
thành viên của NAMIC có doanh thu phí bảo hiểm hàng năm dưới 15 triệu
USD.
Cùng với sự phát triển và nhu cầu bảo hiểm của nền kinh tế trong từng giai
đoạn, tổ chức bảo hiểm tương hỗ cũng có những thay đổi đỏng kể về hỡnh thức
phỏp lý: chuyển đổi từ hỡnh thức tương hỗ sang hỡnh thức cổ phần và ngược
lại. Cú thể thấy tỡnh trạng này khụng chỉ xảy ra ở Phỏp mà cũn khỏ phổ biến ở
Mỹ, nước cú loại hỡnh bảo hiểm tương hỗ phát triển rất mạnh.
Hiện nay các công ty bảo hiểm tương hỗ vẫn đang đó một vai trò quan
trọng trên toàn cầu. Theo tài liệu nghiên cứu về bảo hiểm tương hỗ của Swiss
Re năm 1999, 6 trong số 10 công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới (về tài sản) là
các công ty bảo hiểm tương hỗ. Tại 5 quốc gia có thị trường bảo hiểm lớn nhất
(chiếm 3/4 tổng số các giao dịch bảo hiểm trên toàn thế giới), trong năm 1997,
các công ty bảo hiểm tương hỗ chiếm khoảng 42% thị phần phí bảo hiểm.
72%
34.50%
24.50%
22%
15%
42%
0%
20%

40%
60%
80%
Thị phần tại 5 nước
Nhật
Mỹ
Anh
Đức
Pháp
Hình 1: Thị phần phí bảo hiểm của các công ty bảo hiểm tương hỗ năm 1997
Bên cạnh đó, tài liệu nghiên cứu của Swiss Re năm 1999 cũng cho thấy
trong giai đoạn 1995-1997, các công ty bảo hiểm tương hỗ trong lĩnh vực phi
nhân thọ có được mức độ an toàn tài chính cao hơn các công ty bảo hiểm cổ
phần trong khi vẫn duy trì được mức tỷ lệ chi phí thấp hơn. Tài liệu này cũng
chỉ rõ các công ty bảo hiểm tương hỗ hoạt động có hiệu quả tương tự như các
công ty bảo hiểm cổ phần khác.
Hình 2: Khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
giai đoạn 1995-1997
Hình 3: Tỷ lệ chi phí của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
giai đoạn 1995-1997

×