Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.74 KB, 29 trang )

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
CHIẾN LƯỢC
1.1 Khái quát về chiến lược phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.1 Quan niệm về chiến lược phát triển thương mại.
Khái niệm chiến lược được sử dụng khá phổ biến trong hầu hết các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế cả tầm vĩ mô và tầm vi mô: Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, chiến lược phát triển dân số, chiến lược phát triển khoa học công nghệ, chiến
lược phát triển ngành, chiến lược phát triển vùng kinh tế trọng điểm, chiến lược
bảo vệ môi trường, chiến lược kinh doanh, chiến lược tiêu thụ sản phẩm, chiến
lược cạnh tranh, chiến lược Marketing…
- Alfred Chandler (thuộc Đại học Harvard) cho rằng: Chiến lược phát triển bao
hàm việc ấn định các mục tiêu cơ bản dài hạn của một tổ chức, một ngành, một
lĩnh vực nhất định đồng thời lựa chọn cách thức hoặc tiến trình hành động và
phân bố các nguồn lực thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó trong khoảng thời
gian nhất định. Đây là một khái niệm được dùng phổ biến nhất hiện nay.
- Theo ông James. B. Quin (thuộc Đại học Dartmouth) : Chiến lược là một
dạng thức hoạc một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và các
trình tự hành động thành một tổng thể kết dính lại với nhau. Chiến lược là nghệ
thuật phối hợp các hành động và điều khiển chúng nhằm đạt được mục tiêu dài
hạn.
- Theo quan niểm của Alain Thretart thì chiến lược được xem như một nghệ
thuật mà người ta dùng để chống lại cạnh tranh giành thắng lợi, một nghệ thuật tạo
lập các lợi thế cạnh tranh.
- A.C.Martinet quan niệm rằng : Chiến lược là nhằm phác hoạ những quỹ đạo
tiến triển đủ vững chắc và lâu dài, chung quanh quỹ đạo đó có thể sắp đặt những
hành động chính xác để đạt tới mục tiêu.
- D.Bizzell và nhóm tác giả cho rằng: Chiến lược như là kế hoạch tổng quát
dẫn dắt và hướng một tổ chức, một doanh nghiệp, một ngành, một lĩnh vực đi đến
mục tiêu mong muốn. Nó là cơ sở cho việc định ra các chính sách và các thủ pháp
tác nghiệp.


- M.Porter cho rằng: Chiến lược là nghệ thuật xây dựng các lợi thế cạnh tranh
vững chắc để phòng thủ.
- Trong giáo trình nổi tiếng của Willam.J.Glueck (Búiness Policy and
Stratergic Management- New York: Mc Graw- Hill, 1980) thì chiến lược được coi
như một kế hoạch mang tính thống nhất, tính toàn diện và tính phối hợp, được thiết
kế để đảm bảo rằng các mục tiêu căn bản của một tổ chức được thực hiện.
- Giao trình Quản trịdoanh nghiệp thương mại do PGS.TS. NGUYỄN THỪA
LỘC chủ biên: “Chiến lược kinh doanh là định hướng hoạt động có mục tiêu của
doanh nghiệp cho một thời kỳ dài và hệ thống các chính sách, biện pháp điều kiện
để thực hiện các mục tiêu đề ra”
Tuy có nhều quan điểm khác nhau về chiến lược, nhưng các nhà nghiên cứu đều
thống nhất với nhau ở những đặc điểm và nội dung của chiến lược nói chung. Đó
là định hướng hoạt động cho một ngành, một lĩnh vực nào đó trong thời kỳ dài hạn,
với hệ thống các chương trình mục tiêu và hệ thống các giải pháp chiến lược,
nhằm huy động có hiệu quả mọi nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Từ những tư tương trên, chung ta có thể rút ra được quan điểm về chiến lược như
sau:
Chiến lược phát triển của một ngành, một lĩnh vực nhất định được hiểu là kết quả
của một quá trình nghiên cứu các môi trường hiện tại cũng như tương lai, nhằm
hoạch định hướng đi, nhằm phát triển của ngành của lĩnh vực trong một khoảng
thời gian khá dài, với mục tiêu, giải pháp chiến lược và các phương án cần đạt tới
cũng như các điều kiện cần thiết để có thể tổ chức thực hiện được các phương án
hiệu quả nhất trong điều kiện hiện nay cũng như tương lai.
Giữa chiến lược phát triển với kế hoạch và chính sách phát triển có sự khác nhau
cần phân biệt:
Môt là: Chién lược được phát triển biểu hiện tầm nhìn dài hạn về quan điểm, mục
tiêu, định hướng và giải pháp. Chiến lược định hướng cho kế hoạch.
Hai là: Đứng về mặt thời gian, chiến lược phát triển phải đi trước một bước so với
kế hoạch, chiến lược là cơ sở cho kế hoạch dài hạn và ngắn hạn. Kế hoạch được
xây dựng và tổ chức thực hiện trên cơ sở các mục tiêu của chiến lược.

Ba là: So với chính sách thì chiến lược phát triển có phạm vi rộng hơn, chính sách
là một công cụ để thực hiện chiến lược nhằm đạt tới mục tiêu của chiến lược phát
triển.
Chiến lược phát triển có những đặc trưng sau đây cần phải tính đến trong quá trình
xây dựng:
- Chiến lược phát triển không phải là một bản thuyết trình chung chung, mà nó
được thể hiện bằng những quan điểm mục tiêu phát triển cụ thể và giải pháp mang
tính chiến lược.
- Chiến lược phát triển phải bảo đảm các nguyên tắc: định hướng, lựa chọn, khoa
học và thực tiễn.
- Chiến lược phát triển không vạch ra một cách cụ thể làm thế nào để đạt được mục
tiêu mà chỉ ra hướng phát triển của ngành, của đơn vị với những giải pháp chiến
lược cho một khoảng thời gian dài hoặc tương đối dài (thường là 10 năm trở lên).
1.1.2 Hệ thống chiến lược phát triển thương mại trong nền kinh tế quốc dân.
Là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển
thương mại mang đầy đủ những đặc tính chung của một chiến lược như: tính định
hướng, tính lựa chọn, tính khoa học và tính thực tiễn. Song hoạt động trong lĩnh
vực lưu thông hàng hoá, chiến lược phát triển thương mại trước hết là chiến lược
cấp ngành, định hướng cho sự phát triển của thương mại.
Thương mại hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị
trường, đó là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
thu được lợi nhuận, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá. Thương mại ra
đời do sự phân công lao động xã hội và gắn liền với quá trình tái sản xuất xã hội.
Ngành thương mại là ngành độc lập có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Thương mại có những chức năng nhiệm vụ như sau: Tổ chức quá trình
lưu thông hàng hoá dịch vụ trong nước với nước ngoài, tiếp tục quá trình sản xuất
trong khâu lưu thông, thực hiện giá trị của hàng hoá - dịch vụ, đồng thời đáp ứng
tốt mọi nhu cầu của sản xuất kinh doanh và đời sống. Do đó chiến lược phát triển
thương mại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá -
dịch vụ của một quốc gia trong một khoảng thời gian tương đối dài. Để có hướng

đi và bước đi thích hợp cho sự phát triển của thương mại, thì bất kể trong phạm vi
toàn nền kinh tế quốc dân hay phạm vi một doanh nghiệp, chiến lược phát triển
thương mại cũng phải thể hiện được các mục tiêu của mình. Bên cạnh hệ thống
mục tiêu phải có, thì điều quan trọng hơn của chiến lược chính là các giải pháp,
biện pháp nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực để đạt được mục tiêu phát triển.
Qua những phân tích trên cho thấy rõ bản chất của chiến lược phát triển thương
mại:
Chiến lược phát triển thương mại là định hướng cho sự phát triển của thương mại
trong một thời kỳ dài hoặc tương đối dài với các quan điẻm, mục tiêu và các giải
pháp chủ yếu nhằm huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nhằm
đẩy mạnh phát triển thương mại với nhịp độ ngày càng cao.
Theo quy mô và phạm vi hoạt động thương mại khác nhau, hình thành các loại
chiến lược phát triển thương mại khác nhau trong nền kinh tế quốc dân như:
- Chiến lược phát triển thương mại chung cả nước.
Chiến lược này do Bộ Thương Mại xây dựng và do Chính phủ phê duyệt, thể hiện
những quan điểm phát triển chung của các ngành thương mại, những mục tiêu tổng
quát và các giải pháp chiến lược ở các cấp vĩ mô. Chiến lược phát triển chung ở
tầm quốc gia bao gồm chiến lược phát triển thương mại nội địa và chiến lược phát
triển xuất nhập khẩu.
- Chiến lược phát triển thương mại vùng lãnh thổ.
Đây là bộ phận rất quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế vùng lãnh thổ do
Bộ kế hoạch đầu tư và Bộ Thương mại và các địa phương thuộc vùng lãnh thổ phối
hợp nghiên cứu xây dựng. Chiến lược này dựa vào định hướng chung về phát triển
kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ và chiến lược phát triển thương mại của cả nước
trên cơ sở khai thác những lợi thế của vùng để xây dựng.
- chiến lược phát triển thương mại của tỉnh, thành phố.
Chiến lược phát triển của Tỉnh, Thành phố là do Sở Thương mại của Tỉnh,
Thành phố đó nghiên cứu, xây dựng và được chủ tịch Tỉnh phê duyệt. Chiến lược
này là bộ phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, thành phố.
- Chiến lược phát triển thương mại của doanh nghiệp.

Chiến lược này do chính doanh nghiệp xây dựng và tổ chức thực hiện. Nó xác
định rõ mục đích, hướng đi của doanh nghiệp, mặt khác nó cũng bao gồm các giải
pháp cơ bản để đạt được mục tiêu chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3 Vai trò và những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển thương mại
trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.3.1 Vai trò của chiến lược phát triển thương mại.
A: Vai trò của thương mại trong nền kinh tế quốc dân:
Thương mại có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập:
- Tạo điều kiện cơ bản cần thiết cho sản xuất và thúc đẩy hoạt động sản xuất của
vùng lãnh thổ.
Hoạt động thương mại cung cấp dịch vụ và các yếu tố đầu vào của sản xuất, đảm
bảo cho các quá trình sản xuất và tái sản xuất có thể diễn ra thường xuyên, liên tục.
Như việc cung cấp vật tư, phân bón, giống cho sản xuất nông – lâm nghiệp hoặc
nguyên liệu, phương tiện và thiết bị công nghệ - kỹ thuật cho các hoạt động sản
xuất kinh doanh của vùng lãnh thổ.
Đảm bảo đầu ra của sản xuất kinh doanh như bảo quản cất giữ, vận chuyển và tiêu
thụ sản phẩm, hàng hoá của vùng. Đồng thời phục vụ cho các hoạt động giao lưu,
trao đổi hàng hoá nói chung.
Sự tác động tổng hợp và đồng bộ của hoạt động thương mại trong việc cung cấp
dịch vụ đầu vào, đầu ra của sản xuất không chỉ đảm bảo hoạt động sản xuất kinh
doanh trong vùng diễn ra một cách thuận lợi và không bị ách tắc mà còn dẫn tới sự
tăng cường và mở rộng của hoạt động sản xuất kinh doanh với quy mô, năng suất
và hiệu quả cao hơn.
Trong điều kiện công nghiệp hoá và cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại thì vai
trò của thương mại trong vùng lãnh thổ cũng trở nên quan trọng hợn. Chúng vừa là
tiền đề vừa là cầu nối cho việc triển khai các thành tựu khoa học - kỹ thuật và công
nghệ hiện đại. Điều đó không những làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của vùng mà còn dẫn tới những thay đổi trong cơ cấu, tính chất và
trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội ở vùng lãnh thổ.
- Tác động mạnh mẽ và tích cực đến quá trình thay đổi cơ cấu sản xuất và chuyển

dich cơ cấu kinh tế - xã hội.
Thông qua việc đảm bảo các điều kiện cơ bản cần thiết cho sản xuất và thúc đẩy
sản xuất phát triển thì thương mại cũng đồng thời tác động mạnh mẽ đến quá trình
làm thay đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế - xã hội của vùng.
Trước hết việc mở rộng hoạt động thương mại, không chỉ tạo điều kiện cho việc
thâm canh mở rộng diện tích và tăng năng suất sản lượng cây trồng mà còn dẫn tới
quá trình đa dạng hoá nền nông nghiệp, với những thay đổi rất lớn về cơ cấu sử
dụng đất đai, mùa vụ, cơ cấu các loại cây trồng cũng như cơ cấu lao động và sự
phân bố các nguồn lực khác trong nông nghiệp của vùng.
Ở phần lớn các nước nông nghiệp lạc hậu hoặc trong dai đoạn đầu quá độ
nông, công nghiệp. Trong điều kiện có sự tác động của thị trường nói chung các
loại cây trồng và vật nuôi có giá trị cao hơn đã thay thế cho các loại có giá trị thấp
hơn. Đây cũng là thực tế đang diễn ra trên nhiều vùng lãnh thổ ở nước CHDCND
Lào hiện nay.
Hai là thương mại tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực
sản xuất khác (ngoài nông nghiệp) như công nghiệp, tiêu thụ công nghiệp, khai
thác, chế biến, vận tải. Hoạt động thương mại tạo điều kiện cho thị trường đầu vào
và đầu ra của các lĩnh vực hoạt động trên được bảo đảm tốt hơn. Thông qua hoạt
động xuất nhập khẩu cho phép nhiều cơ sở sản xuất, dịch vụ đổi mới công nghệ kỹ
thuật, mở rộng qui mô và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do vậy nguồn
vốn, vật tư, lao động đầu tư vào lĩnh vực phi công nghiệp cũng như thu nhập từ các
hoạt động này ngày càng gia tăng. Mặt khác trong quá trình hoạt động kết cấu hạ
tầng cơ sở kinh doanh cũng đòi hỏi phải đầu tư ngày càng nhiều để đảm bảo cho
hoạt động thương mại được thông suất. Tất cả những tác động đó dẫn tới sự thay
đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế của vùng. Trong đó sự dịch chuyển theo xu hướng
công nghiệp hoá thể hiện khá rõ nét và phổ biến.
- Tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường vùng, thúc đẩy sản xuất và lưu thông
hàng hoá phát triển.
Trong khi cung cấp các yếu tố đầu vào và tổ chức tốt đầu ra cho sản xuất trong
vùng thì thương mại cũng đồng thời làm quan hệ giao lưu, trao đổi trong vùng

được mở rộng.
Sự phát triển của hệ thống chợ, trung tâm thương mại và mạng lưới thương
nghiệp làm cho khả năng trao đổi thực tế của hàng hoá tăng lên. Một mặt sản phẩm
từ các cơ sở sản xuất của vùng có thể nhanh chóng đưa ra thị trường. Mặt khác các
loại vật tư, nguyên liệu, hàng công nghiệp, hàng tiêu dùng ở các vùng khác nhau có
điều kiện thuận lợi hơn sẽ vươn tới làm thay đổi tập quán và nhu cầu tiêu dùng của
dân cư trong vùng.
Tóm lại vai trò thương mại trong hệ thống kinh tế - xã hội của vùng lãnh thổ nói
riêng và của cả nước nói chung là hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự
tăng trưởng kinh tế và phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội. Vai trò của chúng
cũng thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn trong điều kiện công nghiệp hoá, chuyển nền
kinh tế sản xuất nhỏ sang sản xuất hàng hoá và kinh tế thị trường.
B. Vai trò của chiến lược phát triển thương mại:
- Giúp cho tỉnh, thành phố thấy được mục tiêu hướng đi của lĩnh vực thương mại
trên địa bàn trong khoảng thời gian dài. Thông qua chiến lược phát triển thương
mại các cấp, các ngành, cũng như các doanh nghiệp thương mại nắm vững được
mình cần phải làm gì để thành công và khi nào thì đạt được mục tiêu đã định. Như
vậy chiến lược phát triển thương mại được ví như con đường, những ngọn hải đăng
dẫn dắt các chủ thể quản lý và các nhà kinh doanh thương mại không bị lạc hướng
trong hoạt động của mình trong một phạm vi tương đối rộng với một khoảng thời
gian tương đối dài.
- Chiến lược thương mại sẽ loại trừ được ở mức độ nào đó những bất trắc, những
thay đổi lớn, những mạo hiểm cao trong lĩnh vực thương mại.
Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, môi trường thương mại luôn luôn biến
đổi một cách nhanh chóng do tác động của nhiều yếu tố như: Kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, phong tục tập quán cho đến điều kiện tự nhiên… Điều đó dẫn đến hai
xu hướng khác nhau, một là có thể tạo ra những cơ hội quý báu cho các doanh
nghiệp phát triển nhanh chóng và có hiệu quả, mặt khác cũng có thể tạo ra nguy cơ
phá sản cho các doanh nghiệp hoặc thiệt hại to lớn cho quá trình phát triển thương
mại. Chiến lược thương mại một khi mang tính khoa học và thực tiễn cao sẽ giúp

cho chúng ta tận dụng được tối đa khi cơ hội xuất hiện và giảm bớt đến mức tối
thiểu những tổn thất rủi ro cho sự phát triển của thương mại. Thực tế nhiều công
trình nghiên cứu cho thấy ở đâu xây dựng được chiến lực đúng đắn thì ở đó thường
đạt được kết quả tốt hơn nhiều so với khi không có chiến lược. Nhờ có chiến lược
mà vấn đề cơ cấu lại sản xuất, đầu tư và phân bố nguồn lực ít bị rủi ro hơn và nguy
cơ phá sản cũng được giảm bớt. Do chuẩn bị tốt các điều kiện từ trước, nên một
khi cơ hội xuất hiện thì khả năng cạnh tranh sẽ tốt hơn so với khi chưa có chuẩn bị.
Đồng thời khi xây dựng và thực hiện chiến lược, người ta có thể chủ động tạo ra
các điều kiện để thời cơ xuất hiện và sử dụng chúng để đạt được mục tiêu.
- Giúp cho các nhà quản lý thương mại chủ động thích nghi được với môi trường
kinh doanh.
Trong kinh tế thị trường, môi trường trong và ngoài nước thường xuyên biến động.
Những thay đổi nhanh chóng của thị trường sẽ tạo ra các cơ hội và nguy cơ cho
hoạt động thương mại. Chiến lược phát triển thương mại giúp cho các nhà quản lý
vĩ mô chủ động nhận biết trước các thách thức và cơ hội. Mặt khác cùng với việc
xây dựng và từng bước hoàn thiện chiến lược phát triển thương mại sẽ giúp cho
các tỉnh, thành phố và các doanh nghiệp gắn được các quyết định của mình với các
điều kiện môi trường có liên quan.
Thực tế chứng minh rằng, sự biến động và tính đa dạng phức tạp của môi trường
kinh doanh thương mại ngày càng gia tăng theo sự phát triển của nền kinh tế. Điều
đó hơn bao giờ hết đòi hỏi phải có được một chiến lược phát triển thương mại tối
ưu để chủ động đưa ra các quyết định đối phó với từng môi trường kinh doanh, làm
chủ diễn biến tình hình, nâng cao hiệu quả và quản lý kinh doanh thương mại.
- Tạo điều kiện để mọi nguồn tiềm ẩn được sử dụng và phát huy trong quá trình
phát triển kinh tế đất nước.
Những nguồn lực bên trong và bên ngoài của các vùng cũng như bên trọng và bên
ngoài ngành thương mại được khai thác tận dụng có hiệu quả hơn. Vì chiến lược sẽ
chỉ rõ khi nào sẽ tập trung các nguồn lực, tích luỹ các nguồn lực ra sao và phân bổ
như thế nào là hợp lý. Sự cân đối giữa nhu cầu và khả năng nguồn lực trong một
khoảng thời gian tương đối dài sẽ cho phép chủ động sử dụng hoặc đầu tư tạo

nguồn lực mới trong tương lai.
- Là một trong những căn cứu khoa học để xây dựng và thực hiện các chính sách,
biện pháp quản lý hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh, thành phố và của cả
nước:
Những điều kiện về môi trường thường xuyên thay đổi sẽ đưa đến những diễn
biến phức tạp của hoạt động thương trong tương lai, thông qua chiến lược các cơ
quan quản lý vĩ mô về thương mại có thể chủ động được với các quyết sách của
mình. Những chủ trương, chính sách, biện pháp được chủ động dựa trên những dự
báo dài hạn sẽ làm cho thay đổi các điều kiện để thực hiện các mục tiêu đề ra.
Đồng thời nhờ dự báo chiến lược, các nhà quản lý và hoạch định chính sách
thương mại sẽ tìm ra được các phương án lựa chọn của mình bằng cách tránh
những bất lợi rủi ro đã dự báo trước và chuẩn bị tốt hơn để tận dụng được cơ hội
tiềm tàng khi xuất hiện. Những dụ báo và định hướng dài hạn trong chiến lược phát
triển thương mại là cơ sở khoa học cho các chủ trương, chính sách và biện pháp
phát triển thương mại.
- Tạo điều kiện làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá,
năng động, có hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội:
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế trên đây, trong quá trình xây dựng và thực
thi chiến lược cũng cần phải chú ý đến những hạn chế của chiến lược để có biện
pháp khác phục.
+ Một trong những hạn chế chủ yếu là để xây dựng chiến lược cần phải có
nhiều thời gian và kinh phí. Tuy nhiên khi đã có kinh nghiệm về quá trình xây
dựng chiến lược thì thời gian sẽ được giảm bớt, chi phí sẽ được tiết kiệm hơn.
Do đó khâu chuẩn bị cho hoạch định chiến lược có vai trò đặc biệt quan trọng.
+ Chiến lược sau khi được xây dựng, được phê duyệt nếu không có sự sửa đổi
cho phù hợp với tình hình mới sẽ trở thành vật cản cho sự phát triển của thương
mại. Thật vậy, coi chiến lược như một sự bất di, bất dịch với những chỉ tiêu
cứng nhắc là một sai lầm nghiêm trọng. Bởi vì chiến lược không thể bất di, bất
dịch khi điều kiện môi trường thường xuyên biến đổi và tình thế bắt buộc phải
điều chỉnh mục tiêu hoặc xây dựng mục tiêu mới. Coi chiến lược là bất biến mà

không tính đến thực tế khi triển khai chiến lược sẽ là giáo điều và dẫn tới những
hậu quả tai hại.
+ Hạn chế thứ ba là khả năng sai sót trong dự báo dài hạn đôi khi có thể rất lớn.
Những cơ sở cho dự báo có khi không chính xác; hoặc sử dụng những biện
pháp dự báo thiếu khoa học, không đúng đắn; trình độ và năng lực của những
người làm chiến lược còn bị hạn chế.
1.1.3.2 Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển thương mại.
1.1.3.2.1. Hệ thống quan điểm trong chiến lược thương mại:
Quan điểm phát triển thương mại có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực
tiễn vì đó là cơ sở cho sự thống nhất về tư tưởng và hành động, chi phối cả mục
tiêu, định hướng và giải pháp chiến lược. Chính nhờ hệ thống quan điểm trong
chiến lược phát triển thương mại đã tạo ra cơ sở cho sự thống nhất về ý chí và hành
động của mọi ngành mọi cấp, mọi đơn vị kinh tế trong nước. Các quan điểm phát
triển thương mại đúng đắn sẽ là phương châm cho việc xây dựng các chính sách,
các giải pháp, biện pháp phát triển thương mại. Qua đó tập trung mọi nỗ lực theo
một hướng xác định nhằm đạt được mục tiêu trong xây dựng và thực hiện chiến
lược phát triển thương mại của cả nước.

×