Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tai Ngân hàng InComBank Thanh Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.18 KB, 78 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay xu thế toàn cầu hoá,quốc tế hoá đang trở thành xu hướng chủ
đạo chi phối mọi hoạt động kinh tế thế giới.Qua đó đang xoá dần đi cách biệt về
không gian,thời gian trong nền kinh tế. Điều này khiến sự cạnh tranh trở nên ngày
càng gay gắt trong mọi lĩnh vực.Sự cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính thì còn
quyết liệt hơn.Việc các tổ chức tài chính phi ngân hàng ngày nay cũng đang tích
cực tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ của ngân hàng khiến cho các ngân
hàng gặp nhiều khó khăn, để tồn tại các ngân hàng không ngừng mở rộng và nâng
cao chất lượng phục vụ.
Thẩm định tài chính dự án là một nghiệp vụ vô cùng quan trọng đối với
các ngân hàng thương mại.Kết quả của quá trình thẩm định dự án cho vay sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyết định có cho các doanh nghiệp vay vốn hay không,nó sẽ
ảnh hưởng đến quá trình đầu tư của doanh nghiệp,từ đó cũng sẽ ảnh hưởng đến
sự phát triển của nền kinh tế.
Ngay khi Việt Nam vừa bước chân vào cánh cửa WTO,thì đã có hàng
loạt các dự án,hàng loạt kế hoạch được vạch ra nhằm đưa Việt Nam tiến một
bước dài về kinh tế.Các doanh nghiệp thì luôn muốn mở rộng sản xuất nhưng
không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ năng lực về tài chính,vì thế trong một
nền kinh tế phát triển mạnh mẽ như nước ta hiện nay,việc sử dụng đòn bẩy kinh
tế sẽ làm tăng hiệu quả của việc sử dụng vốn.
Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thì công tác thẩm
định tài chính dự án vẫn còn là khá mới mẻ.Mặc dù những năm gần đây,công tác
này đã được quan tâm hơn trước rất nhiều nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
của thực tế.
Là một sinh viên được đào tạo theo chuyên ngành Ngân hàng-Tài
chính,em nhận thấy việc nghiên cứu công tác thẩm định tài chính dự án trong cho
vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vô cùng cần thiết nhằm đáp ứng được
yêu cầu của nền kinh tế.Chính vì vậy,sau một thời gian thực tập tại chi nhánh
ngân hàng Công Thương Thanh Xuân,em đã tìm hiểu về công tác thẩm định tài
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A


1
chính dự án và nhận thấy vai trò rất quan trọng của công tác này.Chính vì những
lý do đó mà em đã quyết định lựa chọn đề tài :
“ Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tai Ngân hàng InComBank Thanh Xuân “.
Nội dung của báo cáo chuyên đề bao gồm :
Chương I : Những vấn đề cơ bản về thẩm định tài chính dự án trong cho
vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ngân hàng thương mại
Chương II : Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho
vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng Incombank Thanh Xuân.
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong cho vay đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Incombank Thanh Xuân.
Do thời gian còn hạn hẹp,cũng như kinh nghiệm còn ít nên bài viết của
em còn có những thiếu xót.Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của
thày giáo. PGS Đàm Văn Huệ cùng sự giúp đỡ của các anh chị trong phòng
khách hàng doanh nghiệp ngân hàng Incombank Thanh Xuân, đã tạo điều kiện
cho em hoàn thành bài viết này.Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
2
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THẨM ĐỊNH T I CH NHÀ Í
DỰ N TRONG CHO VAY Á ĐỐI VỚI C C DOANH NGHIÁ ỆP VỪA VÀ
NHỎ CỦA NG N H NG THÂ À ƯƠNG MẠI.
1.1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Như chúng ta đều biết Ngân hàng là một tổ chức có lịch sử hình thành từ
rất lâu đời (vào khoảng thế kỷ thứ 15).Sự hình thành của Ngân hàng là kết quả tất
yếu của sự phát triển trao đổi mua bán giữa các vùng,làm nảy sinh các nhu cầu
trực tiếp như gửi tiền, đổi tiền,giữ hộ tiền và vay vốn…Kể từ khi ra đời cho đến
nay,các ngân hàng không ngừng phát triển và nhanh chóng trở thành một trong
các tổ chức tài chính quan trọng hàng đầu của nền kinh tế,ngân hàng có rất nhiều

loại,tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống tài chính.Tuy
nhiên,một loịa ngân hàng hiện đang có số lượng lớn nhất và có vị trí vô cùng
quan trọng, đóng góp trực tiếp vào sự phát triển của nền kinh tế đó là ngân hàng
thương mại. Để có thể hiểu về ngân hàng thương mại,ta xem xét một số khái
niệm :
• Theo luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng của Việt Nam
“Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính
chất và mục tiêu hoạt động,các loại ngân hình ngân hàng gồm ngân hàng thương
mại,ngân hàng phát triển,ngân hàng đầu tư,ngân hàng chính sách,ngân hàng hợp
tác và loại hình ngân hàng khác.”
• Theo các nhà kinh tế học hiện đại :
“Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp”nhưng là một doanh nghiệp đặc
biệt vì chu trình của nó là T-T (T’=T+Δt) nghĩa là tiền “đẻ” ra tiền thay vì chu
trình của một doanh nghiệp thông thường là T-H-T’”.
“Ngân hàng thương mại là các rổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng,tiết kiệm,dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế”
1.1.2.Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại :
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
3
Theo điều 49 luật các tổ chức tín dụng, “tổ chức tín dụng được cấp tín dụng
cho các tổ chức,cá nhân dưới các hình thức : cho vay,chiết khấu thương phiếu và
giấy tờ có giá khác,bảo lãnh,cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy
định của ngân hàng nhà nước”.Như vậy,ta thấy hoạt động tín dụng bao gồm rất
nhiều nghiệp vụ, đây chính là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chính cho mỗi
ngân hàng.Nhưng nó cũng có tính rủi ro rất cao,rủi ro có thể xuất phát từ nhiều
phía như: ngân hàng,khách hàng,môi trường khách quan…Và như ta biết, rủi ro
trong hoạt động ngân hàng có hậu quả rất lớn,nhẹ thì có thể gây tổn thất cho

chính ngân hàng,còn nặng thì có thể gây sụp đổ ngân hàng và khủng hoảng dây
truyền đối với các ngân hàng khác,gây tác động xấu cho nền kinh tế.Chính vì
vậy,các biện pháp đảm bảo an toàn tín dụng nói riêng và an toàn hoạt động nói
chung luôn được các ngân hàng đặt lên hàng đầu.Ngay trong văn bản pháp luật
của nhà nước cũng có những điều khoản nhằm phòng tránh rủi ro như :
• Các ngân hàng thương mại chỉ được đầu tư đối đa 30% vốn tự có và phải
nhỏ hơn 10% tổng nguồn vốn.
• Không được cho vay đối với 1 khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của
ngân hàng
Ngoài ra còn nhiều quy định khác về quy trình phân tích tín dụng,cấp tín dụng
và theo dõi tín dụng…
• Hoạt động cho vay đối với dự án đầu tư :
Như đã trình bày ở trên,nội dung hoạt động tín dụng bao gồm nhiều nghiệp
vụ,trong đó có nghiệp vụ cho vay. Đây là một trong các nghiệp vụ kinh doanh cở
bản nhất của mỗi ngân hàng thương mại,thông qua nghiệp vụ này,các ngân hàng
thương mại đã trực tiếp hỗ trợ cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh,nâng cao
năng suất lao động và thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế. Đồng thời,về
phía các ngân hàng thì nghiệp vụ này cũng chính là nguồn tạo ra thu nhập ổn định
và rất lớn, đóng góp vào sự tăng trưởng của ngân hàng.Ngày nay,với sự phát triển
của nền kinh tế,hoạt động cho vay đã đa dạng hơn rất nhiều,nhằm đáp ứng một
cách linh hoạt các nhu cầu của khách hàng.Ta có thể kể ra một số hình thức cho
vay :
• Theo thời gian : cho vay ngắn hạn,trung và dai hạn.
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
4
• Theo mục đích vay vốn : cho vay theo dự án đầu tư,cho vay tiêu dùng…
• Theo tài sản đảm bảo : cho vay có tài sản đảm bảo,cho vay không có tài
sản đảm bảo…
Để phục vụ cho việc nghiên cứu,ta sẽ tìm hiểu hoạt động cho vay theo dự án
đầu tư.

Như ta đã biết, đối với mỗi doanh nghiệp thì nhu cầu đầu tư là một hoạt động
diễn ra thường xuyên,nó góp phần nâng cao năng suất lao động hay mở rộng sản
xuất,nhằm làm gia tăng giá trị vốn chủ sở hữu.Tuy nhiên,trên thực tế không phải
bất cứ khi nào doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư đều sẵn vốn để thực hiện,một
trong các nguồn mà doanh nghiệp thường xuyên sử dụng và khá quen thuộc đó là
nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại.Khi các doanh nghiệp đến vay
vốn,ngân hàng thương mại thường yêu cầu các doanh nghiệp phải xây dựng các
dự án,thể hiện mục đích,kế hoạch đầu tư và tiến trình thực hiện cụ thể. Đồng thời
các ngân hàng cũng phải thẩm định dự án mà doanh nghiệp đưa ra nhằm xác
minh và khẳng định tính hiệu quả của dự án.Quá trình này ngày càng được các
ngân hàng chuẩn hóa và xây dựng thành các phương pháp,quy trình cụ thể. Điều
này vừa đảm bảo tính khoa học trong công tác thẩm định vừa tránh được các sai
sót do yếu tố chủ quan gây nên,làm ảnh hưởng đến tính an toàn của nguồn vốn
cho vay.
1.2. Cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân Hàng thương mại
1.2.1. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
1.2.1.1. Khái niệm
Trong nền kinh tế hiện đại,khi nói đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói
đến cách phân loại doanh nghiệp dựa trên độ lớn hay quy mô của doanh
nghiệp.Việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) phụ thuộc vào tiêu
thức sử dụng quy định giới hạn các tiêu thức phân loại quy mô doanh nghiệp.Có
thể hiểu DNVVN theo nghĩa như sau:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
pháp nhân vì mục đích lợi nhuận có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
5
nhất định theo các tiêu thức vốn,lao động,doanh thu,giá trị gia tăng thu được
trong những thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
Như vậy,có thể nhận thấy một số tiêu thức chung,phổ biến nhất thường
xuyên được sử dụng để phân loại các doanh nghiệp đó là:

• Số lao động thường xuyên
• Vốn sản xuất
• Doanh thu
• Lợi nhuận
• Giá trị gia tăng
Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu
vào,còn tiêu thức về doanh thu,lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh vào quy mô
theo kết quả đầu ra.Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng.Như
vậy, để phân loại DNVVN có thể dung các yếu tố đầu vào hoặc đầu ra của doanh
nghiệp,hoặc là sự kết hợp của cả hai loại yếu tố đó.
Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại DNVVN ở các nước trên thế giới
có những đặc điểm chủ yếu sau :
• Các nước dùng tiêu thức khác nhau.Trong số các tiêu thức đó,hai tiêu
thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao
động.Tiêu thức đầu ra được ít nước sử dụng hơn
• Số lượng tiêu thức sử dụng để phân loại cũng không giống nhau.Có
nước chỉ dùng một tiêu thức nhưng cũng có nhiều nước sử dụng đồng thời hai
hoặc nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN
• Lượng hoá các tiêu thức này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở
các nước khác nhau không giống nhau. Độ lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ
thuộc vào trình độ,hoàn cảnh, điều kiện phát triển kinh tế , định hướng chính sách
và khả năng trợ giúp cho các DNVVN của mỗi nước. Điều này làm cho số lượng
các DNVVN có thể rất lớn hoặc nhỏ tùy theo giới hạn độ lớn khối lượng vốn và
lao động sử dụng ở mỗi nước.
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
6
• Khái niệm DNVVN mang tính tương đối,nó thay đổi theo từng giai đoạn
phát triển kinh tế-xã hội nhất định và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã
hội của từng nước,từng thời kỳ cụ thể,từng nghành nghề khác nhau….
• Từng thời kỳ,các tiêu thức và tiêu chuẩn giới hạn lại có sự thay đổi cho

phù hợp đường lối,chính sách,chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc
gia.Những tiêu thức phân loại DNVVN được dùng làm căn cứ thiết lập những
chính sách phát triển,hỗ trợ DNVVN của các Chính phủ.
Từ những phân tích khìa niệm chung về DNVVN,các tiêu thức và giới hạn
tiêu chuẩn,tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới,kết hợp
với điều kiện cụ thể,những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát triển kinh tế
nhiều thành phần và các chính sách,quy định phát triển kinh tế của nước ta.Chúng
ta có thể nêu ra khái niệm như sau :
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất-kinh doanh
có tư cách pháp nhân,không phân biệt thành phần kinh tế,có quy định về vốn
hoặc lao động thoả mãn các quy định của Chính Phủ đối với từng nghành nghề
tương ứng với từng thời ký phát triển của nền kinh tế.
Theo nghị định 90 ngày 23/11/2001 : “ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở
sản xuất,kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành,có
vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hang năm không
quá 300 người. “ (Căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của nghành, địa
phương,trong quá trình thực hiện các biện pháp chương trình trợ giúp có thể linh
hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu
nói trên )
1. 2.1.2. Các đặc điểm của Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Hiện nay ở nước ta,các DNVVNchiếm hơn 96% tổng số doanh nghiệp hiện
có trên cả nước.Các DNVVN đang hoạt động trong môi trường kinh tế chưa hoàn
toàn thuận lợi cả tầm vĩ mô và vi mô.Các doanh nghiệp chủ yếu gặp phải khó
khăn về công nghệ sản xuất kinh doanh,mô hình quản lý,tiến độ, kỹ năng của đội
ngũ lãnh đạo và tay nghề của người lao động,phương thức tiếp thị sản phẩm, đặc
biệt là sự hạn chế về tiếp cận thông tin và dịch vụ tài chính,vốn đầu tư….Có thể
nhận thấy rất rõ đặc điểm chủ yếu của các DNVVN ở Việt Nam như sau :
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
7
Thứ nhất, năng lực ứng dụng công nghệ trong sản xuất,kinh doanh và quản

lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam còn yếu.
Để có thể thành công trong một nền kinh tế cạnh tranh cao độ như hiện
nay,các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi công nghệ,máy móc,thiết
bị,các phương pháp,bí quyết sản xuất.Thế nhưng,hầu hết công nghệ đang được sử
dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay lại chủ yếu là công
nghệ đã lạc hâu,lỗi thời,chủ yếu là đồ phế phẩm của các nước phát triển.Chính vì
thế mà sản phẩm,chất lượng cũng như uy tín hay thương hiệu đều không đảm bảo
chất lượng quốc tế và khó có thể cạnh trạnh được với những doanh nghiệp nước
ngoài và có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, nói đến DNVVN ở Việt Nam trước tiên và chủ yếu là nói đến các
doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh.Do tính lịch sử của quá trình hình
thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta, đại bộ phận các
DNVVN,theo quy định hiện hành của Thủ tướng Chính phủ đều thuộc khu vực
ngoài quốc doanh.Bởi vậy, đặc điểm và tính chất của các doanh nghiệp thuộc khu
vực này mang tính đại diện cho DNVVN ở Việt Nam.
Thứ ba, DNVVN Việt Nam khó tiếp cận dịch vụ Ngân hang.Có thể nói,hầu
hết các dịch vụ Ngân hang(huy động vố,dịch vụ cho vay, đầu tư,thanh toán,bảo
lãnh,cho thuê tài chính,tư vấn,quản lý tài sản…) đã đến với cộng đồng các doanh
nghiệp.Tuy nhiên,khó khăn lớn nhất,bức xúc nhất của các DNVVN hiện nay vẫn
là thiếu vốn bởi năng lực vốn nội tại của các doanh nghiệp này hạn chế trong khi
tiếp cận vốn Ngân hang còn gặp rất nhiều rào cản.Các DNVVN có tính tự chủ
cao nhưng quy mô thấp. Ở các doanh nghiệp này,chủ sở hữu cũng thường là
ngừơi quản lý.Họ phải tự bươn trải để duy trì và phát triển đồng vốn của mình.Do
vậy,ngừơi quản lý doanh nghiệp thường rất nỗ lực trong kinh doanh.
Thứ tư, lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng và phong phú.Các
doanh nghiệp này thâm nhập hoạt động vào rất nhiều ngành nghề kinh tế như
thương mại dịch vụ,sản xuất,gia công chế biến….Nhờ vậy,việc mở rộng tín dụng
cho các doanh nghiệp này sẽ giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro hoặc gây biến
động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.Do quy mô nhỏ
bé,nên khi diễn biến thị trường bất lợi,một chủ doanh nghiệp nhanh nhậy sẽ dễ

dàng chuyển hướng kinh doanh mới có lợi.Tuy nhiên,nhìn dưới giác độ khác,tính
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
8
chất “đa dạng,phong phú” lại trở thành “ nhỏ lẻ manh mún”.Có những doanh
nghiệp mà danh mục các hoạt động đăng ký kinh doanh gồm đến hàng chục
khoản mục từ xuất nhập khẩu,cung cấp dịch vụ thiết kế,tư vấn,…nên tính chuyên
nghiệp không cao.Không ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định hướng
lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà hoạt động chạy theo thương vụ,thường
xuyên thay đổi cơ cấu mặt hàng,sản phẩm,dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp
nhiều về chủng loại nhưng không lớn về số lượng.
1.2.2. Cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân Hàng thương mại
.
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của một Ngân hàng
thương mại,nó tạo ra thu nhập từ lãi lớn nhất song cũng là hoạt động mạng lại
nhiều rủi ro nhất.Tín dụng thực chất là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách
hàng, đặc biệt là đối với các DNVVN.
Với một doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn là điều mà bất cứ một doanh nghiệp
nào cũng đặc biệt quan tâm,bởi lẽ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng sản
xuất,duy trì và phát triển doanh nghiệp. Để có được một nguồn vốn lớn,doanh
nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là đi vay từ các tổ chức tín dụng. Đối với một ngân
hàng thương mại,thì việc cho vay đối với các DNVVN là một vấn đề hết sức
quan trọng,vì đó là nguồn thu nhập chủ yếu của ngân hàng và đó cũng sẽ tiềm ẩn
rất nhiều rủi ro đối với ngân hàng.
Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với các DNVVN là
hoạt động diễn ra thường xuyên.Hiện nay,số lượng DNVVN là rất lớn,nhu cầu
vay vốn của các doanh nghiệp cũng rất lớn.Do đó,nếu ngân hàng có thể huy động
vốn,cho vay thì có thể đem lại một khoản thu nhập không nhỏ cho ngân hàng.Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay hoạt động rất đa dạng,trên nhiều phương diện,
đòi hỏi có một số lượng vốn lớn và khó có thể tự huy động được,vì thế việc đi
vay từ ngân hàng là điều cần thíêt đối với họ để có thể mở rộng sản xuất,quy mô

và tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp
Tuy nhiên thì không phải bất cứ một doanh nghiệp nào khi vay vốn đều
làm ăn có lãi.Cũng có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, để lại cho ngân
hàng một khoản nợ khó thu hồi.Chính vì thế,ngân hàng phải quan tâm đến dự án
của doanh nghiệp,giúp cho doanh nghiệp tìm được phương án tối ưu đồng thời
cũng làm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
9
Tóm lại,với bất kỳ một ngân hàng nào cũng đều phải đặc biệt quan tâm
đến vấn đề cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.Vì đây là nguồn thu
nhập chủ yếu cho ngân hàng và nó cũng tiềm ẩn đem lại nhiều rủi ro cho ngân
hàng.Do đó nó phải được quan tâm đúng mức.

1.3. Thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3.1. Khái niệm về thẩm định tài chính dự án
Thẩm định tài chính dự án là nội dung rất quan trọng trong thẩm định dự
án.Cùng với thẩm định kinh tế,thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có nhưng
thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Thẩm định tài chính dự án là việc rà soát, đánh giá một cách toàn diện và
khoa học mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư . Nếu
như Chính phủ,các cơ quan quản lý vĩ mô quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả kinh
tế xã hội của dự án thì các nhà đầu tư lại quan tâm nhiều hơn đến khả năng sinh
lãi của dự án.
Song đối với ngân hàng thương mại,khi tiến hành thẩm định tài chính dự
án thường quan tâm hớn đến khả năng trả nợ của dự án,hay nói cách khác chính
là ngân hàng có thể thu hồi cả gốc và lãi vay của mình sau khi tài trợ cho dự án
hay không.Có thể ngay cả lúc mà ngân hàng thấy dự án của doanh nghiệp có
NPV <0 nhưng vẫn cho vay vì thấy doanh nghiệp vẫn có thể trả cả gốc và
lãi.Trong trường hợp này thì doanh nghiệp đang bỏ lỡ một cơ hội đầu từ khác tốt
hơn mà không biết,ngân hàng cần tư vấn thêm cho doanh nghiệp.

1.3.2. Sự cần thiết về thẩm đinh tài chính dự án trong cho vay đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại.
Đối với bất kì một ngân hàng thương mại nào thì việc cho vay theo dự án là
hoạt động truyền thống có khả năng sinh lợi cao nhưng nó cũng chứa đựng nhiều
rủi ro.Vì thế, để hạn chế tới mức tối đa các rủi ro có thể xảy ra,các ngân hàng
thương mại phải tiến hành thẩm định dự án mà trong đó quan trọng nấht là thẩm
định tài chính dự án. Đây là căn cứ mang tính quyết định giúp cho ngân hàng đưa
ra quyết định của mình.Thẩm định tài chính dự án hết sức quan trọng đối với
ngân hàng thương mại bởi những lý do chính như sau:
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
10
- Thẩm định tài chính dự án là cơ sở để các ngân hàng thương mại xác
định hiệu quả vốn đầu tư,khả năng hoàn vốn của dự án và khả năng trả nợ của
nhà đầu tư.Trên cơ sở đó,ngân hàng có thể đưa ra quyết định tài trợ cho dự án ở
mức độ nào như : giá trị khoản vay,thời hạn,lãi suất cho vay,hình thức thu nợ,các
biện pháp bảo đảm tiền vay cũng như các phương án khác nhằm hạn chế rủi ro.
- Thẩm định tài chính dự án là căn cứ để ngân hàng có biện pháp kiểm tra
việc sử dụng vốn có đúng mục đích , đúng đối tượng hay không,góp phần để dự
án thực hiện có hiệu quả.
- Thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng lường trước các rủi ro có thể
xảy ra ảnh hưởng đến quá trình triển khai,thực hiện dự án như các yếu tố về công
nghệ,sự biến động của thị trường nguyên liệu đầu vào,sản phẩm đầu ra,sự thay
đổi về công suất sản xuất,doanh số bán hàng,chi phí sản xuất,các yếu tố về môi
trường,chính sách quản lý…Từ đó,ngân hàng phải xem xét các yếu tố nhằm đưa
ra các giải pháp đối với chủ đầu tư,các kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà
Nước,hạn chế các rủi ro và nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện dự án
- Đối với các dự án phụ thuộc,thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng
có thể đưa ra các quyết định quan trọng như : chấp nhận cho vay với dự án nào
thì có hiệu quả hơn.
Nhìn tổng thể,thẩm định tài chính dự án giúp ngân hàng tích luỹ được

những kinh nghiệm và rút ra được những bài học quý báu để hoàn thiện các
nguồn cho vay, đầu tư cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Có thể nói thẩm định tài chính dự án là nội dung quan trọng và cần thiết
đối với các ngân hàng thương mại.Công tác này đòi hỏi sự tổng hợp tất cả các
biến cố tài chính,kỹ thuật,thị trường…đã được lượng hóa trong các nội dung
thẩm định trước nhằm phân tích,tạo ra các bảng dự trù tài chính,những chỉ tiêu tài
chính phù hợp và có ý nghĩa. Chính vì thế,cán bộ đảm nhiệm thẩm định dự án
phải có đầy đủ trình độ,khả năng giải quyết các tình huống nhằm đem lại những
lợi ích lớn nhất cho ngân hàng đồng thời tránh những thiệt hại có thể xảy ra cho
ngân hàng.
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
11
1.3.3. Nội dung thẩm định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại.
Thẩm định tài chính dự án bao gồm nhiều nội dung liên quan chặt chẽ với
nhau. Những nội dung chủ yếu được ngân hàng chú trọng khi thẩm định là:
1.3.3.1. Thẩm định tổng vốn đầu tư, cơ cấu nguồn và tiến độ bỏ vốn.
Thẩm định vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện vốn
đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu, dẫn đến việc không
cân đối được nguồn, ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án. Xác
định tổng vốn đầu tư sát thực tế sẽ là cơ sở để tính toán hiệu quả tài chính và dự
kiến khả năng tài trợ của dự án. Thẩm định tổng vốn đầu tư là việc xem xét dự án
đã được tính toán đầy đủ các khoản chi phí cần bỏ ra ban đầu để thiết lập và đưa
dự án vào hoạt động hay chưa.
Tổng vốn đầu tư thường được chia làm hai loại: vốn đầu tư vào tài sản cố
định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động ròng.
- Vốn đầu tư vào tài sản cố định: bao gồm chi phí mua sắm, lắp đặt, chạy
thử thiết bị và chi phí dự phòng hợp lý kèm theo.
- Vốn đầu tư vào tài sản lưu động: với các dự án sản xuất kinh doanh, để
máy móc, dây chuyền sản xuất có thể đi vào hoạt động bình thường trong chu kỳ

sản xuất đầu tiên thì cần phải có các tài sản lưu động ban đầu. Chi phí để tạo ra
tài sản lưu động ban đầu này gọi là vốn lưu động, là một bộ phận của tổng vốn
đầu tư khi dự toán.
Thẩm định tổng vốn đầu tư của dự án cần được tiến hành trên cơ sở các
thông tin về thị trường, ngành và các dự án tương tự đã biết.
1.3.3.2. Thẩm định nguồn tài trợ của dự án.
Một dự án có thể được tài trợ bằng nhiều nguồn khác nhau. Ngân hàng cần
thẩm định tính khả thi của từng nguồn vốn đó để làm căn cứ xác định mức cho
vay của ngân hàng
Số tiền cho
vay
=
Tổng vốn đầu tư của
dự án
-
Các nguồn tài trợ cho
dự án
Trong đó, các nguồn tài trợ cho dự án có thể bao gồm:
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
12
- Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp: được lấy từ phần khấu hao, lợi nhuận để
lại, quỹ thặng dư… mà khách hàng có thể dùng để tài trợ cho dự án. Ngân hàng
cần phải kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó xác định phần nguồn vốn chủ sở hữu trên thực tế có thể tham gia
tài trợ dự án của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn ngân sách cấp: một số dự án được nhà nước cấp vốn để triển
khai và doanh nghiệp chỉ được dùng số vốn này để thực hiện dự án. Khi đó, ngân
hàng cần xem xét bảo đảm của cấp có thẩm quyền đối với nguồn vốn ngân sách.
- Nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác: Một số dự án có nhu cầu vay
vốn lớn đòi hỏi sự đồng tài trợ của nhiều ngân hàng. Trong trường hợp đó ngân

hàng phải kiểm tra độ tin cậy về khả năng cho vay, số lượng, điều kiện và thời
hạn cho vay của các nguồn tài trợ dự án từ các tổ chức tín dụng khác dựa trên các
cam kết băng văn bản của chủ thể cho vay.
Bên cạnh việc thẩm định tính khả thi, ngân hàng còn xem xét thời điểm mà
doanh nghiệp nhận được khoản tài trợ đó, để có kế hoạch giải ngân vốn phù hợp
với tiến trình của dự án. Nhằm hạn chế rủi ro của mình và nâng cao trách nhiệm
của chủ dự án, ngân hàng thường yêu cầu tỷ lệ nhất định vốn tự có của doanh
nghiệp tham gia tài trợ cho dự án và thường chỉ muốn giải ngân vốn vay một
cách song song hoặc sau khi khách hàng sử dụng vốn tự có. Theo quy định hiện
hành mức vốn tự có tối thiểu của doanh nghiệp tham gia vào dự án tại chi nhánh
Ngân hàng Công thương Ba Đình là 30%.
Thẩm định nguồn tài trợ của dự án tránh cho ngân hàng rơi vào thế bị động
khi cho vay khi các nguồn tài trợ khác không khả thi, giúp ngân hàng đưa ra mức
tài trợ hợp lý cũng như kế hoạch đầu tư của mình đối với dự án, nhằm đảm bảo
cho dự án không bị thiếu vốn và nguồn vốn của ngân hàng cũng được sử dụng
một cách có hiệu quả hơn.
1. 3.3.3. Thẩm định doanh thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của dự án
Về bản chất, việc thẩm định doanh thu, chi phí và kết quả sản xuất kinh
doanh của dự án là một phần trong thẩm định dòng tiền của dự án nhưng các
ngân hàng thường tách công việc này thành một bước riêng để tiện cho việc đánh
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
13
giá và tính toán. Và vì vậy bước này có trách nhiệm đảm bảo đầu vào để việc
thẩm định dòng tiền được chính xác.
Doanh thu của dự án bao gồm các khoản lợi ích thu được từ việc vận hành tài
sản cố định được đầu tư bởi dự án, gồm doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu
từ sản phẩm phụ, doanh thu từ dịch vụ cung cấp cho bên ngoài. Khi thẩm định
yếu tố này ngân hàng phải xem xét tính hợp lý của hai yếu tố giá cả và sản lượng
sản phẩm.
Chi phí của dự án gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi.

- Chi phí cố định gồm chi phí bảo dưỡng máy móc, thiết bị, khấu hao máy
móc thiết bị, lãi vay…thường được tính theo phần trăm trên doanh thu
- Chi phí biến đổi gồm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, lương… được
tính toán dựa trên sản lượng sản xuất và định mức tiêu hao.
Vì doanh thu và chi phí ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh, mà
doanh thu lại phụ thuộc vào giá bán, trong khi giá bán phải dựa trên cơ sở chi phí
thực tế và giá của các sản phẩm thay thế. Như vậy một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp, chi phí đều ảnh hưởng đến doanh thu và kết quả sản xuất kinh doanh. Vì vậy
ngân hàng cần thẩm định tính chính xác và hợp lý của các yếu tố chi phí như
khách hàng đã đưa đủ chi phí vào giá thành chưa? Các mức tiêu hao nguyên vật
liệu, nhiên liệu của dự án có hợp lý không (nên so sánh với các dự án còn lại), tỷ
lệ trích khấu hao vào giá thành hợp lý không?
1.3.3.4. Thẩm định dòng tiền của dự án
Dòng tiền của một dự án được hiểu là các khoản thu, chi được kỳ vọng xuất
hiện tại các mốc thời gian khác nhau trong suốt chu kỳ của dự án. Chênh lệch
giữa các khoản thu chi này tạo ra dòng tiền ròng của dự án tại từng thời điểm.
Thẩm định dòng tiền của dự án là việc ngân hàng xác định dòng tiền của dự
án được phát sinh tại các thời điểm khác nhau để làm cơ sở đánh giá khả năng trả
nợ của khách hàng, xây dựng kế hoạch trả nợ hợp lý và tính toán các chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả tài chính của dự án.
Thẩm định dòng tiền của dự án cần chú ý một số điểm sau:
Một là, phải xem xét đến giá trị thời gian của tiền. Vì tiền có giá trị thời gian
nên chúng ta không thể so sánh dòng tiền phát sinh ở các thời điểm khác nhau với
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
14
nhau mà phải quy chúng về cùng một mốc thời gian để so sánh bằng cách sử
dụng lãi suất chiết khấu.
Hai là, cần phân biệt dòng tiền thực và dòng lợi nhuận kế toán. Dòng lợi
nhuận kế toán được xác định dựa trên thu nhập và chi phí được chấp nhận, còn
dòng tiền của dự án xác định trên cơ sở thu nhập và chi phí có thật bằng tiền. Ví

dụ như khấu hao là một khoản chi phí cố định của dự án. Tuy nhiên đây không
phải là một khoản chi phí thực bằng tiền nên không được tính vào dòng tiền chi
ra của dự án. Ngược lại, vì khấu hao tác động gián tiếp đến lợi nhuận, nó làm
giảm thuế thu nhập nên phải được coi là khoản thu nhập của dự án.
Ba là, cần nắm vững nguyên tắc xác định dòng tiền phù hợp. Dòng tiền dự án
là dòng tiền phù hợp. Một dòng tiền phù hợp là một sự thay đổi trong tổng dòng
tiền trong tương lai của doanh nghiệp mà được coi là hệ quả trực tiếp của việc
thực hiện dự án. Dòng tiền phù hợp còn được gọi là dòng tiền chênh lệch vì nó
chính là chênh lệch của dòng tiền ròng của doanh nghiệp khi không thực hiện và
có thực hiện dự án. Do đó các dòng tiền mà sự tồn tại của nó không liên quan đến
việc thực hiện hay không thực hiện dự án thì phải loại bỏ khi tính dòng tiền dự
án:
- Chi phí chìm: là chi phí đã xuất hiện từ trước cho dù dự án có được thực
hiện hay không. Do đó khi phân tích dòng tiền cần loại bỏ chi phí này.
- Chi phí cơ hội: là cơ hội thu nhập tốt nhất bị bỏ qua do chấp nhận dự án này
mà không chấp nhận dự án khác. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp đã sở
hữu sẵn một số tài sản hữu dụng cho việc thực hiện dự án. Điều đó có nghĩa là
doanh nghiệp không phải bỏ tiền ra để mua những tài sản này nữa. Chẳng hạn
doanh nghiệp đang sở hữu một khu đất thích hợp cho việc xây dựng một toà cao
ốc làm văn phòng. Liệu giá trị khu đất trên có được tính vào chi phí đầu tư
không? Khi sử dụng mảnh đất vào việc xây dựng toà nhà cao ốc, doanh nghiệp
đã phải từ bỏ một dòng tiền mà lẽ ra nó đã có thể có bằng việc cho thuê khu đất
đó. Nhưng dòng tiền này không được đưa vào dự án vì chi phí cơ hội đã được
tính đến trong lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên giá trị thị trường của mảnh đất phải
được đưa vào chi phí đầu tư vì mảnh đất cũng là một tài sản có khả năng sinh lợi
cho doanh nghiệp khi tham gia vào dự án.
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
15
- Tác động phụ: Vì dòng tiền chênh lệch của một dự án bao gồm tất cả các sự
thay đổi luồng tiền của doanh nghiệp được gây ra bởi việc thực hiện dự án. Trong

nhiều trường hợp việc chấp nhận thực hiện dự án mới có thể gây ra tác động phụ
kể cả tốt và xấu đối với luồng tiền của doanh nghiệp. Tác động này cần được tính
vào luồng tiền của dự án.
- Vốn lưu động ròng: là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng
nợ ngắn hạn hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản
cố định. Thông thường, một dự án yêu cầu phải đầu tư vào vốn lưu động ròng
bên cạnh đầu tư vào tài sản cố định. Để dự án đi vào hoạt động thường cần một
lượng vốn lưu động ban đầu như tiền để đáp ứng nhu cầu chi trả, hàng tồn kho
ban đầu cần thiết để bắt đầu sản xuất…Tuy nhiên nhu cầu này được tài trợ bởi
các khoản nợ ngắn hạn, do vậy doanh nghiệp chỉ cần đầu tư vào phần vốn lưu
động ròng. Đặc tính của tài sản lưu động ròng là nó không được khấu hao và
được thu hồi khi dự án kết thúc. Trong tính toán dự án, đầu tư vào vốn lưu động
ròng được coi là đầu tư ban đầu, và được thu hồi khi dự án kết thúc. Vốn lưu
động ròng được đưa vào dòng tiền của dự án.
- Phân bổ chi phí quản trị chung: chi phí quản trị chung là những chi phí hoạt
động không liên quan trực tiếp tới bất kỳ sản phẩm hay dịch vụ cụ thể nào như
chi phí quản lý, chi phí hành chính, văn phòng,…Sự chênh lệch của những chi
phí này trước và sau thời điểm có dự án mới nên được tính vào dòng tiền.
Một cách tổng quát, dòng tiền của dự án được cấu thành bởi ba bộ phận sau:
dòng chi phí đầu tư, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, dòng tiền thu hồi sau đầu
tư.
- Dòng chi phí đầu tư gồm: chi phí mua tài sản cố định; chi phí lắp đặt, vận
chuyển, chạy thử; chi phí dự phòng và đầu tư vào vốn lưu động ròng (nếu có).
Dòng chi phí đầu tư được gọi là dòng tiền ra của dự án (COF).
- Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh:
= LNST +KH
= DT – CF - THUẾ
= ( DT – chi phí không kể khấu hao)*(1-T) + KH*T
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
16

- Dòng tiền thu hồi sau đầu tư: gồm thu hồi vốn lưu động ròng và thu hồi từ
thanh lý tài sản cố định, trong đó:
Thu hồi từ thanh lý TSCĐ = thu thanh lý – (thu thanh lý – GTCL)*T
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và dòng tiền thu hồi sau đầu tư tạo thành
dòng tiền vào của dự án (CIF).
Chênh lệch giữa dòng ra và dòng vào của dự án tạo nên dòng tiền ròng của dự
án, là cơ sở để tính hiệu quả kinh tế của dự án:
NCF = CIF - COF
Đây là ba bộ phận cơ bản để xác định dòng tiền của dự án. Tuy nhiên đứng
trên các góc độ thẩm định khác nhau, dòng tiền của dự án có thể có những hiệu
chỉnh nhất định như trừ đi dòng trả nợ gốc hàng năm (nếu người thẩm định là
chủ đầu tư) hoặc cộng trở lại lãi vay (nếu người thẩm định là ngân hàng).
1.3.3.5.Thẩm định lãi suất chiết khấu
Xuất phát của việc đưa lãi suất chiết khấu vào tính toán trong dự án được
bắt nguồn từ nguyên lý giá trị thời gian của tiền. Đồng tiền xuất hiện có giá trị
cao hơn cũng đồng tiền đó vào một thời điểm trong tương lai.
Để có thể đánh giá hiệu quả tài chính của dự án một cách chính xác trên
cơ sở có tính đến giá trị thời gian của tiền, ngân hàng cần chiết khấu dòng tiền
của dự án trong tương lai về hiện tại theo một tỷ lệ hợp lý, tỷ lệ đó gọi là lãi suất
chiết khấu. Cơ sở tính lãi suất chiết khấu gắn liền với khả năng sinh lời và mức
độ rủi ro của dự án.
Đứng trên các quan điểm, vị trí khác nhau của người thẩm định, lãi suất
chiết khấu được xác định một cách khác nhau:
- Quan điểm nhà đầu tư: lãi suất chiết khấu là tỷ lệ sinh lời cần thiết mà nhà
đầu tư yêu cầu đối với phần vốn đầu tư hay thực chất là chi phí cơ hội của chủ
đầu tư. Khi đó lãi suất chiết khấu được tính dựa trên mô hình CAPM hoặc APT.
- Quan điểm của nhà tài trợ: lãi suất chiết khấu chính bằng lãi suất cho vay
- Quan điểm của doanh nghiệp: lãi suất chiết khấu là chi phí bình quân của
dự án
Việc xác định lãi suất chiết khấu hợp lý là rất quan trọng vì nó ảnh hưởng

tới việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án. Các dự án khách hàng
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
17
trình lên ngân hàng có lãi suất chiết khấu thường là lãi suất cho vay trung dài hạn
của ngân hàng hoặc lãi suất huy động trung dài hạn của ngân hàng cộng với phần
chênh lệch nhất định. Dựa trên những đánh giá về khả năng sinh lời và mức rủi
ro của dự án, ngân hàng tiến hành điều chỉnh lại tỷ lệ này trên góc độ của ngân
hàng.
1.3.3.6. Thẩm định hiệu quả tài chính của dự án đầu tư
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính dự án là những căn cứ rất quan
trọng để các cán bộ thẩm định đưa ra các quyết định đối với việc thực hiện dự án.
Để Phân tích và đánh giá hiệu quả tài chính dự án các cán bộ thẩm định thường
sử dụng các chỉ tiêu : Giá trị hiện tại ròng NPV;tỷ suât hoàn vốn nội bộ IRR;chỉ
số doanh lợi PI;thời gian hoàn vốn PP.Theo các cán bộ thẩm định thì một dự án
được coi là khả thi và có hiệu quả khi các chỉ tiêu tài chính đảm bảo ít nhất là đạt
được mức tối thiểu có thể chấp nhận được.
1.3.3.6.1.. Giá trị hiện tại ròng NPV
• Khái niệm.
NPV-giá trị hiện tại ròng là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các
dòng tiền thu được trong từng năm thực hiện dự án với vốn đầu tư bỏ ra được
hiện tại hoá ở mốc 0. Đây là chỉ tiêu đựơc sử dụng phổ biến nhất trong thẩm định
dự án.
• Ý nghĩa.
NPV phản ánh giá trị tăng thêm cho chủ đầu tư.NPV có thể mang giá trị
dương, âm hoặc bằng không.NPV>0 có nghĩa là việc thực hiện dự án sẽ tạo ra giá
trị tăng thêm cho chủ đầu tư tức tính sinh lợi của sự đầu tư lớn hơn tỷ lệ chiết
khấu.Do đó ột dự án với NPV dương có thể coi là chấp nhận được.NPV=0,tính
sinh lợi tương đương với tỷ lệ chiết khấu.Nếu NPV<0 thì dự án không đủ bù đắp
vốn đầu tư, đem lại thua lỗ cho chủ đầu tư và điều đó có nghĩa là tính sinh lợi của
dự án nhỏ hơn tỷ lệ chiết khấu,dự án cần phải được hủy bỏ.

• Cách xác định.
Công thức tình NPV được xác định như sau :
NPV =
( )

=
+
n
t
t
t
k
CF
1
1
-
0
CF
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
18
Trong đó :
CFo : Vốn đầu tư ban đầu bỏ ra,giả định vốn đầu tư được bỏ ra một lần vào
đầu năm thứ nhất của dự án.
CFt : Dòng tiền xuất hiện tại năm thứ t của dự án, t chạy từ 1 đến n
n : Số năm thực hiện dự án
k : Lãi suất chiết khấu,giả định là không đổi trong các năm.
• Tiêu chuẩn lựa chọn dự án :
Đứng trên quan điểm của các cán bộ thẩm định trong ngân hàng thì dự án
có NPV≥0 sẽ được lựa chọn nếu như các chủ đầu tư vẫn thực hiện đúng kế hoạch
trả nợ và dự án có NPV<0 sẽ bị loại bỏ.

NPV có một lợi thế như một phương tiện phân biệt so sánh với thời gian
thu hồi vốn đầu tư và tỉ suất lợi nhuận hàng năm vì nó tính đến toàn bộ thời gian
của dự án và thời điểm các dòng tiền của dự án.Nhược điểm của NPV là sự khó
khăn trong việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu thích hợp và NPV không chỉ ra tính sinh
lợi chính xác của dự án.Mặt khác,trên thực tế việc sử dụng tiêu chuẩn NPV để
đưa ra quyết định đầu tư có thể không hoàn toàn đúng như lý thuyết.Một dự án
cso NPV dương nhưng NPV quá nhỏ so vơi tổng vốn đầu tư thì việc quyết định
tài trợ cho dự án cũng như cần phải được xem xét một cách kỹ lưỡng.Tiêu chuẩn
NPV tỏ ra bất lợi khi so sánh những dự án có vốn đầu tư khác nhau hay thời gian
khác nhau.Do vậy, để thẩm định hiệu quả tài chính dự án cần thiết phải nghiên
cứu thêm các chỉ tiêu khác.
1.3.3.6.2. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR).
• Khái niệm
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ là trường hợp đặc biệt của lãi suất chiết khấu mà
ở đó NPV=0.Hay nói cách khác đó là tỷ lệ chiết khấu mà ở đó giá trị hiện tại của
dòng tiền vào tương đương với giá trị hiện tại của dòng tiền ra.
• Ý nghĩa
IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án,dựa trên giả định dòng tiền thu
được qua các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng IRR.
• Cách xác định
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
19
Phương pháp hay dùng để tính IRR là thử và điều chỉnh.Lần lượt thử các
giá trị của lãi suất chiết khấu làm cho NPV=0,chọn lãi suất chiết khấu nào cho
giá trị của NPV gần 0 nhất thì đó chính là IRR.
Ngoài ra phương pháp nội suy cũng được dùng để tính IRR.Phương pháp
này được tính dựa trên tam giác đồng dạng.Chọn 2 giá trị của lãi suất chiết khấu
sao cho một giá trị cho NPV>0 và một giá trị cho NPV<0. IRR chính là giá trị
nằm giữa 2 giá trị vừa chọn làm cho NPV=0.Công thức xác định IRR như sau :
IRR =

1
k
+
21
121
)(
NPVNPV
kkNPV
+

• Tiêu chuẩn lựa chọn dự án
Chọn dự án có IRR lớn hơn LSCK
IRR cần phải được áp dụng cẩn thận trong các trường hợp các dòng tiền
âm lớn xuất hiện lặp đi lặp lại trong thời gian cuối của dự án.Trong trường hợp
này IRR sẽ có nhiều giá trị và phương pháp IRR có thể đem lại những kết quả vô
nghĩa.
IRR khắc phục được nhược điểm của NPV ở chỗ nó có thể so sánh được
các dự án có thời gian khác nhau hay vốn đầu tư khác nhau.
Rõ ràng,việc áp dụng cả hai phương pháp NPV và IRR trong việc thẩm
đinh hiệu quả tài chính dự án là rất cần thiết.Thế nhưng vấn đề ở chỗ số liệu nào
đáng tin cậy hơn để đánh giá một dự án,và so sánh giữa các dự án với nhau.Về
mặt khoa học thì NPV và IRR chỉ là 2 góc nhìn của hiệu quả tài chính dự án.NPV
đưa ra giá trị tuyệt đối, IRR đưa ra giá trị tương đối.Về mặt toán học,khi LSCK
dùng để tính NPV bằng với IRR thì NPV=0.Do vậy giá trị NPV còn phụ thuộc
vào LSCK áp dụng,nếu chọn không khách quan sẽ làm kết quả NPV thiếu tin
cậy.
Về nguyên tắc một dự án có hiệu quả là dự án có NPV>0 hoặc IRR lớn
hơn lãi suất ngân hàng.Tuy nhiên,tuỳ theo quan điểm và mục đích đầu tư mà chỉ
số nào đáng được quan tâm hơn.
1.3.3.6.3. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ có điều chỉnh (MIRR)

IRR phản ánh giá trị hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định các dòng tiền
thu được trong các năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu. Tuy
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
20
nhiên, giả định này là không thuyết phục vì lãi suất chiết khấu sẽ thay đổi trong
các năm thể hiện chi phí cơ hội của chủ đầu tư trong từng năm thay đổi. Để khắc
phục nhược điểm này, ngân hàng sử dụng kết hợp với chỉ tiêu MIRR.
MIRR là tỷ lệ chiết khấu mà tại đó giá trị hiện tại của chi phí dự án tương
đương với giá trị hiện tại của giá trị cuối cùng của dự án. Giá trị cuối cùng là
tổng giá trị tương lai của những luồng tiền vào theo lãi suất chiết khấu ( chi phí
của vốn)
1.3.3.6.4.Chỉ số doanh lợi (PI)
• Khái niệm
Chỉ số doanh lợi PI là chỉ số phản ánh khả năng sinh lợi của dự án,tính
bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền trong tương lai chia cho vốn đầu tư
ban đầu.PI cho biết một đồng vốn bỏ ra sẽ tạo ra bao nhiêu đồng thu nhập.Thu
nhập này chưa tính đến chi phí vốn đầu tư đã bỏ ra.
• Cách xác định
PI =
( )
0
1
1
CF
k
CF
n
t
t
t


=
+
• Tiêu chuẩn lựa chọn dự án
PI ≥1 thì dự án sẽ được chấp nhận.PI<0 thì quyết không tài trợ cho dự án.
PI càng cao thì dự án càng dễ được chấp nhận nhưng tối thiểu phải bằng
LSCK.
PI khắc phục được nhược điểm của những dự án có thời hạn khác nhau
hay vốn đầu tư khác nhau vi nó phản ánh khả năng sinh lời của 1 đồng vốn đầu
tư của cả vòng đời dự án.Tuy nhiên vì PI là số tương đối nên nó không phản ánh
được quy mô gia tăng cho chủ đầu tư như NPV.
1.3.3.6.5. Thời gian hoàn vốn (PP)
• Khái niệm
Thời gian hoàn vốn là thời gian để chủ đầu tư thu hồi được số vốn đã đầu
tư vào dự án.
• Ý nghĩa:
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
21
PP phản ánh thời gian thu hồi vốn đầu tư vào dự án,nó cho biết sau bao lâu
thì dự án thu hồi đủ vốn đầu tư.Do vậy,PP cho biết khả năng tao thu nhập của dự
án từ khi thực hiện cho đến khi thu hồi đủ vốn.Tuy nhiên,PP lại không xem xét
đến khả năng tạo thu nhập sau khi đã thu hồi vốn đầu tư.
Chỉ tiêu PP giúp cho các cán bộ thẩm định có một cái nhìn tương đối chính
xác về mức độ rủi ro của dự án.Chỉ tiêu này được các nhà tài trợ ưa thích vì thời
gian thu hồi vốn đầu tư càng dài thì nhà tài trợ càng phải đương đầu với rủi ro
trong việc thu hồi vốn.
• Cách xác đinh :
PP = n + (số vốn đầu tư còn lại càn được thu hồi / dòng tiền ngay sau mốc
hoàn vốn)
Trong đó n : năm ngay trước năm thu hồi đủ vốn đầu tư.

Chỉ tiêu PP có ý nghĩa trong thẩm định tài chính dự án nhưng nó phải được
sử dụng kết hợp với các chỉ tiêu khác chứ khó có thể sử dụng một cách độc lập
để đưa ra quyết định đầu tư.
1.3.3.6.6. Chỉ tiêu cân đối lợi ích – chi phí (B/C)
Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ
ra tính về thời điểm hiện tại hoặc tương lai.
Về bản chất chỉ tiêu này có ý nghĩa tương tự NPV khi đánh giá một dự án
vì NPV >0 thì B/C >1, NPV = 0 thì B/C = 1 và NPV < 0 thì B/C <1.Tuy nhiên vì
là số tương đối nên chỉ tiêu này tuy không phản ánh được quy mô giá trị tăng
thêm của dự án nhưng lại có thể so sánh được các dự án có thời hạn khác nhau
hay vốn đầu tư khác nhau. Vì B/C khắc phục được nhược điểm của NPV nên nó
thường được sử dụng bổ trợ cho chỉ tiêu NPV khi phải so sánh nhiều dự án có
thời hạn và vốn đầu tư khác nhau. B/C không ảnh hưởng nhiều đến các quyết
định tài trợ của ngân hàng.
1.3.3.6.7. Chỉ tiêu lợi nhuận kế toán bình quân ( APP)
Là lợi nhuận kế toán thuần tuý bình quân trong các năm của dự án.
APP cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận kế toán bình quân trong từng năm
thực hiện dự án. Do vậy APP càng cao thì dự án càng mang lại nhiều thu nhập
cho chủ đầu tư. Tuy nhiên APP không xem xét đến giá trị thời gian của tiền do
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
22
vậy nó không phản ánh chính xác khả năng sinh lời của dự án. Do đó APP cũng
thường được sử dụng kết hợp với NPV như một chỉ tiêu bổ trợ.
1.3.3.6.8. Điểm hoà vốn ( BP)
Điểm hoà vốn là mức sản lượng mà tại đó nhà đầu tư thu hồi đủ vốn đầu tư
Nếu PP phản ánh thời gian thu hồi đủ vốn thì BP cho biết phải sản xuất và
tiêu thụ bao nhiêu đơn vị sản phẩm để thu hồi đủ vốn dựa trên chi phí biến đổi,
chi phí cố định và giá bán sản phẩm.
BP góp phần giúp ngân hàng đánh giá về khả năng hoàn vốn của dự án. BP
không quan tâm đến khả năng tiêu thụ sản phẩm sau khi thu hồi đủ vốn đầu tư,

không tính đến giá trị thời gian của tiền nên không chính xác như các chỉ tiêu tài
chính khác, vì vậy chỉ được sử dụng như một chỉ tiêu bổ trợ.
1.4.Chất lượng thẩm định tài chính dự án trong cho vay đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.4.1 Quan điểm về chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Thẩm định tài chính dự án được coi là có chất lượng tốt khi nó thoả mãn
được các yêu cầu mà ngân hàng và khách hàng đặt ra.
Yêu cầu của ngân hàng trong TĐTCDA là thời gian ngắn và chi phí thẩm
định thấp, đánh giá được chính xác hiệu quả tài chính của dự án, làm căn cứ
chính yếu nhất để ngân hàng đưa ra quyết định tài trợ đúng đắn: cho vay hay
không, cho vay bao nhiêu, thời hạn vay bao lâu, phương thức giải ngân, hình thức
thu nợ thế nào cho phù hợp…nhằm hạn chế tối đa rủi ro nhưng không bỏ lỡ cơ
hội đầu tư với những dự án tốt.
Yêu cầu của khách hàng là được tài trợ đủ nhu cầu vốn với thời hạn và lãi
suất phù hợp, thời gian thẩm định càng ngắn càng tốt để không bị lỡ thời cơ kinh
doanh, được ngân hàng cung cấp các tiện ích khác như tư vấn tài chính,…
Vì dự án vừa là cơ hội đầu tư của khách hàng vừa là cơ hội đầu tư của ngân
hàng nên việc thẩm định tài chính dự án được đánh giá là có chất lượng tốt khi
nó đáp ứng đồng thời yêu cầu của cả hai bên. Do đó, nâng cao chất lượng thẩm
định tài chính dự án trong hoạt động cho vay của ngân hàng chính là nâng cao sự
thoả mãn hai yêu cầu nói trên. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
23
chính dự án là các chỉ tiêu thể hiện mức độ thoả mãn yêu cầu đặt ra của ngân
hàng và khách hàng.
1.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án
Chất lượng thẩm định tài chính dự án thường được đánh giá thông qua các chỉ
tiêu sau:
- Thời gian thẩm định
- Chi phí thẩm định

- Chất lượng của báo cáo thẩm định
- Chất lượng các quyết định cho vay
- Việc cung cấp những tư vấn cho khách hàng
1.4.2.1. Thời gian thẩm định
Để thẩm định một dự án trước hết cần thu thập thông tin, phân tích, đánh giá
và tổng hợp các thông tin đó nhằm đưa ra kết luận chính xác về tính khả thi của
dự án. Để thực hiện được những công việc trên đòi hỏi phải có một khoảng thời
gian nhất định. Trong điều kịên cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chi phí cơ hội
của dự án là rất lớn, thời gian đối với chủ đầu tư là vàng là bạc, các khách hàng
khi đến với ngân hàng luôn mong muốn được ngân hàng trả lời sớm nhất dù cho
vay hay không cho vay. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho các ngân hàng là cần phải tổ
chức thẩm định và thiết lập hệ thống công nghệ hỗ trợ phù hợp sao cho thời gian
thẩm định phải đủ để tổ chức khâu thẩm định được kỹ càng nhưng không được
quá dài sẽ làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng. Có như vậy mới đảm bảo cơ
hội đầu tư cho cả ngân hàng và khách hàng.
1.4.2.2. Chi phí thẩm định
Chi phí thẩm định bao gồm tất cả các chi phí cần thiết mà ngân hàng phải chi
trả cho việc tiến hành thẩm định dự án.Hơn nữa trong cùng một thời gian, ngân
hàng phải trả lời cho vay hay không cho vay đối với nhiều dự án khác nhau vì
vậy chi phí thẩm định của ngân hàng còn bao gồm cả chi phí cơ hội đối với việc
xem xét cho vay dự án khác cùng thời điểm.
Thu nhập của ngân hàng từ dự án là tiền lãi vay và các khoản phí dịch vụ
cung ứng.
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
24
Là một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, vì vậy khi tiến hành
thẩm định tài chính dự án ngân hàng cần phải so sánh thu nhập và chi phí thẩm
định dự án. Trường hợp chi phí thẩm định mà quá lớn so với thu nhập nhận được
từ dự án thì ngân hàng vẫn có thể từ chối cho vay dù dự án hiệu quá.
1.4.2.3. Chất lượng báo cáo thẩm định

Báo cáo thẩm định là văn bản tổng kết lại toàn bộ các kết quả cuối cùng của
quá trình thẩm định dự án. Báo cáo thẩm định là căn cứ hàng đầu để ngân hàng ra
các quyết định cho vay, là cơ sở để tiến hành tái thẩm định, do đó nó có vai trò
rất quan trọng.
Là sự tổng kết của toàn bộ quá trình thẩm định nên chất lượng của báo cáo tài
chính thể hiện chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án. Bản báo cáo
thẩm định có chất lượng tốt phải đạt yêu cầu trình bày khoa học, đầy đủ, chính
xác và khách quan, sát với thực tế khi dự án đi vào hoạt động. Báo cáo thẩm định
tốt phải giúp người đọc nắm bắt được những thông tin cơ bản nhất về hiệu quả
tài chính của dự án, phải thể hiện được các quyết định và chứng minh được tính
hợp lý của các quyết định tài trợ cho dự án.
1.4.2.4. Chất lượng các quyết định cho vay
Vì mục tiêu cuối cùng của thẩm định tài chính dự án là để ngân hàng đưa ra
các quyết định cho vay một cách hợp lý nên chất lượng các quyết định cho vay
cũng phản ánh chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Chất lượng các quyết định cho vay thể hiện thông qua hiệu quả hoạt động
của các dự án được ngân hàng tài trợ và kết quả hoạt động cho vay theo dự án của
ngân hàng.
Khi bỏ vốn tài trợ cho một dự án, ngân hàng bao giờ cũng mong muốn dự
án hoạt động có hiệu quả để đảm bảo thu hồi được cả vốn và lãi. Thẩm định tài
chính dự án là căn cứ quan trọng nhất để ngân hàng đưa ra quyết định cho vay
hay không. Điều đó có nghĩa là các dự án được ngân hàng tài trợ vốn là các dự án
được ngân hàng thẩm định là có hiệu quả. Vì vậy các dự án đã được xét duyệt
cho vay mà hoạt động tốt theo đúng dự kiến chứng tỏ ngân hàng đã ra quyết định
đúng đắn hay chất lượng thẩm định tài chính dự án tốt. Ngược lại, nếu dự án
Sinh viên: Lê Minh Tiến Lớp:Tài chính doanh nghiệp 45A
25

×