Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận cao học, đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.02 KB, 25 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Thực tiễn cho thấy, đường lối, chủ trương chỉ thay đổi được hiện thực
khi được đưa vào cuộc sống, biến thành quảng đại của quần chúng nhân dân.
Muốn vậy, phải có nội dung lãnh đạo và cách thức, phương thức lãnh đạo
đúng đắn, khoa học. Mối quan hệ nội dung và hình thức lãnh đạo là hai mặt
của một quá trình thống nhất về lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội.
Vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được
đặt ra từ lâu, nhất là từ thời kỳ đổi mới (Đại hội lần thứ VI của Đảng – 1986).
Khác với phương thức lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh giải phóng dân
tộc, hiện nay Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã chỉ rõ hơn về phương thức lãnh đạo của Đảng với 5 nội dung
quan trọng: Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về
chính sách và chủ trương lơn; Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, kiểm tra; Đảng lãnh đạo bằng hành động gương mẫu của đảng
viên. Đảng với thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào
hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền. Đảng không bao biện, làm
thay các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Điểm đáng lưu ý là, đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tổ chức và hoạt
động trên cơ sở Hiến pháp; quản lý xã hội bằng pháp luật; tôn trọng và bảo vệ
quyền làm chủ của con người, các quyền và tự do của công dân; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sau gần 30 năm đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng đối vơi Nhà
nước đã có nhiều bước tiến quan trọng: Có sự phân định ngày càng rõ hơn



2

chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng điều hành, quản lý của Nhà
nước. Cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đang
được cụ thể hóa bằng các quy định pháp luật. Năng lực thể chế hóa đường lối
của Đảng thành các quy định có tính pháp lý và tổ chức thực hiện có hiệu quả
nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng và quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân từng bước được nâng cao. Để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước, Đảng tập trung vào việc xây dựng đường lối chính trị, nâng cao
tính khoa học, tính thực tiễn và tính khả thi, tạo điều kiện thuận lợi để Nhà
nước thể chế và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Coi trọng tự đổi mới, quy chế,
thể chế hóa mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy của Đảng. Giữa bộ
máy của Đảng với Quốc hội, với Chính phủ, với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình hoạt động. Đảng không làm thay,
không can thiệp vào công việc điều hành, quản lý của Nhà nước. Sự lãnh đạo
của Đảng trong phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã có nhiều chuyển biến tích cực. Công
tác cán bộ trong bộ máy Nhà nước có nhiều đổi mới, từng bước góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải “đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện nay”. Nhiệm vụ này đòi hỏi Đảng
phải nhận thức đúng đắn hiện thưc khách quan và vận dụng phù hợp với điều
kiện thực tế ở Việt Nam. Vấn đề này sẽ vẫn luôn là nhiệm vụ chính trị quan
trọng nhằm giúp Đảng ngày càng hoàn thiện, vững mạnh, góp phần không
ngừng nâng cao vị thế của Đảng ta trong hệ thống chính trị.


3


PHẦN NỘI DUNG
I. NHÀ NƯỚC, VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC, ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH
QUAN.

1. Khái niệm Đảng lãnh đạo Nhà nước
1.1.Lãnh đạo
Hiện nay có khá nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về thuật ngữ
“lãnh đạo”, “lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên
thực hiện”1. Lãnh đạo là một quá trình gồm hai khâu chính:
Một là, xác định quan điểm, chủ trương, đường lối, nghĩa là xác định
các nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu và mục tiêu của việc cần làm trong một thời
kỳ hay một giai đoạn cụ thể; xác định các nguyên tắc, biện pháp tiến hành để
định hướng đối tượng lãnh đạo hành động theo quan điểm, đường lối đã xác
định.
Hai là, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối đã xác định. Đây là
khâu có tính quyết định hiệu lực và hiệu quả của sự lãnh đạo nhằm thực hiện
mục tiêu đề ra.
Trong thực tế hoạt động cách mạng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã luận bàn khá rõ về khái niệm
lãnh đạo. Trong cuốn sách “Sửa đổi lề lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã giành hẳn một chương để bàn về cách lãnh đạo. Theo Người,
lãnh đạo đúng là một quá trình công tác gồm các khâu gắn bó chặt chẽ với
nhau, người viết: “ Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1. Quyết định mọi vấn đề một
cách đúng...;2. Tổ chức thực hiện cho đúng...; Tổ chức kiểm soát...”2 Với tư là
Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo mọi mặt hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền có sự khác biệt với hoạt động quản
lý của Nhà nước, đối tượng lãnh đạo của Đảng.
1


2


4

V.I.Lênin, khi phê phán cách lãnh đạo ôm đồm, thiếu khoa học của một
số cán bộ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nga đã nêu rõ cần phải phân định giữa
lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ do lãnh đạo đề ra, Người viết: “Không nên tự
mình làm tất cả, làm quá sức mà vẫn không kịp, làm một lúc hàng hai chục
việc mà không việc nào ra trò”, bởi vì “Những người cộng sản ở nước ta
chưa hiểu rõ nhiệm vụ lãnh đạo của mình là như thế nào”3. Người cũng rất
đúng khi chỉ ra rằng: Phải phân định rõ rằng giữa nhiệm vụ của Đảng, nhiệm
vụ của người lãnh đạo, với nhiệm vụ của chính quyền, nhiệm vụ của khách
thể lãnh đạo, trong mối quan hệ giữa Đảng và Chính quyền.
Từ những phân tích trên cho thấy: Lãnh đạo là một quá trình trong đó
chủ thể xác định chủ trương, đường lối, mục tiêu và tổ chức, động viên,
khuyến khích, thuyết phục, huy động mọi nỗ lực, tiềm năng sáng tạo của
khách thể (đối tượng lãnh đạo) thực hiện chủ trương, đường lối đã vạch ra,
đồng thời kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Đảng lãnh đạo”,
“Đảng cầm quyền” nêu trên có ý nghĩa rất lớn đối với chúng ta hiện nay trong
việc nhận thức đúng đắn nội hàm của các khái niệm đó làm cơ sở để đổi mới
phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng một cách đúng
hướng.
Trước hết, trong mối quan hệ, tác động của Đảng đối với Nhà nước mà
từ trước đến nay chúng ta coi là quan hệ “lãnh đạo”, “Đảng lãnh đạo Nhà
nước” cần phải có sự nhận thức lại rõ hơn. Đây phải được coi là quan hệ gắn
với quyền lực, do sự “cầm quyền” của Đảng. Tức Đảng có quyền lực, “Đảng
cầm quyền”, nắm quyền lực Nhà nước bằng cách “Đảng “hóa thân” sự lãnh

đạo của mình trong sự quản lý của Nhà nước, trên từng phương diện của đời
sống kinh tế-xã hội”. Do vậy, hoạt động của Đảng hiện nay vừa có sự lãnh
đạo, vừa có sự cầm quyền với các phương thức lãnh đạo và phương thức cầm
quyền của Đảng.
3


5

Phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có những
điểm giống nhau và khác nhau. Điểm giống nhau chủ yếu ở chỗ: Sự tác động,
ảnh hưởng của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội đều nhằm hướng tới
thực hiện các cương lĩnh, mục tiêu do Đảng đề ra; Đảng phải tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật. Điểm khác nhau chủ yếu ở chỗ: Phương thức lãnh đạo của
Đảng tập trung ở việc xác định đúng đắn đường lối, mục tiêu thể hiện trong
các cương lĩnh, nghị quyết của Đảng; ở tính thuyết phục của công tác tư
tưởng, tuyên truyền, giáo dục của Đảng; ở việc toàn Đảng, mỗi đảng viên
luôn tự rèn luyện, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu về mọi mặt, hết lòng
hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thực sự là “người đày tớ trung
thành của Nhân dân”, trở thành ngọn cờ dẫn đường, vận động, thuyết phục
nhân dân tự nguyện đi theo, ủng hộ Đảng, phấn đấu thực hiện thắng lợi đường
lối, mục tiêu của Đảng. Phương thức cầm quyền của Đảng tập trung ở việc
thực hiện công tác cán bộ, cắt cử và nắm chắc, kiểm tra, giám sát những cán
bộ ưu tú của Đảng giữ những vị trí chủ chốt của bộ máy Nhà nước để trực
tiếp và độc lập với những thẩm quyền nhất định trong việc điều hành quá
trình hoạch định và thực thi các quyết định, chính sách của chính quyền nhà
nước các cấp trên cơ sở pháp luật và các cơ chế đã được thể chế hóa nhằm
thực hiện các định hướng mục tiêu của Đảng.
1.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là: Quá trình Đảng đề ra các
quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, đối với hoạt động của Nhà
nước; tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát các cơ quan Nhà nước thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm cho quan
điểm đường lối chính sách đó được thực thi trong thực tiễn. Quan niệm như
vậy về Đảng lãnh đạo Nhà nước chỉ rõ những vấn đề sau:
- Chủ thể lãnh đạo là Đảng, mà thường xuyên và trực tiếp là Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ


6

nghĩa Việt Nam. Các cấp ủy đảng địa phương lãnh đạo cơ quan nhà nước ở
địa phương.
- Mục tiêu lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là xây dựng thành
công Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm cho Nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân; mang bản chất của giai cấp công nhân; trung thành với sự nghiệp
cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc; phụng sự
đắc lực công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc Việt Nam
XHCN, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
2. Lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
2.1. Lãnh đạo xây dựng lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, trên cơ sở đó định ra đường lối, chính sách xây dựng và hoạt động của
bộ máy Nhà nước.
Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo chế độ cộng
hòa và dân chủ; nhân dân thực hiện quyền làm chủ bộ máy nhà nước thông
qua các cơ quan đại diện. Điều 2, Hiến pháp năm 1992 qui định: “Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân,

vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”4
Đảng lãnh đạo xây dựng lý luận và chỉ đạo thực tiễn xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phân công thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp cho các cơ quan Nhà nước: Quốc hội, Chính phủ,
Toà án và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các cơ quan Nhà nước nói trên có
sự độc lập tương đối theo chức năng, nhiệm vụ được phân công, nhưng thống
nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước. Điều 6 Hiến pháp năm 1992 chỉ rõ: “Quốc hội, hội đồng nhân dân và
các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
4


7

trung dân chủ”5. Nguyên tắc này quy định, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đại biểu cao
nhất cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp. Các cơ quan nhà nước cấp dưới phục tùng cơ quan nhà nước
cấp trên. Chính phủ, Quốc hội, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp
làm việc theo nguyên tắc: Tập thể quyết định theo đa số, phân công trách
nhiệm cá nhân người đứng đầu và các thành viên tổ chức thực hiện…
2.2. Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa quan điểm, đường lối,
chiến lược của Đảng thành luật pháp, chính sách
Đảng lãnh đạo đảng viên và tổ chức đảng hoạt động trong các cơ quan
nhà nước thể chế hóa quan điểm, đường lối, chiến lược của Đảng thành luật
và chính sách để quản lý xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa, bảo đảm an ninh
quốc phòng. Điều 41 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X qui định: Tổ
chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước và đoàn thể chính

trị- xã hội phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, chỉ thị của Đảng; tổ chức
đảng lãnh đạo việc cụ thể hoá thành các văn bản luật pháp của Nhà nước, chủ
trương của đoàn thể; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả”6.
Đối với các cơ quan lập pháp, Đảng lãnh đạo các cơ quan này thể chế
hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng thành hiến pháp, pháp luật,
các kế hoạch, qui hoạch của Nhà nước. Đảng, mà thường xuyên và trực tiếp là
Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp cho ý kiến chỉ đạo đối với các cơ quan của
Quốc hội trong quá trình soạn thảo, thẩm định và ban hành Hiến pháp, pháp
luật, bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật phản ánh đúng tình hình thực tiễn
của đất nước, đồng thời thể hiện được bản chất của Nhà nước pháp quyền
XHCN, Nhà nước của dân, do dân và vì dân như mong đợi của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta. Đảng ta chỉ rõ: “Trong lĩnh vực lập pháp: Ban Chấp
hành Trung ương xác định chủ trương, định hướng nội dung sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp. Bộ Chính trị cho ý kiến về chương trình xây dựng luật của nhiệm
kỳ Quốc hội; định hướng chính trị đối với những nội dung lớn, quan trọng
5
6


8

trong các luật, pháp lệnh theo đề nghị của Đảng đoàn Quốc hội; lãnh đạo xây
dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp, tư pháp”7. Trong lĩnh vực giám sát và quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước, Đảng ta cũng xác định rất rõ những nội dung
Đảng lãnh đạo Quốc hội: “Bộ Chính trị, Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo Quốc
hội xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện chức năng giám sát, định
hướng trọng tâm giám sát và có biện pháp nâng cao hiệu lực giám sát của
Quốc hội tại các kỳ họp, giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, các ủy ban và các đoàn đại biểu Quốc hội giũa các kỳ họp; qui định

về việc Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm cán bộ thuộc các chức danh do Quốc
hội bầu, phê chuẩn khi có sai phạm”8
Đối với các cơ quan hành pháp, Đảng lãnh đạo các cơ quan hành
pháp cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng
thành các Nghị định của Chính phủ, nghị quyết, quyết định, biện pháp của các
cơ quan Nhà nước; các kế hoạch và biện pháp thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước theo đúng trình tự lập pháp, không được phép
làm trái hoặc bỏ qua các trình tụ lật pháp trong việc ban hành quyết định thực
thi sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta chỉ rõ: “Trên cơ sở quan điểm, chủ trương
của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban cán sự đảng
Chính phủ lãnh đạo Chính phủ xây dựng các chương trình kế hoạch tổ chức
thực hiện, bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện, giải quyết những vấn
đề thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước theo qui định của pháp luật, chủ động
xin ý kiến của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề quan trọng, phức tạp
chưa có chủ trương của Đảng”9. Đã qua rồi thời kỳ lịch sử, do tính đặc thù của
chiến tranh cách mạng, các cơ quan lãnh đạo của Đảng trực tiếp quyết định và
buộc các cơ quan Nhà nước thực hiện quyết định của các cơ quan Đảng như
một “siêu nhà nước”.

7
8
9


9

Đối với các cơ quan tư pháp, Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp
thực hiện chức năng điều tra, xét sử và kiểm tra, giám sát các hoạt động điều
tra xét sử đó theo đúng các qui định của pháp luật, theo đúng định hướng
chính trị của Đảng; bảo đảm cho các cơ quan tư pháp thực thi chức trách,

nhiệm vụ không phạm các sai lầm, không oan sai, không vi phạm pháp luật;
có tác dụng thúc đẩy kinh tế - xã hội pháp triển; giữ vững ổn định chính trị
của đất nước; giữ an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội ở các địa phương,
các dịa bàn dân cư.
Hoạt động của nhà nước hết sức phong phú, trước hết, bao gồm các
mặt hoạt động chủ yếu: Lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan nhà
nước, từ trung ương xuống đến các địa phương. Sau nữa là các hoạt động đối
nội, đối ngoại, bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước. Trên cơ sở quan
điểm, đường lối của Đảng, trên cơ sở luật pháp đã ban hành, Đảng lãnh đạo
tất cả các hoạt động của bộ máy nhà nước tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Đảng lãnh đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, lãnh đạo các cơ quan Nhà
nước chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp là chấp hành nghiêm chỉnh quan
điểm, đường lối của Đảng. Bởi quan điểm, đường lối của Đảng đã được thể
chế hoá thành Hiến pháp và pháp luật.
Tuy nhiên, tuỳ theo lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, Đảng thực hiện
sự lãnh đạo của mình theo các nguyên tắc, hình thức, phương pháp khác nhau.
Ví dụ, đối với lĩnh vực quốc phòng-an ninh, Đảng lãnh đạo Quân đội nhân
dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam theo nguyên tắc: “Tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt; xây dựng Quân đội và Công an trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng với Tổ
quốc…”10. Với lĩnh vực đối nội và đối ngoại, “Ban Chấp hành Trung ương tổ
chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng…quyết định những
chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại”11. “Ban Bí thư lãnh đạo công việc

10
11


10


hàng ngày của Đảng:..kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại…”12
2.3. Lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước và đội ngũ cán bộ hoạt động trong
bộ máy nhà nước; xây dựng hệ thống tổ chức của Đảng hoạt động trong các cơ
quan Nhà nước.
Đảng lãnh đạo xây dựng thể chế và nguyên tắc hoạt động của bộ máy Nhà
nước. Đảng định hướng xây dựng thể chế Nhà nước – Nhà nước pháp quyền
XHCN, theo nguyên tắc TTDC; thực hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và
kiểm soát các nhánh quyền lực trong bộ máy Nhà nước.
Trên cơ sở các nguyên tắc và thể chế xác định, Đảng lãnh đạo xây dựng
hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, từ Trung ương xuống đến các địa phương
và cơ sở. Đảng định rõ quan điểm, chủ trương trong xây dựng các dự án luật
và trình tự ban hành luật về tổ chức, bộ máy các cơ quan Nhà nước. Thực
hiện kiểm tra, giám sát việc thi hành luật pháp của các tổ chức đảng và đảng
viên. Trực tiếp chỉ dạo việc chia tách, sát nhập, thành lập mới hoặc giải thể
các cơ quan, đơn vị nhà nước ở Trung ương và các địa phương theo quy định
của pháp luật. Đảng ta chỉ rõ: “Bộ Chính trị lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung
luật tổ chức Chính phủ để kiện toàn tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của
Chính phủ theo hướng tinh gọn, các bộ nghành làm chức năng quản lý nhà
nước đa nghành, đa lĩnh vực, khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm
vụ. Giới thiệu nhân sự để Quốc hội bầu, phê chuẩn vào các chức vụ lãnh đạo
chủ chốt của Chính phủ...Lãnh đạo, chỉ đạo xác định chức năng, nhiệm vụ,
qui chế làm việc của ban cán sự đảng các bộ nghành; qui định quan hệ lãnh
đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Ban cán sự đảng Chính phủ,
quan hệ công tác giữa Ban cán sự đảng Chính phủ với Thường trực Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, với Đảng đoàn Quốc hội...”13
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ hoạt
động trong các cơ quan nhà nước: Đảng định ra quan điểm, chủ trương, chính
12
13



11

sách đối với cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; thực hiện phân cấp quản
lý, qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, luân chuyển, điều động,
kiểm tra, khen thưởng và kỷ luật cán bộ.
Hoạt động của nhà nước hết sức phong phú, trước hết, bao gồm các mặt
hoạt động chủ yếu: Lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan nhà nước,
từ trung ương xuống đến các địa phương. Sau nữa là các hoạt động đối nội,
đối ngoại, bảo đảm an ninh, quốc phòng của đất nước. Trên cơ sở quan điểm,
đường lối của Đảng, trên cơ sở luật pháp đã ban hành, Đảng lãnh đạo tất cả
các hoạt động của bộ máy nhà nước tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Đảng
lãnh đạo đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, lãnh đạo các cơ quan Nhà nước
chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp là chấp hành nghiêm chỉnh quan điểm,
đường lối của Đảng. Bởi quan điểm, đường lối của Đảng đã được thể chế hoá
thành Hiến pháp và pháp luật.
Tuy nhiên, tuỳ theo lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, Đảng thực hiện
sự lãnh đạo của mình theo các nguyên tắc, hình thức, phương pháp khác nhau.
Ví dụ, đối với lĩnh vực quốc phòng-an ninh, Đảng lãnh đạo Quân đội nhân
dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam theo nguyên tắc: “Tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt; xây dựng Quân đội và Công an trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng với Tổ
quốc…”14. Với lĩnh vực đối nội và đối ngoại, “Ban Chấp hành Trung ương tổ
chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng…quyết định những
chủ trương, chính sách đối nội, đối ngoại” 15. “Ban Bí thư lãnh đạo công việc
hàng ngày của Đảng:..kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại…”16
2.4. Lãnh đạo phối hợp hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị- xã hội với hoạt động của Nhà nước

Đảng lãnh đạo các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền lực của mình
thông qua các cơ quan lập pháp; đồng thời thực hiện quyền làm chủ của mình
14
15
16


12

thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Với vai trò hạt
nhân lãnh đạo Hệ thống chính trị nước ta, Đảng, mà thường xuyên và trực tiếp là
Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo “sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị.”17Điều 125, Hiến pháp năm 1992 qui định: “Chủ tịch Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu các đoàn thể nhân dân ở địa
phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân và được mời tham dự
hội nghị Uỷ ban nhân dân cùng cấp khi bàn các vấn đề có liên quan”, đồng thời
chỉ rõ “Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân thực hiện chế độ thông báo, lắng
nghe ý kiến, kiến nghị của các tổ chức này về xây dựng chính quyền và phát
triển kinh tế- xã hội ở địa phương”18.
3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ta hiện nay.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là hệ thống các hình
thức, phương pháp, biện pháp mà Đảng sử dụng để lãnh đạo các cơ quan Nhà
nước thực hiện tốt nội dung lãnh đạo của Đảng.
Theo Điều 41 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X qui định:
“Đảng lãnh đạo nhà nước và đoàn thể chính trị xã hội bằng cương lĩnh chính
trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán
bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.” 19 Phương thức lãnh đạo đó được cụ
thể như sau:
Một là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng quan điểm, chủ trương, nghị
quyết, của Đại hội Đảng các cấp, của Ban Chấp hành Trung ương, mà

thường xuyên và trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp uỷ, tổ chức đảng
các cấp.
Đây là phương thức lãnh đạo quan trọng nhất xuất phát từ chính bản
chất của khái niệm lãnh đạo. Đảng định ra quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách, chiến lược phát triển cho toàn bộ các hoạt động của Nhà nước.
Chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng là kết tinh trí tuệ, ý chí chính trị của
17
18
19


13

toàn Đảng, của tập thể Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp, bảo đảm định hướng
chính trị cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Khi các cơ quan lãnh đạo của Đảng đã có nghị quyết, chủ trương và
chính sách đúng đắn, thông qua qui chế làm việc, Ban thường vụ và Thường
trực cấp uỷ trực tiếp chỉ đạo, cho ý kiến kết luận những vấn đề phát sinh hàng
ngày, qua đó các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và lực lượng liên quan tổ
chức thực hiện.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác tổ chức, công tác cán
bộ và đội ngũ đảng viên.
Lãnh đạo Nhà nước bằng công tác tổ chức cán bộ là một trong những
phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng ta. Đảng xây dựng tổ chức, kiện toàn
bộ máy lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, giới thiệu những cán
bộ đảng viên có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức tham gia vào bộ máy Nhà
nước; sắp xếp, điều chuyển những cán bộ yếu kém về phẩm chất và năng lực
công tác khỏi các cơ quan này.
Phương thức này cho phép Đảng ta xây dựng các nhân tố lãnh đạo nằm
trong cơ cấu Nhà nước và thông qua các nhân tố này cho phép Đảng ta trực tiếp

chi phối, điều khiển các hoạt động của Nhà nước đi đúng hướng, đúng chủ
trương của Đảng và pháp luật của nhà nước. Các đảng viên trực tiếp tham gia
công tác Nhà nước, một mặt phải tuân thủ nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của
Đảng; mặt khác phải thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ được giao ở cơ quan.
Phương thức này đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên chăm lo củng cố, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và của các đảng bộ hoạt động trong
cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở xứng đáng với vai trò hạt nhân lãnh
đạo của hệ thống chính trị
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua tai Đại hội toàn quốc lần
thứ X, ghi rõ: “Tổ chức đảng và đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước…
phải chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị, nghị quyết của Đảng; tổ chức đảng lãnh
đạo việc cụ thể hoá thành các văn bản luật pháp của Nhà nước”. Trong


14

phương thức lãnh đạo này, Đảng lãnh đạo các tổ chức đảng và đội ngũ đảng
viên của Đảng hoạt động trong các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá, kế hoạch
hoá, chính sách hoá, cụ thể hoá…các quan điểm, chủ trương của Đảng về Nhà
nước thành các văn bản có hiệu lực pháp luật, thông qua đó xây dựng và chỉ
đạo bộ máy Nhà nước hoạt động theo đúng quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác tư tưởng, lý luận.
Lãnh đạo bằng công tác tư tưởng là một phương thức lãnh đạo rất
quan trọng của Đảng đối với cách mạng nói chung, đối với các cơ quan
Nhà nước nói riêng. Với loại công tác phức tạp, nhạy cảm như lãnh đạo
Nhà nước thì phương thức lãnh đạo bằng công tác tư tưởng càng có tầm
quan trọng đặc biệt. Một mặt, Đảng xây dựng hệ thống lý luận về Nhà
nước, về luật pháp, về thể chế chính trị làm cơ sở xây dựng các cơ quan
Nhà nước và điều hành hoạt động bộ máy Nhà nước trong thực tiễn.

Mặt khác, Đảng thông qua hệ thống tổ chức của mình, sử dụng các
hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nâng cao trình độ
lý luận và ý thức chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; giáo dục,
phát huy truyền thống cách mạng, lối sống lành mạnh của cán bộ, đảng
viên tham gia xây dựng bộ máy Nhà nước.
Đồng thời, Đảng lãnh đạo các mặt công tác tư tưởng đề cao cảnh
giác, chống “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch và chống các luận
điệu sai trái của kẻ xấu lợi dụng tự do, dân chủ tuyên truyền, kích động
quần chúng vi phạm pháp luật, chống các cơ quan Nhà nước, gây mất đoàn
kết, mất an ninh, trật tự và an toàn xã hội , phá hoại sự ổn định chính trị
của đất nước.
Bốn là, lãnh đạo bằng công tác, kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng
và đảng viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước.
Đây cũng là phương thức lãnh đạo xuất phát từ bản chất của khái niệm
lãnh đạo. Phương thức này cho phép các cấp bộ đảng nằm vững được đặc


15

điểm tình hình thực tế, bám sát thực tiễn để có thể, một mặt chỉnh đốn kịp
thời những lệch lạc nếu có trong các cơ quan Nhà nước, mặt khác, đề ra
những chủ trương, nghị quyết và giải pháp đúng đắn trong xây dựng và chỉ
đạo hoạt động của Nhà nước. Bàn về vai trò của công tác Thanh tra, kiểm tra,
Hồ Chủ tịch đã nói: “Khi có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại
của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và
do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”20
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với đảng viên và tổ chức
đảng hoạt động trong các cơ quan Nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Nếu công tác kiểm tra, giám sát của Đảng bị coi nhẹ, cán bộ, đảng viên hoạt
động trong các cơ quan quyền lực Nhà nước dễ có nguy cơ tham nhũng, thoái

hoá, biến chất, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Phương thức này càng có
ý nghĩa quan trọng hơn trong tình hình hiện nay, khi mà hầu hết các chức vụ
quan trọng trong bộ máy Nhà nước đều do đảng viên của Đảng nắm giữ và
trực tiếp giải quyết mọi chính sách của Nhà nước liên quan đến đời sống của
nhân dân.
Năm là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua mặt trận và các đoàn thể
chính tri-xã hội.
Mặt trận và các đoàn thể chính trị- xã hội là bộ phận cấu thành quan
trọng của hệ thống chính trị nước ta, có vai trò rất lớn trong xây dựng bộ
máy Nhà nước. Do đó, Đảng thông qua các tổ chức đảng và đội ngũ đảng
viên hoạt động trong các cơ quan này lãnh đạo cụ thể hoá chỉ thị, nghị
quyết của Đảng về Nhà nước thành các chủ trương công tác của Mặt trận
và các đoàn thể chính trị-xã hội.
Sáu là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thông phát huy vai trò tiền phong,
gương mẫu của đội ngũ cán bộ , đảng viên của đảng bộ.
Tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên là đặc tính thuộc về
bản chất của Đảng Cộng sản. Sự phân biệt người đảng viên Cộng sản với
20


16

quần chúng của Đảng, cũng như với tất cả đảng viên của các chính đảng khác,
chính là ở tính tiền phong, gương mẫu về mặt lý luận và hoạt động thực tiễn
theo đuổi mục tiêu, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Sự lãnh đạo bằng nêu
gương, bằng uy tín và sự thuyết phục quần chúng bằng chính tấm gương mẫu
mực của mình là phong cách lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhân dân tin tưởng uỷ quyền cho các đại biểu của mình, chủ yếu là cán
bộ, đảng viên của Đảng nắm giữ các cương vị, chức vụ quan trọng của bộ máy
Nhà nước. Hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam sẽ phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng. Phát huy tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên có ý nghĩa
quyết định việc giữ gìn và nâng cao uy tín của Đảng trước nhân dân, đồng thời là
nhân tố quyết định nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước.
3. Quan điểm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải được
đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ
với đổi mới các mặt của công tác xây dựng đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, thích ứng với đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải trên cơ
sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thực hiện đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rải trong Đảng và xã
hội, đẩy mạnh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân nhất là người
đứng đầu.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là công việc
hệ trọng, đòi hỏi phải chủ động tích cực, có quyết tâm chính trị cao đồng thời


17

cần thận trọng, có bước đi vững chắc, vừa làm, vừa tổng kết rút kinh nghiệm;
ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp
với đặc điểm yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng ngành.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp từ
Trung ương đến cơ sở, xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng

ở các cấp các ngành theo tinh thần: Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh,
đường lối, quan điểm, các chủ trương, các nghị quyết, nguyên tắc giải quyết các
vấn đề lớn có ý nghĩa chính trị quan trọng. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động,
sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội
theo pháp luật.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong việc thể chế
hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng thành
Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, chương trình, mục tiêu lớn của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo nhưng không làm thay Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Đề phòng khắc phục những khuynh hướng tổ chức đảng buông lỏng
sự lãnh đạo hoặc bạo biện làm thay, cũng như khuynh hướng các cơ quan nhà
nước thụ động, né tránh trách nhiệm, việc gì cũng xin ý kiến cấp ủy đảng.
Đảng tập trung lãnh đạo xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực hiệu quả. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, có phân công, phân cấp
hợp lý, tôn trọng phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan và người đứng
đầu các tổ chức trong công tác cán bộ.
Đảng kết hợp chặt chẽ việc lãnh đạo và kiểm tra bộ máy nhà nước
thông qua tổ chức đảng và cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà
nước.


18
II. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC

1. Những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà
nước
1.1. Những nhân tố thuận lợi
Những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đất nước gần 30 năm đã

củng cố niềm tin vững chắc của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng đối với nhà nước và xã hội. Có thể nói trong hoàn
cảnh vô cùng khó khăn, phức tạp của cách mạng Việt Nam cuối những năm
tám mươi và đầu những năm chín mươi của thế kỷ XX, khi mà các Đảng cộng
sản ở Đông Âu và Liên- xô mất quyền lãnh đạo đất nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa sụp đổ ở những nơi này, chúng ta không còn điểm tựa phát triển; quá
trình đổi mới sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vừa mới bắt
đầu, chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; chủ nghĩa đế quốc chưa bỏ
cấm vận…Đảng ta một lần nữa, lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua khúc
quanh nguy hiểm của lịch sử, từng bước vững chắc đưa cách mạng Việt Nam
vượt qua khó khăn thử thách, tạo nên những phát triển ấn tượng trên tất cả các
lĩnh vực, được nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế khâm phục, tin
tưởng.
Sự sụp đổ mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội lạc hậu ở các nước Đông
Âu và Liên-xô trước đây đặt ra một vấn đề tư tưởng lý luận hết sức phức tạp
là: Lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác-Lê nin có thực
sự khoa học không? Đã lỗi thời hay vẫn có thể là kim chỉ nam cho sự nghiệp
xây dựng đất nước Việt Nam trong tương lai? Có trả lời được câu hỏi đó về lý
luận và chứng minh trên thực tiễn mới có cơ sở động viên tư tưởng và đoàn
kết toàn dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp đổi mới. Thành tựu của hơn hai mươi
năm đổi mới là to lớn và toàn diện, nhưng trước hết là thành tựu lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó
điểm đột phá tư duy là nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ


19

nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá
độ.
Cùng với những thành tựu trong nhận thức lý luận, trong thực tiễn xây

dựng đất nước và trong đời sống mọi mặt của các tầng lớp nhân dân, Đảng ta
cũng giải quyết thành công mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
Nhân dân làm chủ trong từng bước đi cụ thể. Tạo nên sự ổn định chính trị và
sự đồng thuận cao giữa Đảng và Nhân dân.
1.2. Những nhân tố tiêu cực
Các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá sự lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước cả trên mặt trận lý luận và trên thực tiễn. Sự sụp đổ chủ nghĩa xã
hiện thực với tư cách là một hệ thống chế độ xã hội ở các nước Đông Âu và
Liên-xô trước đây là “cơn động đất” về chính trị còn để lại “dư trấn” lâu dài
trong tư tưởng của nhiều thế hệ con người đã từng phấn đấu cho lý tưởng xã
hội chủ nghĩa ở những nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có nhân dân
Việt Nam. Đây là cơ hội tốt cho các thế lực chống phá sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta những năm đã qua và sắp tới.
Cùng với những nhân tố khách quan nói trên, ở trong nước, công cuộc
cải cách hành chính tiến bộ chậm chạp, cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng chưa đạt mục tiêu yêu cầu đặt ra đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy
tín của Đảng trước Nhân dân.
Mặt khác, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sự sa sút phẩm chất đạo
đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên hoạt động trong
các cơ quan nhà nước cũng góp phần không nhỏ làm sói mòn niềm tin của
Nhân dân đối với Đảng.
2. Những giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước
2.1.Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng


20

Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, nâng cao bản lĩnh chính trị và

trình độ trí tuệ của Đảng; đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước; nâng cao năng lực tổ chức thực hiện đường lối, chính sách
của các cấp bộ đảng.
Tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thực hành đấu tranh phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy
của Đảng và hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác
bảo vệ chính trị nội bộ. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước.
2.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
Nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, làm rõ quan niệm về Đảng lãnh đạo
và Đảng cầm quyền. Nhấn mạnh Đảng lãnh đạo nhà nước bằng cương lĩnh,
đường lối, quan điểm, nguyên tắc; định hướng giải quyết các vấn đề lớn, có ý
nghĩa chính trị quan trọng về bộ máy Nhà nước; lãnh đạo bằng công tác tổ
chức cán bộ; bằng công tác kiểm tra, giám sát thực hiện; bằng công tác tư
tưởng của Đảng… Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động sáng tạo của Nhà
nước, Đảng kiên quyết không bao biện, làm thay, đồng thời, thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc: Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2.3.Nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan nhà
nước thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối quan điểm, chủ trương của Đảng
thành Hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình mục tiêu
Năng lực và uy tín lãnh đạo của Đảng trước nhân dân trong điều kiện
Đảng cầm quyền chính là hiệu lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước do Đảng
tổ chức và lãnh đạo. Vai trò cầm quyền của Đảng được phát huy đến mức nào
được thể hiện thông qua phát huy vai trò của Nhà nước là chủ yếu. Vì vây.
Đảng phải tăng cường sự lãnh đạo các cơ quan Nhà nước thể chế hoá, cụ thể
hoá quan điểm, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách và tổ chức
thực hiện tốt các luật và chính sách đó trong thực tiễn xã hội.



21

Đối với Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo
và kiểm tra các cơ quan và đội ngũ cán bộ đảng viên của Đảng hoạt động
trong các cơ quan Quốc hội và Hội đồng nhân dân trong việc xây dựng luật,
nghị quyết theo đúng trình tự pháp luật, đúng quan điểm, đường lối của Đảng.
Lãnh đạo phát huy vai trò quyết định ban hành luật của Quốc hội, vai trò giám
sát thực thi luật pháp của Quốc hội và hội đồng nhân dân.
Đối với các cơ quan hành pháp, Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các
cấp, Đảng tăng cường lãnh đạo quá trình soạn thảo các dự án luật, bảo đảm
các dự án luật đệ trình Quốc hội đúng quan điểm, đường lối, đúng trình tự
pháp luật, phản ánh đúng những đòi hỏi của cuộc sống xã hội, có tính ổn định,
bền vững. Trước khi ban hành luật cần được điều tra nghiên cứu rất kỹ, không
tiết kiệm thời gian nghiên cứu khoa học phục vụ các dự án luật. Tuy nhiên,
khi đã ban hành luật thì cần rút ngắn thời gian từ lúc ban hành luật, đến khi
luật có hiệu lực thực tế.
Hoàn thiện luật pháp là điều kiện thiết yếu để quản lý xã hội theo luật pháp,
tuy nhiên vấn đề quyết định lại ở chỗ thực thi luật pháp của các cơ quan Nhà
nước. Vai trò quản lý điều hành xã hội, quản lý chính các cơ quan Nhà nước theo
luật pháp lại thuộc về đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hoạt động trong các cơ
quan Nhà nước.
2.4. Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức, cán bộ hoạt động trong bộ
máy nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước.
Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, do đó Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của toàn bộ Hệ thống chính trị.
Đảng thực hiện việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, thực hiện
chính sách và kiểm tra giám sát cán bộ hoạt động trong bộ máy Nhà nước.
Tuy nhiên, tuỳ theo các đối tượng cán bộ khác nhau mà Đảng phân cấp quản
lý cán bộ cho các cấp, các nghành, các địa phương
Phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ công chức hoạt động trong

các cơ quan Nhà nước là nhân tố quyết định hiệu lực, hiệu quả của các cơ


22

quan Nhà nước. Do đó, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, nhất là công tác
quản lý cán bộ có vai trò rất quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
trong sạch vững mạnh. Một mặt, phải thu hút nhân tài vào làm việc trong bộ
máy Nhà nước, mặt khác phải có chính sách ngăn chặn người không có thực
tài, thiếu năng lực, nhưng thừa thủ đoạn luồn lách trong hoạt động Nhà nước.
Vấn đề ngạch bậc trong hệ thống công chức nhà nước hiện nay cũng cần
được xem xét theo hướng, chỉ có công việc ở cấp hành chính nào mới cần đến
công chức hành chính cao cấp, không nên phân bổ ngạch bậc công chức cao cấp
như một chính sách đãi ngộ vật chất và tinh thần cho cán bộ như hiện nay. Tách
bạch chức vụ quản lý và ngạch công chức như hiện nay là đúng, nhưng có xu
hướng ngạch công chức xã với công việc của cán bộ lại chưa hợp lý. Điều này
liên quan chặt chẽ đến công tác cải cách hành chính Nhà nước hiện nay. Xây dựng
nhà nước pháp quyền nhất định phải tạo ra bộ máy nhà nước có nền hành chính
hiện đại, luôn lấy việc phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội là tiêu chí hàng đầu. Những năm vừa qua, tiến độ cải cách hành chính khá
chậm, chưa đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của phát triển kinh tế - xã hội, làm
hạn chế những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước. Trong cải cách hành
chính nói chung, cải cách bộ máy hành chính là rất quan trọng, liên quan chặt chẽ
đến công tác tổ chức cán bộ của Đảng ta.
2.5. Phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội đối với các cơ quan nhà nước và công chức, viên chức nhà
nước.
Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận đối
với cơ quan nhà nước, công chức, viên chức nhà nước; đồng thời tăng cường
vai trò giám sát của các đoàn thể chính trị - xã hội đối với cơ quan nhà nước

và với công chức, viên chức hoạt động trong các cơ quan đó.


23

PHẦN KẾT LUẬN
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một đòi hỏi
khách quan của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để tăng
cường và nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nhất thiết
phải nắm vững đối tượng, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước. Trên cơ sở đó chủ động đổi mới, tìm kiếm các biện pháp để tăng
cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung, với các
cấp chính quyền địa phương nói riêng.
Đảng phải thực sự coi trọng và tôn trọng chính quyền nhà nước. Đảng
không được bao biện, làm thay chính quyền. Đảng phải hoạt động trong
khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Mọi đảng viên và tổ chức đảng phải
tuân thủ pháp luật - pháp luật là thể hiện ý chí của Đảng, song, sau khi ra đời,
pháp luật ràng buộc trở lại hoạt động của đảng viên và tổ chức đảng, không
cho phép chấp hành một cách tùy tiện.
Để lãnh đạo được xã hội và Nhà nước, Đảng phải có đủ năng lực, trí
tuệ và phẩm chất, bản lĩnh để hoạch định đường lối đúng cho toàn xã hội, có
khả năng thể chế hóa đường lối và tổ chức thực hiện đường lối đó. Khi cầm
quyền, Đảng phải thường xuyên và tích cực chống nguy cơ quan liêu, xa rời
quần chúng, thoái hóa biến chất, rơi vào đặc quyền đặc lợi, cắt đứt mối liên hệ
máu thịt giữa Đảng với nhân dân - nguồn sức mạnh của Đảng.
Đảng thực thi vai trò, chức năng và nhiệm vụ lãnh đạo, xét đến cùng, là
để bảo đảm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Đảng là người lãnh đạo, đồng thời là người đày tớ
trung thành của Nhân dân. Nhân dân là cơ sở xã hội, là điểm xuất phát và mục
tiêu hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đảng cũng như Nhà nước, chỉ có một

mục đích, một lý do duy nhất tồn tại là vì cuộc sống, quyền tự do và hạnh
phúc của Nhân dân.


24

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2001
2- Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
3- Nguyễn Hoàng Phê (chủ biên), (1995), Viện ngôn ngữ học xuất bản.
4- Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, T5, Nxb CTQG.
5- V.I.Lê-nin (1978), Toàn tập, T43, Nxb Tiến bộ.
6- Tạp chí xây dựng Đảng


25

MỤC LỤC


×