LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU
TƯ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. DỰ ÁN ĐẦU TƯ
1.1.1. Hoạt động đầu tư
Bất kỳ một quốc gia nào nói chung hay một doanh nghiệp nói riêng đều
hướng tới mục tiêu tăng trưởng và phát triển. Để đạt được sự tăng trưởng
trong sản xuất kinh doanh hay rộng hơn là sự phát triển kinh tế xã hội thì
nhất thiết phải đầu tư. Vậy hoạt động đâù tư là gì?
Lý thuyết phát triển đã chỉ ra rằng: Khả năng phát triển của một quốc gia
được hình thành bởi các nguồn lực về vốn, công nghệ, lao động và tài nguyên
thiên nhiên. Đó là hệ thống các mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau rất chặt chẽ
được biểu hiện bằng phương trình:
D = f ( C,T, L, R )
Trong đó: D : Khả năng phát triển của quốc gia.
C, T, L, R : Khả năng vốn, công nghệ, lao động và tài nguyên.
Và phương trình này được xây dựng và thực hiện thông qua hoạt động
đầu tư.
Hoạt động đầu tư được hiểu như là việc huy động nguồn lực để biến các
lợi ích dự kiến thành hiện thực trong một khoảng thời gian đầu tư dài trong
tương lai. Các nguồn lực ở đây chính là vốn, con người, tài nguyên thiên nhiên
và thời gian...và lợi ích dự kiến có thể lượng hố được (tức là đo được hiệu quả
bằng tiền) như sự tăng lên của sản lượng và lợi ích khơng thể lượng hố được
như sự phát triển trong lĩnh vực giáo dục quốc phòng, giải quyết các vấn đề xã
hội...
Đứng trên góc độ xã hội đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh để từ đó
thu được các hiệu quả kinh tế, xã hội vì mục tiêu phát triển quốc gia. Cịn trên
góc độ doanh nghiệp, hiểu đơn giản đầu tư là việc bỏ vốn kinh doanh để mong
thu được lợi nhuận trong tương lai.
Nhưng dù đứng trên góc độ nào chúng ta cũng đều thấy hoạt động đầu tư
là điều kiện cần để thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh hay rộng hơn là
phát triển kinh tế xã hội.
Hoạt động đầu tư có tính chất đặc biệt được thể hiện trên những đặc
điểm sau:
Do là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước hết là
quyết định tài chính. Với một lượng vốn hữu hạn nên bỏ vốn ra bao nhiêu và
thu được bao nhiêu, hiệu quả đạt được như thế nào?
Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài, mang nặng tính rủi ro
và do vậy ln cần sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương
lai.
Đầu tư nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, khơng phải chỉ lợi ích riêng mà
cả lợi ích chung do vậy cần có sự quản lý. Để quản lý được một cách khoa học
và thuận tiện người ta thường phân loại đầu tư theo các tiêu thức khác nhau:
* Theo cơ cấu vốn đầu tư được chia thành các loại như sau:
- Đầu tư tài sản cố định (TSCĐ)
Đây là loại đầu tư nhằm mua sắm, cải tạo, mở rộng tài sản cố định trong
doanh nghệp. Thông thường vốn đầu tư cho loại tài sản này chiếm một tỷ
trọng lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Loại này có thể bao gồm:
+ Đầu tư xây lắp
+ Đầu tư máy móc thiết bị
+ Đâu tư tài sản cố định khác
Đầu tư cho tài sản cố định cịn có thể phân thành đầu tư tài sản hữu hình
(nhà xưởng, máy móc, thiết bị... ) và đầu tư tài sản vơ hình ( danh tiếng, bằng
phát minh sáng chế, tên thương mại...)
- Đầu tư tài sản lưu động (TSLĐ)
Đây là khoản đầu tư hình thành nên tài sản lưu động cần thiết bảo đảm
cho sản xuất kinh doanh tiến hành hoạt động bình thường. Khi có sự tăng
trưởng của doanh nghiệp ở một mức độ nào đó thì sẽ địi hỏi phải có sự bổ
sung tài sản lưu động.
- Đầu tư tài sản tài chính:
Trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể lựa
chọn đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu. Loại tài sản này
có thể mang lại các lợi ích tài chính trong tương lai.
Việc phân loại đầu tư theo cơ cấu vốn giúp cho doanh nghiệp có thể xem
xét tính chất hợp lý của các khoản đầu tư trong tổng thể đầu tư của doanh
nghiệp để đảm bảo xây dựng được một kết cấu tài sản thích ứng với điều kiện
cụ thể của từng doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao.
* Theo mục tiêu đầu tư có thể chia thành các loại như sau:
- Đầu tư tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp
- Đầu tư đổi mới sản phẩm
- Đầu tư thay đổi thiết bị
- Đầu tư mở rộng xuất khẩu sản phẩm, nâng cao chất lượng, mở rộng thị
trường tiêu thụ.
- Đầu tư khác: như góp vốn thực hiện liên doanh với các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế khác, đầu tư vào tài sản tài chính v.v... Việc phân loại này giúp cho
doanh nghiệp có thể kiểm sốt được tình hình thực hiện đầu tư theo những
mục tiêu nhất định.
Mục tiêu đầu tư sẽ được thể hiện dưới các kết quả tài chính, kết quả kinh
tế và kết quả xã hội. Mỗi nhà đầu tư khi theo đuổi mục tiêu nào đó sẽ cố gắng
đạt được tối đa kết quả đó. Muốn tối đa hố hiệu quả đầu tư thì trước khi
quyết định đầu tư nhất thiết phải có dự án đầu tư. Trên thực tế, hoạt động đầu
tư được thể hiện tập trung qua việc thực hiện các dự án đầu tư. Vậy dự án đầu
tư là gì?
1.1.2. Dự án đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm và vai trò của dự án đầu tư
- Khái niệm:
Về bản chất, Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo
mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt sự tăng
trưởng về số lượng, cải tiến hay nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ
nào đó trong khoảng thời gian xác định.
Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động kinh tế đặc thù với các mục
tiêu, phương pháp và phương tiện cụ thể để đạt được đến trạng thái mong
muốn. Dự án đầu tư dài hạn được thể hiện bằng văn bản pháp lý làm căn cứ
để thực hiện những mục tiêu đầu tư.
Xét về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một
cách chi tiết, đầy đủ, khoa học, và toàn diện một dự kiến đầu tư trong tương
lai. Đây cũng là phương tiện chủ yếu mà chủ đầu tư sử dụng để thuyết phục
nhằm nhận được sự ủng hộ về mặt tài chính từ phía Chính phủ, các tổ chức tài
chính.
Xét trên góc độ quản lý thì dự án đầu tư là cơ sở để các cơ quan quản lý
Nhà nước xem xét, phê duyệt cấp giấy phép đầu tư, là căn cứ quan trọng để
đánh giá và đưa ra những điều chỉnh kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong
quá trình thực hiện và khai thác dự án và là cơ sở pháp lý để xem xét. xử lý khi
có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư.
Cịn đứng trên phương diện kế hoạch hố, dự án đầu tư là một công cụ
thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát
triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ.
Từ các khái niệm nêu trên về dự án đầu tư ta dễ dàng có thể thấy được dự
án đầu tư có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế trong quá trình hội nhập và
phát triển của nước ta hiện nay:
- Dự án đầu tư có vai trị thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như tiến bộ xã
hội.
- Nhờ có các dự án đầu tư có hiệu quả mà có thể khai thác các nguồn lực
trong nước cũng như các nguồn tài trợ, đầu tư của nước ngoài.
- Qua các dự án đầu tư có thể phát huy được các nguồn lực trong nước:
nguồn lao động, trình độ quản lý.
- Các dự án đầu tư có thể giải quyết được các mối quan hệ cung cầu về
hàng hoá và dịch vụ trên thị trường.
1.1.2.2. Phân loại dự án đầu tư
Các loại dự án đầu tư rất đa dạng nên việc quản lý, phân tích dự án địi
hỏi rất tốn kém tiền bạc và thời gian song tất cả cơ hội kinh doanh đều đòi hỏi
phải được xem xét, do vậy cần phân loại các dự án đầu tư để xác định những
tiêu thức, mức độ quản lý cũng như phân tích đối với mỗi loại. Dự án đầu tư có
thể được phân loại như sau:
- Phân loại dự án theo quy mô: Đây là sự phân loại dựa trên các tiêu thức
như:
+ Tầm quan trọng của dự án.
+ Quy mô ngân quỹ đầu tư cho dự án.
+ Phạm vi ảnh hưởng của dự án đầu tư.
- Phân loại theo mục đích: Dựa trên các chức năng hay mục đích người ta
có thể phân loại các dự án thành:
+ Dự án đổi mới thiết bị công nghệ.
+ Dự án đẩy mạnh tiêu thụ những sản phẩm hiện có trên thị trường
+ Dự án tung những sản phẩm vào thị trường mới.
+ Dự án chế tạo sản phẩm mới.
+ Dự án cải tiến sẩn phẩm hiện có.
- Phân loại theo mối quan hệ các dự án: Để đánh giá tính hiệu quả của dự
án người ta có thể phân loại các dự án dựa vào mối quan hệ của chúng:
+ Dự án độc lập: Là những dự án có đặc điểm là khi được chấp thuận
hay từ chối đều khơng ảnh hưởng dịng tiền của các dự án khác. Khi hai dự án
được coi là độc lập về kinh tế thì việc đánh giá và chấp nhận hay từ chối dự án
nào đó sẽ khơng chịu ảnh hưởng bởi quyết định của dự án kia.
Tuy nhiên ở đây ta chỉ xét đến sự độc lập về kinh tế, cịn giữa các dự án
ln tồn tại nhiều mối tương quan trên nhiều phương diện: sự chi phối của các
chính sách kinh tế vĩ mơ, sự tăng giảm giá trị đồng tiền...
+ Dự án loại phụ thuộc: Đó là dự án có dịng tiền ( thu nhập, chi phí )
chịu sự quyết định chấp thuận hay từ chối dự án khác. Trên thực tế, loại dự án
này thường là loại dự án lệ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế và một dự án chịu lệ
thuộc vào dự án khác nhưng ngược lại, nó cũng có những ảnh hưởng nhất
định đối với những dự án mà nó lệ thuộc.
+ Dự án loại trừ nhau: Là loại dự án mà khi một dự án được chấp
thuận sẽ làm triệt tiêu hoàn toàn những khoản lợi nhuận tiềm tàng thu được
từ dự án khác. Tức là nếu một trong các dự án được chấp thuận thì những dự
án cịn lại sẽ bị bác bỏ. Trên thực tế khả năng huy động tài chính cho đầu tư
cũng có giới hạn đối với chủ đầu tư, trong trường hợp đó các dự án đầu tư sẽ
loại trừ nhau, cạnh tranh nhau về mặt ngân quỹ, vốn đầu tư tạo ra mức độ phụ
thuộc lẫn nhau giữa các dự án tiềm tàng.
1.1.2.3. Chu trình của một dự án đầu tư
Như vậy, dự án đầu tư có thể được phân chia thành nhiều loại trên các
góc độ khác nhau, nhưng cho dù đứng trên góc độ nào thì dự án đầu tư bao
giờ cũng có chung một chu trình phát triển.
Một cơng cuộc đầu tư được xem như bắt đầu từ khi có ý định về dự án
đầu tư. Từ ý định về dự án đến việc xây dựng, thực hiện và kết thúc dự án là cả
một q trình. Q trình này có thể chia làm 3 giai đoạn : giai đoạn chuẩn bị
đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. trong
mỗi giai đoạn diễn ra nhiều bước với nhiều công việc. Cụ thể là:
* Giai đoạn chuẩn bị đầu tư gồm các bước chính như sau:
- Nghiên cứu cơ hội đầu tư;
- Nghiên cứu tiền khả thi;
- Nghiên cứu khả thi;
- Thẩm định và ra quyết định đầu tư.
* Giai đoạn thực hiện đầu tư gồm các bước chính như sau:
- Khảo sát, thiết kế, lập dự tốn;
- Dự kiến mua thiết bị, công nghệ, vật tư kỹ thuật;
- Tổ chức đấu thầu, chọn thầu, giao nhận thầu;
- Thi công theo đúng thiết kế, tiến độ đã đề ra;
- Tiến hành chạy thử;'
- Bàn giao đưa cơng trình vào khai thác.
* Giai đoạn vận hành kết quả đầu tư gồm các bước chính như sau:
- Tổ chức sản xuất, kinh doanh;
- Kết thúc dự án;
- Đánh giá sau dự án.
Như vậy, thẩm định dự án đầu tư là một khâu trong cả chu trình
nhưng nó có vai trị hết sức quan trọng, và nó được xem là có tính
quyết định đối với sự thành bại của một dự án đầu tư.
1.1.2.4. Các luồng tiền của dự án
Những vướng mắc trong phân tích và đánh gía dự án đầu tư không phải
là nằm trong kỹ thuật thực hiện mà ở việc xác định các luồng tiền của dự án.
Đây là bước quan trọng nhưng cũng khó khăn nhất của q trình phân tích.
Thậm chí những chun gia hàng đầu trong lĩnh vực này cũng mắc phải
những sai lầm rất lớn. Xác định luồng tiền liên quan tới nhiều nhân tố hay biến
số. Đánh giá những nhân tố này có thể rất khó chính xác. Những sai lầm
nghiêm trọng trong việc xác định luồng tiền cụ thể dấn đến những kết luận sai
về việc chấp thuận hay bác bỏ dự án hoặc xếp hạng các dự án đầu tư hoàn
toàn ngược lại như nó phải có.
Gần như tất cả các dự án được phân tích dựa trên cơ sở giả định cơng ty
đang trong q trình hoạt động liên tục. Điều đó có nghĩa là có đã thực hiện
một khoản đầu tư nào đó và cũng đã có những luồng tiền thu nào đó. Như thế,
việc phân tích dự án chỉ thích hợp khi xem xét những luồng tiền đầu tư mới và
những luồng tiền thu mới do việc đầu tư mới tạo ra. Nói cách khác, những
luồng tiền thích hợp cho việc phân tích dự án vốn ( bao gồm luồng tiền chi phí
và luồng tiền thu rịng sau khi dự án đi vào hoạt động ), là những luồng tiền do
việc thực hiện dự án tạo ra. Người ta còn gọi đây là những luồng tiền tăng lên.
Sau đây, chúng ta sẽ đề cập những vấn đề cơ bản trong việc xác định
luồng tiền chi phí và luồng tiền thu nhập.
a. Xác định luồng tiền ra của dự án:
Phần lớn các dự án đầu tư đòi hỏi các khoản chi phí đầu tư ngay từ ban
đầu, sau đó các luồng tiền thu rịng mới xuất hiện. Nói chung việc xác định các
chi phí đầu tư khơng phức tạp như xác định các luồng tiền thu:
Chi phí mua sắm hàng hoá và lắp đặt: Nếu như chúng ta mua một thiết bị
thì khơng chỉ đơn giản tính giá mua là chi phí đầu tư, mà chúng ta phải tính
thêm vào đó cả những chi phí liên quan cho đến khi có thể đưa thiết bị vào
hoạt động. Chẳng hạn, chi phí vận chuyển bảo hiểm, lắp đặt, vận hành thử.
Chúng được cộng vào giá mua tài sản cố định (hàng hố vốn) để xác định chi
phí đầu tư.
Chi phí cơ hội: Cần đưa các loại chi phí cơ hội vào hạch toán cho dự án.
Trong nhiều trường hợp doanh nghiệp đã sở hữu sẵn một số tài sản hữu dụng
cho việc thực hiện dự án. Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp khơng phải bỏ chi
phí mua tài sản đó nữa. Chi phí cơ hội của một tài sản là giá trị hiện giá cao
nhất dòng lưu kim thuần do tài sản đó tạo ra nếu dự án đầu tư khơng sử dụng
nó. Nhưng chi phí này khơng phải là chi phí thực tế khơng đưa vào hạch tốn
kế toán, tuy nhiên khi xem xét, đánh giá dự án nó liên quan trực tiếp tới cơ hội
lựa chọn dự án nên chi phí này sẽ được xem như một phần chi phí đầu tư.
Chi phí chìm: Chi phí chìm là chi phí đã xuất hiện từ trước mà khơng thể
bù đắp cho dù dự án có được chấp nhận hay khơng. Chi phí chìm như thế
khơng phải là chi phí tăng lên nên khơng được bao hàm trong phân tích.
Đầu tư mới vào vốn lưu động rịng: Hầu như tất cả các dự án khơng
những địi hỏi đầu tư vào tài sản cố định mà còn đòi hỏi đầu tư vào vốn lưu
động rịng.
Vốn lưu động rịng được tính bằng tổng tài sản lưu động trừ đi nguồn vốn
ngắn hạn. Tại sao khơng phải tồn bộ sự tăng lên của tài sản lưu động (bao
gồm tiền mặt, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm tồn kho ) đòi
hỏi phải được tài trợ mà chỉ đòi hỏi vào vốn lưu động ròng. Vấn đề là ở chỗ bất
kỳ sự tăng lên nào của tài sản lưu động cũng phải địi hỏi tài trợ bằng một
cách nào đó, tuy nhiên có một số nguồn vốn ngắn hạn cũng tăng lên một cách
tự động hay đồng thời cùng với việc mở rộng sản xuất và bán hàng. Đó là
những nguồn vốn như phải trả người cung cấp, lương phải trả, thuế phải trả.
Sự tăng lên của các nguồn này đã tự động tài trợ cho một phần sự tăng lên của
tài sản lưu động. Chính vì vậy nhu cầu địi hỏi tài trợ vốn tài trợ vốn từ bên
ngoài vào tài sản lưu động thường nhỏ hơn sự tăng lên của bản thân nó.
Chúng ta có thể kết luận rằng: Trong trường hợp vốn lưu động rịng
dương, địi hỏi doanh nghiệp phải có một nguồn tài trợ vượt quá số vốn đầu tư
vào tài sản cố định để tài trợ cho sự tăng lên của tài sản lưu động.
b. Xác định luồng tiền thu của dự án ( luồng tiền vào):
Luồng tiền hoạt động sau thuế (dòng tiền sau thuế): Đối với mọi dự án
đầu tư, mục tiêu đặt ra là phải tạo ra một lượng tiền trong suốt thời gian tồn
tại của dự án khơng những đủ bù đắp chi phí đầu tư bỏ ra ban đầu, mà cịn có
phần dơi ra (lãi đầu tư ). Tất cả chi phí đầu và luồng tiền thu đều được tính
trên cơ sở luồng tiền chiết khấu (quy các luồng tiền về giá trị hiện tại). Tuy
nhiên, sau khi kết thúc giai đoạn đầu tư và dự án đi vào hoạt động, không phải
giá trị đầy đủ của tất cả các luồng tiền hoạt động đầu tư thích hợp cho sự
phân tích. Luồng tiền thích hợp ở đây là luồng tiền sẵn sàng cho việc sử dụng,
tức là sẵn sàng cho việc chia lãi đầu tư. Luồng tiền như thế phải là luồng tiền
hoạt động sau thuế.
Ký hiệu :
CF : Dòng tiền dự án
D : Khấu hao;
TD : tiết kiệm thuế từ khấu hao;
R : Lãi vay;
TR : Tiết kiệm thuế từ lãi vay;
EBIT : Lợi nhuận trước thuế và lãi;
T
: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ta có :
CF = EBIT + D; EBIT = CF - D
Lợi nhuận trước thuế = EBIT - R = CF - D - R;
Thuế thu nhập = T ( CF - D - R )
Dòng tiền sau thuế = CF - T ( CF - D - R )
= ( 1 - T ) CF + TD + TR
Tiết kiệm thuế từ khấu hao là phần thu nhập hoạt động, còn tiết kiệm
thuế từ lãi vay phản ánh sự thật là dự án đầu tư được tài trợ bằng vốn vay,
hay TR liên quan đến phương pháp tài trợ dự án. Mặc dù tiết kiệm thuế do lãi
vay là một nguồn của dòng tiền sau thuế. Nhưng theo thơng lệ kế tốn nó
được đưa vào chi phí sử dụng vốn. Sự thật là chi phí lãi vay bao hàm trong
cơng thức tính chi phí trung bình của vốn (WACC) đã được điều chỉnh đối với
thuế (chi phí nợ sau thuế). Do vậy, về lý luận cũng như trong thực tiễn, chúng
ta sử dụng chi phí nợ sau thuế để tính WACC và sử dụng WACC để chiết khấu
thu nhập ròng của dự án. Thu nhập ròng của dự án chính là dịng tiền sau thuế
nhưng khơng tính phần tiết kiệm thuế do lãi vay.
Thu nhập ròng của dự án = ( 1 - T ) CF + TD
= (1 - T) lợi nhuận trước thuế + D + (1 - T) R
vì (1-T)R chính là chi phí nợ sau thuế đã tính WACC và sử dụng WACC để
chiết khấu thu nhập ròng của dự án nên:
Thu nhập ròng của dự án = (1-T)lợi nhuận trước thuế + D
= Lợi nhuận sau thuế + D
Trong trường hợp sử dụng lãi vay trong tỷ lệ chiết khấu thì:
Thu nhập ròng của dự án = LNST + D + R
Vấn đề về khấu hao: Trong kế toán, khấu hao là một loại chi phí làm giảm
giá trị tài sản cố định được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm. Vì vậy, được xem
là một khoản chi phí nên khấu hao là chi phí kế tốn. Đây là loại chi phí khơng
xuất quỹ nên khơng được xem như một luồng tiền của dự án. Tuy khấu hao
không phải là một luồng tiền, nhưng nó tác động đến luồng tiền một cách gián
tiếp thông qua thuế. Mỗi khi mức khấu hao thay đổi nó sẽ tác động đến mức
thuế phải nộp. Việc tăng chi phí khấu hao sẽ làm giảm số lượng thuế phải nộp,
tức là tạo ra một sự tiết kiệm về thuế, và nhờ đó làm tăng luồng tiền sau thuế.
Khoản thu hồi vốn lưu động: Trong phần xác định luồng tiền đầu tư,
chúng ta đã nói tới khoản đầu tư vào vốn lưu động ròng. Đây là phần tăng lên
của tài sản lưu động ( các khoản phải thu là hàng tồn kho) đòi hỏi nguồn tài
trợ từ bên ngoài. Khi kết thúc dự án hàng tồn kho được bán hết và không được
thay thế, các khoản phải thu được chuyển thành tiền mặt, doanh nghiệp sẽ thu
hồi được khoản vốn đã đầu tư vào vốn lưu động ban đầu. Luồng tiền thu hồi
vốn đầu tư này được cộng vào luồng tiền hoạt động sau thuế để xác định luồng
tiền ròng cuối cùng.
Giá trị thu hồi tài sản cố định: Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi tài
sản cố định. Các phuơng tiện, thiết bị sản xuất, nhà xưởng, khi dự án kết thúc
còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được bán, sẽ có một luồng
tiền cuối của dự án. Luồng tiền này cùng với các luồng tiền khác nói ở trên hợp
thành luồng tiền ròng của dự án.
c. Sự khác nhau giữa thu nhập kế toán với luồng tiền dự án:
Trong dự án đầu tư, người ta quan tâm đến luồng tiền chứ khơng phải
thu nhập kế tốn. Nói chung giữa luồng tiền và thu nhập kế tốn có sự khác
nhau đáng kể. Các sự khác nhau này được thể hiện:
Khấu hao được thừa nhận trong kế tốn khi tính vào thu nhập, nhưng
không được thừa nhận là một luồng tiền của dự án, và đây khơng phải là chi
phí bằng tiền thực tế.
Chi phí lãi vay là khoản vừa là chi phí vừa là chi tiêu bằng tiền thực sự,
nhưng khơng được khấu trừ chi phí lãi vay vào doanh thu, vì chi phí lãi vay
tượng trưng cho thời gian của tiền tệ và khoản tiền này đã được tính bằng
cách chiết khấu dịng tiền tương lai. Khấu trừ tiền lãi vào dịng tiền cũng là
tính lãi gấp đơi.
Chi phí thua lỗ vốn đầu tư của dự án trong q khứ theo hạch tốn kế
tốn vẫn là chi phí cho kỳ này tuy nhiên nó khơng được xem xét đến trong dự
án mới.
Các chi phí quản trị chung được xem xét trong hạch toán dự án sẽ chỉ là
những chi phí phát sinh trực tiếp từ dự án.
1.1.2.5. Nguồn tài trợ dự án
Hoạt động đầu tư bao giờ cũng địi hỏi phải có một lượng vốn lớn, phải có
thời gian dài nên chủ đầu tư thường không chỉ dùng một nguồn vốn duy nhất
để đầu tư mà để tài trợ cho một dự án, nhà đầu tư có thể khai thác ở các
nguồn sau:
+ Nguồn tài trợ từ vốn ngân sách: chỉ đối với lĩnh vực đâù tư mang tính
chất chính sách của kinh tế Nhà nước.
+ Nguồn vốn chủ sở hữu:
- Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp
- Các quỹ của doanh nghiệp
- Huy động vốn cổ phần phát hành thêm cổ phiếu…
+ Nguồn vốn đi vay theo các hình thức:
- Vay của các tổ chức tín dụng
- Phát hành trái phiếu.
Huy động và sử dụng nguồn vốn nào thì nhà đầu tư cũng phải bỏ ra
một khoản chi phí được gọi là chi phí vốn.
Tuỳ theo quy mơ đầu tư, nhu cầu vốn, chi phí vốn mà chủ đầu tư sẽ lựa
chọn nguồn tài trợ cho dự án sao cho có thể tối đa giá trị tài sản chủ sở hữu.
1.1.3. Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của ngân hàng thương
mại:
1.1.3.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tỏ chức kinh doanh tiền tệ, thực hiện các
nhiệm vụ đổi tiền, giữ hộ tiền, chi trả hộ và cho vay. Sự ra đời và hoạt động của
ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển và tiến bộ của
loài người. Ngân hàng xuất hiện không theo ý muốn chủ quan mà nó có cơ sở
kinh tế là sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, và sự phát triển và trao
đổi hàng hoá lại đặt ra những yêu cầu ngân hàng có những nghiệp vụ này
nghiệp vụ kia.
Vai trò to lớn của hoạt động ngân hàng đối với sự phát triển của nền kinh
tế xã hội được xuất phát từ đặc trưng của nó. Ngân hàng có những hoạt động
đặc thù khác xa với các tổ chức kinh tế khác, điều này xuất phát từ chức năng
kinh doanh tiền tệ với tư cách là một tổ chức trung gian tài chính.
Mơ hình xuất phát của sự phát triển kinh tế là biến tiết kiệm thành đầu tư.
Trên thực tế, để dẫn vốn từ tiết kiệm thành đầu tư có thể thơng qua hai con
đường là tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp ( thơng qua các tổ chức
trung gian tài chính trong đó đáng kể nhất là các ngân hàng thương mại ).
Mặc dù không phải là tổ chức trung gian tài chính duy nhất trong nền
kinh tế trong quá trình hoạt động ngân hàng thương mại chứng tỏ được vai
trò là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng vào bậc nhất bởi bề dày
kinh nghiệm cũng như những lợi thế khác trong hoạt động.
Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại:
• Huy động vốn:
Trong hoạt động Ngân hàng, vốn tự có thường chiếm tỷ trọng nhỏ
trong nguồn vốn. Vốn tự có của ngân hàng được hình thành từ vốn ngân
sách của Nhà nước cấp, vốn cổ phần, liên doanh liên kết, tự tích luỹ... tuỳ
thuộc từng loại hình ngân hàng. Để thực hiện mở rộng hoạt động kinh
doanh của mình, các ngân hàng phải huy động vốn trong nền kinh tế như
nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Đồng thời
trong những trường hợp cần thiết, để đáp ứng nhu cầu thanh toán, khoản
đầu tư hay cho vay, ngân hàng cũng có thể đi vay Ngân hàng trung ương,
các tổ chức tín dụng khác.
Khi sử dụng vốn huy động, vốn vay, ngân hàng phải bỏ ra những chi phí
nhất định: chi phí trả lãi, chi phí giao dịch, chi phí liên quan khác. Những chi
phí này sẽ được bù đắp đồng thời ngân hàng thu lợi nhuận thơng qua hoạt
động sử dụng vốn.
• Hoạt động sử dụng vốn:
Hoạt động ngân quỹ: là việc ngân hàng nắm giữ tiền mặt tại két, các
khoản tiền gửi thanh toán ở Ngân hàng trung ương và các ngân hàng
thương mại khác, tiền trong quá trình thu, theo quy định về dự trữ bắt buộc
của Ngân hàng trung ương đồng thời để nhằm bảo đảm khả năng thanh
toán, tránh rủi ro mất khả năng thanh tốn có thể dẫn đến sự sụp đổ của
ngân hàng, chính ngân hàng cũng để ra một khoản dự phịng... hoạt động
này thường khơng sinh lời.
Hoạt động cho vay: Là sự thể hiện của quan hệ tín dụng- quan hệ tạm
thời sử dụng vốn của nhau- quan hệ giữa ngân hàng và phần còn lại của nên
kinh tế trên sự tin tưởng có vay có trả. Trong quan hệ này thì ngân hàng vừa
là người cho vay vừa là người đi vay. Đây là hoạt động mang tính chất
truyền thống của Ngân hàng.
Hoạt động đầu tư: Là hoạt động ngân hàng sử dụng nguồn vốn của
mình đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu cơng ty, trái phiếu chính
phủ hoặc tham gia góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp để hưởng lãi
suất hoặc chia lợi nhuận .
Hoạt động trung gian thanh toán: Trên cơ sở các mối quan hệ thiết lập
với khách hàng, các ngân hàng trong nước cũng như các ngân hàng ngồi
nước, ngân hàng thực hiện thanh tốn qua: Hệ thống thanh toán bù trừ
giữa các ngân hàng ( với hệ thống ngân hàng ), phát hành các loại séc, thẻ
ngân hàng, thực hiện trích tài khoản, chuyển khoản, thanh tốn trực tiếp
cho các cá nhân... Qua đó ngân hàng thu phí, tỷ trọng của hoạt động này
ngày càng tăng.
Cung cấp các dịch vụ khác: Ngân hàng thương mại còn thu phí dịch vụ
thơng qua các hoạt động khác như: tư vấn đầu tư, bảo lãnh ( dự thầu thanh
toán, phát hành chứng khoán...), làm đại lý, quản lý két... bới ngân hàng có
những ưu thế về uy tín, trình độ chuyên môn nguồn thông tin và các mối
quan hệ rộng khắp.
Giữa các hoạt động cuả Ngân hàng thương mại tồn tại mối quan hệ
hữu cơ liên hệ trực tiếp với nhau. Ngân hàng có thể tăng cường cho vay, đầu
tư khi huy động được nguồn vốn dồi dào và rẻ. Đồng thời, những khách
hàng đối tác trong huy động vốn, cho vay, đầu tư (cá nhân, tổ chức kinh
tế...) của ngân hàng thường sử dụng các dịch vụ khác ở ngân hàng này như
thanh toán chuyển tiền. Ngược lại, chất lượng dịch vụ cao, phí phải chăng sẽ
thu hút khách hàng, tăng nguồn vốn huy động cho ngân hàng, mở rộng thị
trường cho vay, đầu tư...
Trên cơ sở nhu cầu phát triển của nền kinh tế và mối quan hệ gắn bó
hữu cơ kể trên ngày nay các ngân hàng thương mại đều phát triển theo
hướng đa năng, tỷ trọng thu nhập từ hoạt động dịch vụ trung gian ngày
càng tăng bên cạnh sự vững mạnh và tăng trưởng của các hoạt động mang
tính chất truyền thống.
1.1.3.2. Hoạt động cho vay theo dự án đầu tư của Ngân hàng
thương maị
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng theo đó ngân hàng giao cho
khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích nhất định với
thời hạn xác định theo ngun tắc có hồn trả cả gốc và lãi.
Với mục tiêu cung cấp vốn cho nền kinh tế với các đối tượng khác nhau,
nhu cầu khác nhau, hoạt động cho vay được tiến hành theo nhiều hình thức:
Cho vay từng lần ( từng món ): Phương pháp này áp dụng cho các
khách hàng có nhu cầu vay vốn không thường xuyên hoặc đối với những
khách hàng mà ngân hàng xét thấy cần phải áp dụng phương pháp này để
dễ dàng giám sát kiểm tra và quản lý việc cho vay.
Mỗi hợp đồng tín dụng có thể phát tiền vay một lần hay nhiều lần phù
hợp với tiến độ và yêu cầu vốn thực tế của khách hàng. Mỗi lần nhận tiền
vay khách hàng phải lập khế ước nhận nợ. Ngân hàng quản lý chặt chẽ
doanh số cho vay để đảm bảo rằng tổng số tiền trên khế ước nhận nợ không
vượt quá tổng số tiền ghi trên hợp đồng tín dụng ban đầu.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Khách hàng và ngân hàng xác định
mức tín dụng tối đa được duy trì trong một thời gian xác định và theo đó dư
nợ cuả khách hàng tại bất kỳ thời điểm nào đó khơng được vượt quá hạn
mức đưa ra. Phương thức cho vay này thường được áp dụng với những
khách hàng lớn, có nhu cầu vốn thường xun ( có dịng tiền tài chính ra vào
tương đối ổn định ) và khách hàng này được ngân hàng tín nhiệm.
Cho vay trả góp: Ngân hàng và khách hàng xác định số tiền lãi vay phải
trả cộng với số tiền nợ gốc. Tổng số tiền vay được chia ra để trả theo từng
kỳ hạn trả nợ, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu bên vay khi họ đã
hoàn trả hết nợ gốc và tiền lãi. Khách hàng vay theo phương thức này phải
có phương án trả nợ khả thi bằng các khoản thu nhập có cơ sở chắc chắn.
Cho vay theo dự án đầu tư: áp dụng cho nhu cầu vay vốn trung và dài
hạn để phục vụ đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Vay theo hình thức
này khách hàng phải trả mức lãi suất cao phù hợp với tính rủi ro do thời
gian cho vay vốn dài, ngồi ra cịn phải trả phí cam kết nếu có u cầu ra
hạn mức tín dụng.
Để ra quyết định tài trợ cho vay vốn ngân hàng quan tâm nhất đến việc
thu hồi vốn vay và lãi vay, và mối quan tâm này đặc biệt quan trọng đối với
phương thức cho vay theo dự án đầu tư bởi những đặc trưng của dự án đầu
tư là:
- Cho vay theo dự án thường đòi hỏi thời gian dài mà đi cùng với thời gian dài
thì yếu tố rủi ro càng cao. Rủi ro xảy ra có thể do chủ quan hay khách quan.
Chủ quan là về phía khách hàng vay vốn ( thay đổi trong kế hoạch sản xuất dự
án đầu tư, bùng nợ, cố tình làm ăn kém hiệu quả để thu lợi ích riêng... ). Rủi ro
mang tính khách quan là các yếu tố rủi ro thuộc về thị trường ( thay đổi sức
mua, giá, sản phẩm cạnh tranh ), về cơ chế kinh tế, chính sách kinh tế tài chính
của Nhà nước...Rủi ro xảy ra dù theo nguyên nhân nào đều ảnh hưởng trực
tiếp tới khả năng trả nợ của khách hàng, khả năng thu nợ của ngân hàng,
giảm hiệu quả dụng vốn, giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Mặt khác, dự án đầu tư thường đòi hỏi lượng vốn lớn, và để đảm bảo cho
khoản vốn vay đó khơng phải lúc nào cũng có thể đảm bảo bằng tài sản bởi
khó có thể tìm ra một tài sản có giá trị lớn hơn hoặc bằng giá trị khoản vốn
vay tại thời điểm đó, hơn nữa nếu có thì khi xảy ra trường hợp khách hàng
mất khả năng thanh toán ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc phát mại tài
sản đó để thu hồi vốn. Do vậy, vốn cho vay theo dự án đầu tư thường được bảo
đảm bằng chính tính khả thi của dự án. Và việc này đòi hỏi Ngân hàng phải hết
sức coi trọng thẩm định dự án đầu tư để lựa chọn cho vay được các dự án có
tính khả thi cao (cơ sở chắc chắn bảo đảm vốn ), đồng thời loại bỏ những dự
án khơng có tính khả thi thực hiện phương châm hoạt động “An toàn, hiệu
quả”.
1.2. THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.2.1. Thẩm định dự án đầu tư
1.2.1.1.Thẩm định dự án đầu tư và vai trò của thẩm định dự án đầu
tư
Thẩm định dự án đầu tư là quá trình phân tích, đánh giá một cách tồn
diện, khoa học các khía cạnh của một dự án đầu tư để ra các quyết định đầu
tư, cho phép đầu tư hoặc tài trợ.
Mỗi dự án đầu tư đều chứa đựng nhiều nội dung kinh tế kỹ thuật rất
phức tạp. Các nội dung này có mối quan hệ ràng buộc, tương tác, ảnh hưởng
lẫn nhau hình thành nên dự án đầu tư. Do vậy, bất cứ trục trặc nào tại một
mặt nào đó đều ảnh hưởng tới các mặt khác và ảnh hưởng tới hiệu quả cuối
cùng của dự án, thẩm định dự án đầu tư là phải xem xét các khía cạnh và
đưa ra câu trả lời khía cạnh đó đã đảm bảo tính khả thi của dự án hay
chưa.
Thực tế người thẩm định sẽ tiến hành kiểm tra, phân tích đánh giá
từng phần và tồn bộ các mặt, các vấn đề có trong bản nghiên cứu tiền khả
thi và nghiên cứu khả thi trong mối liên hệ mật thiết với chủ dự án đầu tư
và các giả thiết về môi trường mà dự án hoạt động trong đó. Thẩm định dự
án có ý nghĩa giúp các dự án tốt không bị bác và dự án tồi không được chấp
nhận. Tuy nhiên việc nhận định là dự án đó là tốt hay tồi, khả thi hay khơng
khả thi... ở khía cạnh nào đó cịn phụ thuộc vào góc độ của người thẩm định
và khi đó họ sẽ đạt được những mục tiêu nhất định khi tiến hành thẩm định.
• Đối với chủ đầu tư:
Sự sống cón của doanh nghiệp trong tương lai phụ thuộc phần lớn vào
quyết định đầu tư ngày hôm nay. Do vậy, trước khi quyết định đầu tư chủ
đầu tư phải xem xét kĩ lưỡng liệu các lợi ích dự kiến thu được từ dự án có
tương ứng với chi phí bỏ ra hay khơng; mối quan tâm hàng đầu của họ là độ
lớn và tính chắc chắn của luồng tiền trong tuơng lai nhằm tối đa hố lợi ích
tài chính ( giá trị tài sản chủ sở hữu ). Vì vậy thẩm định dự án đầu tư giúp
họ tìm được dự án đầu tư tối ưu, tính khả thi cao trên cơ sở phù hợp với
nguồn lực của doanh nghiệp và khả năng tìm nguồn tài trợ, giảm chi phí
chuẩn bị và thực hiện đầu tư.
• Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
Trên góc độ của tồn nền kinh tế quốc dân, phù hợp với mục tiêu xây
dựng và phát triển đất nước thì việc thẩm định phải dựa trên quan điểm lợi
ích và chi phí xã hội là chính, quan tâm đến sự phù hợp của dự án trong
chiến lược phát triển vùng ngành kinh tế, các vấn đề tác động môi trường,
công ăn việc làm... để từ đó ra quyết định chấp nhận việc thực hiện dự án và
đánh giá dự án sau khi đã hoàn thành.
• Đối với người tài trợ:
Một dự án thường kéo dài đòi hỏi một lượng vốn lớn và bị chi phối bởi
nhiều yếu tố mà trong tương lai có thể sẽ biến động khó lường. Những con
số tính tốn cũng như những nhận định đưa ra trong dự án ( khi lập dự
án ) chỉ là ước tính, dự kiến bởi vậy nên chứa đựng ít nhiều yếu tố chủ quan
của người lập dự án. Người lập dự án có thể là chủ đầu tư hoặc cơ quan tư
vấn do chủ đầu tư thuê lập dự án trên cơ sở ý đồ kinh doanh và mong muốn
của chủ đầu tư. Các nhà soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp ( với mục
tiêu xác định ) để nhìn nhận vấn đề của dự án nên dễ bỏ qua một số yếu tố
liên quan, để làm cho dự án trở nên khả thi nhằm đạt được sự ủng hộ và tài
trợ từ bên ngoài. Như vậy, dự án do chủ đầu tư lập có tính khả thi trước hết
sẽ đứng trên quan điểm lợi ích riêng của họ.
Trên góc độ nhà tài trợ bên cạnh mục tiêu nhằm đóng góp cho sự phát
triển của đất nước, khuyến khích doanh nghiệp thực hiện dự án mang lại
hiệu quả kinh tế chung cho tồn xã hội thì bản thân nhà tài trợ cũng ln
xem xét đến lợi ích riêng của mình, đó là sự bảo toàn và khả năng sinh lời từ
đồng vốn mình bỏ ra. Do vậy đối với nhà tài trợ thẩm định dự án đầu tư
cũng là rất cần thiết để tìm ra dự án khả thi mà nếu bỏ vốn sẽ đem lại lợi ích
cho mình.
Các ngân hàng và tổ chức tín dụng với tư cách một trung gian tài chính
- một nhà tài trợ cho nền kinh tế thì việc thẩm định dựa án đầu tư đặc biệt
quan trọng đối với việc phát huy vai trò, chức năng của mình: Phát triển
kinh tế vững mạnh trên cơ sở hoạt động an toàn và hiệu quả.
1.2.1.2. Nội dung thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư phải đưa ra được cái nhìn tổng quát các vấn
đề của một dự án và thường được tiến hành trên các khía cạnh sau:
• Thẩm định khía cạnh pháp lý:
Việc thẩm định này nhằm khẳng định cơ sở pháp lý cuả dự án, kiểm tra
tính đầy đủ hợp lý, hợp lệ của những hồ sơ liên quan đến dự án đầu tư như:
Giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh, giấy tờ chứng
minh về khả năng tài chính của chủ đầu tư... Đồng thời xem dự án trong mối
liên hệ với việc thực hiện kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế
xã hội cho vùng, ngành quốc gia, mục tiêu của dự án có phù hợp với định
hướng phát triển hay khơng. Từ đó kết luận dự án có được thực hiện hay
khơng.
• Thẩm định thị trường:
Thị trường ở đây bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra
cho sản phẩm của dự án.
Với thị trường đầu vào, cần kiểm tra phân tích khả năng nguồn cung
cấp nguyên vật liệu cho dự án, nguồn cung cấp lao động và các yếu tố khác
theo yêu cầu của dự án; xác định các nhân tố ảnh hưởng trên cơ sở đó chỉ ra
được sự đảm bảo và phù hợp của các phương án dự phịng, xử lý những
nhân tố đó.
Bên cạnh đó, thẩm định thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án cũng
phải được thực hiện một cách chặt chẽ, khoa học bởi đây là khâu hết sức
quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của dự án.
Cần phân tích đánh giá quan hệ cung cầu về sản phẩm của dự án tại
thời điểm hiện tại và tương lai, xác định thị trường chủ yếu cho sản phẩm so
sánh giá thành sản phẩm, giá bán sản phẩm của dự án với giá cả thực tế
trên thị trường cả trong hiện tại và tương lai, để xác định khả năng chiếm
lĩnh thị trường của sản phẩm, xác định lợi thế cạnh tranh của sản phẩm, dự
báo những biến động về giá cả... để từ đó xác định quy mô sản xuất, quy mô
đầu tư, lựa chọn thiết bị công nghệ cho phù hợp. Tuy nhiên, đây là khâu
thẩm định hết sức phức tạp nhưng cũng hết sức quan trọng, để có được
những đánh giá tồn diện, chính xác về khía cạnh này cần phải thu thập đầy
đủ thơng tin, có sự kết hợp tình hình thực tế với số liệu thống kê cũng như
các định hướng chỉ đạo, các chính sách từ phía Nhà nước, các ngành và địa
phương về các vấn đề liên quan.
• Thẩm định khía cạnh công nghệ - kỹ thuật:
Xem xét mức độ hiện đại của công nghệ, sự phù hợp của công nghệ với
điều kiện thực tế và các yêu cầu sản xuất sản phẩm, đánh giá về tính hữu
hiệu của thiết kế dự án và tìm ra cách giải quyết hay quản lý, kiểm tra tính
đồng bộ, phù hợp của máy móc thiết bị với quy mô và công nghệ của dự án,
tính hợp lý của nội dung, tiến độ các hạng mục trong xây dựng cơ bản...
Phân tích kỹ thuật là tiền đề cho việc tiến hành phân tích mặt kinh tế tài
chính, khơng có số liệu của phân tích kỹ thuật thì khơng thể tiến hành phân
tích mặt kinh tế tài chính tuy rằng các thơng số kinh tế có ảnh hưởng đến
các quyết định về mặt kỹ thuật.
Quyết định đúng đắn trong khâu thẩm định này giúp tiết kiệm được các
nguồn lực do lựa chọn được những dự án khả thi về mặt kỹ thuật, đồng thời
tránh gây tổn thất nguồn lực và bỏ lỡ cơ hội tăng nguồn lực. Chi phí địi hỏi
cho khâu thẩm định này cũng lớn thường chiếm trên dưới 80% chi phí
nghiên cứu khả thi và chiếm từ 1-5% tổng chi phí đầu tư.
• Thẩm định khía cạnh tổ chức, quản lý:
Đây là công việc cần thiết bởi chúng ta hiểu rõ tầm quan trọng của
công tác tổ chức quản lý trong bất cứ lĩnh vực hoạt động nào, với dự án đầu
tư, nó tác động đến tiến độ thực hiện dự án và kiểm sốt quy mơ, phạm vi dự
án... Điều đó địi hỏi phải kiểm tra, xem xét số lượng, chất lượng lao động
xem có thể đáp ứng cho việc vận hành có hiệu quả dự án hay khơng, đánh
giá tính hợp lý của bộ máy quản lý hành chính, hệ thống phịng ban,xưởng...
• Thẩm định khía cạnh tài chính dự án:
Thẩm định tài chính nhằm đánh giá khả năng sản sinh nguồn thu nhằm
đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của dự án, thơng qua việc tổng hợp các biến
số tài chính, kỹ thuật đã được tính tốn trong phần thẩm định trước để đưa
ra những bảng dự trù tài chính, tính tốn những chỉ tiêu tài chính tổng hợp
và đây là những số liệu đầu vào cho việc tính tốn hiệu quả kinh tế xã hội
dưới đây.
Đối với chủ đầu tư: Mục đích của việc xem xét mặt tài chính dự án đầu
tư là:
Xem xét nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực
hiện có hiệu quả các dự án đầu tư.
Xem xét tình hình, kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ
hạch tốn kinh tế của đơn vị thực hiện dự án. Có nghĩa là xem xét những chi
phí sẽ và phải thực hiện kể từ khi soạn thảo cho đến khi kết thúc dự án, xem
xét những chi phí sẽ và phải thực hiện kể từ khi soạn thảo cho đến khi kết
thúc dự án, xem xét những lợi ích mà doanh nghiệp thực hiện dự án sẽ hoặc
phải đạt được do thực hiện dự án.
Đối với nhà tài trợ: Việc thẩm định tài chính dự án đầu tư nhằm đánh
giá trực tiếp khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng (Lãi và gốc); đồng thời
thẩm định tài chính dự án đầu tư Ngân hàng đánh gía được hiệu quả sử
dụng vốn cuả mình. Có thể nói đây là khâu quan trọng nhất trong nội dung
thẩm định dự án đầu tư. Nó là cơ sở ra quyết định chấp nhận cho vay hay từ
chối đối với dự án.
• Thẩm định khía cạnh kinh tế - xã hội:
Đây là một nội dung mà các cơ quan quản lý Nhà nước rất quan tâm,
xem xét lợi ích mà dự án đem lại cho nền kinh tế và tìm cách tối đa hố lợi
ích đó. Ngun tắc thẩm định cũng giống như thẩm định tài chính, đó là cân
đối giữa lợi ích và chi phí của dự án. Song điểm khác biệt ở đây là quan niệm
về lợi ích và chi phí trên góc độ xã hội. Lợi ích là những đóng góp thực sự
của dự án vào phúc lợi chung của quốc gia; chi phí là những khoản chi làm
tiêu hao nguồn lực thực sự của nền kinh tế. Do đó, khi lấy những chỉ tiêu từ
thẩm định tài chính phải có những điều chỉnh nhất định về giá tính tốn, về
thuế...
Việc thẩm định ngồi việc chỉ ra đóng góp của dự án vào mục tiêu kinh
tế -xã hội như tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập xác định đối tượng
hưởng lợi hay chịu chi phí một cách đầy đủ, nghiêm túc tác động của môi
trường - xem mức độ ảnh hưởng đến mơi trường có thể chấp nhận được
không và đưa ra các giải pháp cải thiện nhằm hướng tới sự phát triển bền
vững.
Các nội dung thẩm trên đối với một dự án đầu tư là hết sức cần thiết
không thể bỏ qua bất kỳ khâu thẩm định nào bởi mỗi một khía cạnh đều có
ảnh hưởng đến sự tồn tại của dự án. Mặt khác, các nội dung thẩm định có
mối liên hệ mật thiết với nhau: những nhận xét đánh giá, tính tốn ở mặt
này có thể là cở sở cho việc phân tích mặt khác và sự phù hợp giữa các yếu
tố của dự án đương nhiên là sự cần thiết. Ví dụ thẩm định thị trường cho
những nhận định về chi phí nguyên vật liệu, đánh giá sức tiêu thụ sản phẩm
- là cơ sở đưa ra dự tính về các dịng tiền trong thẩm định tài chính.
Thẩm định mơi trường đưa ra số liệu về những khoản chi phí bỏ ra
trong những năm nhất định để xử lý các vấn đề liên quan. Thẩm định thị
trường đưa ra số liệu về lượng vốn đầu tư và giải pháp lựa chọn nguồn tài
trợ.
Như vậy, các nội dung không thể chỉ được xem xét một cách phiến diện
độc lập nhau. Tuy nhiên, thẩm định dự án đầu tư là một công việc hết sức
phức tạp, đòi hỏi phải tiêu tốn thời gian, cơng sức và tiền bạc. Vì thế để tiết
kiệm được nguồn lực, người ta thường tiến hành thẩm định từng bước, nếu
dự án không được chấp thuận ở một khâu nào đó thì sẽ lập tức bị loại bỏ
ln mà không cần tiến hành thẩm định ở các khâu tiếp theo. Về nguyên tắc
các khâu thẩm định đỏi hỏi tiêu tốn ít thời gian cơng sức, tiền bạc nhất sẽ
được tiến hành trước để nhằm hạn chế tiêu tốn nguồn lực. Nhìn chung khâu
thẩm định tài chính kinh tế dự án thường được tiến hành sau khi đã hoàn
thành các khâu thẩm định khác.
Mặc dù tất cả các khía cạnh đều phải được xem xét nhưng đứng trên
quan điểm khác nhau, các chủ thể liên quan sẽ đặt ra các vấn đề, nội dung
thẩm định có ý nghĩa nhất đối với họ. Đối với các ngân hàng thương mại,
các dự án đầu tư đưa đến xin vay vốn thường rất đa dạng, với nhiều phạm
vi, lĩnh vực, quy mô khác nhau. Trong điều kiện khả năng có hạn, đặc biệt đối
với ngân hàng khi không chuyên sâu trong việc cho vay phát triển một lĩnh
vực cụ thể nào thì ngân hàng khó có thể thẩm định tất cả các khía cạnh của
một dự án một cách thấu đáo. Trong tất cả các nội dung thẩm định dự án
đầu tư thì khâu thẩm định tài chính dự án sẽ được ngân hàng coi là quan
trọng nhất và được thực hiện kỹ lưỡng nhất.
1.2.2. Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại
Thẩm định tài chính dự án đầu tư phải xem xét, tính tốn các chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả tài chính, xem xét cá kế hoạch tài chính của dự án có đem
lại hiệu quả kinh tế hay khơng.
1.2.2.1. Sự cần thiết phải thẩm định tài chính dự án đầu tư tại
ngân hàng thương mại
Các chủ đầu tư tìm đến Ngân hàng thương mại vơi nhu cầu được vay
vốn tài trợ cho dự án đầu tư của mình do họ khơng có đủ khả năng tài chính
tại thời điểm đó hoặc muốn sử dụng địn bẩy tài chính ( sử dụng nợ ). Ngân
hàng thương mại, với tư cách là người cung ứng ( người tài trợ ) vốn, sẽ
phải tự tổ chức việc thẩm định dự án cho mình chứ khơng dựa trên kết quả
thẩm định của chủ đầu tư bởi kết quả đó mang nhiều ý chí chủ quan của nhà
đầu tư.
Trong khâu thẩm định của mình Ngân hàng thương mại coi trọng nhất
đến khâu thẩm định tài chính dự án đầu tư, nó phản ánh trực tiếp khả năng
sinh lời của đồng vốn dựa trên những chỉ tiêu tài chính an tồn hơn nữa nó
cũng phù hợp với thế mạnh về chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm của
ngân hàng thương mại.
Ngày nay do nhu cầu từ nền kinh tế, các ngân hàng thương mại không
chỉ tiến hành thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay của mình mà
cịn tiến hành thẩm định phục vụ cho việc tư vấn và hoạt động bảo lãnh với
mục đích tìm ra các dự án khả thi nhưng sẽ đứng trên góc độ khác nhau để
tiến hành thẩm định, trong phạm vi bài viết chỉ xin đề cập đến công tác thẩm
định tài chính dự án đầu tư phục vụ cho hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại.
Phù hợp với mục tiêu chung của nền kinh tế quốc dân là tăng trưởng và
bền vững trong hoạt động sử dụng vốn của mình ( đặc biệt là hoạt động cho
vay ) các ngân hàng thương mại phải hết sức coi trọng khâu thẩm định tài
chính dự án:
Thơng qua thẩm định tài chính dự án đầu tư Ngân hàng thương mại sẽ
đánh giá được nhu cầu vay vốn của dự án, tính hợp lý của việc sử dụng vốn
đầu tư, hiệu quả tài chính mà dự án mang lại và khả năng trả nợ của các dự
án. Kết luận đưa ra chủ yếu dựa vào sự phân tích về dịng tài chính ( lợi ích
và chi phí ) của dự án đầu tư.
Thực tế ngân hàng quan tâm nhất đến khả năng trả nợ đích thực của
dự án (lãi và gốc ) mặc dù nó liên quan chặt chẽ đến hiệu quả tài chính của
dự án. Qua thẩm định tài chính, ngân hàng phải lựa chọn và tìm ra những
dự án đầu tư có hiệu quả tài chính để cho vay. Bởi chỉ khi cho vay những dự
án đầu tư có hiệu quả thì ngân hàng mới có khả năng thu hồi vốn và lãi, mới
bảo đảm giá tăng lợi nhuận đồng thời bảo tồn vốn để khơng ngừng tăng
trưởng và phát triển.
Thông tin số liệu trong luận chứng kinh tế kỹ thuật hay các báo cáo tài
chính có thể khơng phản ánh đúng thực trạng của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp có thể quá lạc quan về tình hình kinh doanh trong những năm tới
hay tính tốn khơng đầy đủ các yếu tố chi phí để làm tăng hiệu quả của dự
án. Vì vậy, việc thẩm định tài chính dự án đầu tư do chủ đầu tư mang đến lại
là rất cần thiết để ngân hàng xem xét lại cơ sở an toàn cho đồng vốn của
mình thơng qua việc thẩm tính thực tế của các số liệu, thông tin.
Là đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng, hứa hẹn khả năng sinh lời
cao nhưng đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro đặc biệt trong hoạt động
cho vay trung dài hạn, nên việc nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi
ro là mục tiêu cuả bất cứ ngân hàng nào, nó quyết định sự tồn tại và phát
triển Ngân hàng. Một trong những hoạt động nhằm đạt mục tiêu đó là phải
tiến hành thẩm định tài chính dự án đầu tư.
Đặc biệt đối với các ngân hàng thương mại của Việt Nam trong khi nhu
cầu vốn đầu tư phát triển nền kinh tế đang ngày càng mở rộng cũng là nhu
cầu vốn tín dụng trung dài hạn rất lớn, trình độ dân trí nói chung và trình
độ quản lý kinh tế nói riêng cịn hạn chế, hệ thống pháp luật chưa chặt chẽ
đòi hỏi ngân hàng thương mại phải hết sức coi trọng công tác thẩm định dự
án đầu tư đặc biệt là thẩm định về mặt tài chính để góp phần nâng cao hiệu
quả trong hoạt động ngân hàng.
1.2.2.2. Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư
Mục đích của việc thẩm định tài chính dự án đầu tư là xem xét đánh gía
nhu cầu và sự bảo đảm các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu
quả các dự án đầu tư, đồng thời xem xét tình hình kết quả và hiệu quả hoạt
động của dựa án. Nhưng để đạt được điều này việc thẩm định tài chính dự
án đầu tư phải dựa trên những cơ sở sau đây:
a. Về cơ sở số liệu:
Thông tin số liệu dùng trong việc thẩm định tài chính dự án đầu tư chủ
yếu dựa trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp như bảng cân đối kế
toán, báo cáo kết quả kinh doanh những năm gần đây; nguồn này nhằm
cung cấp cơ sở để tính tốn các chỉ tiêu tài chính phản ánh khả năng bảo
đảm thực hiện dự án và vốn vay của ngân hàng. Kèm theo đó là các bản kế
hoạch trả nợ của chủ đầu tư và bảng quyết tốn tổng hợp về vốn đầu tư, chi
phí, thu nhập... dự kiến phát sinh từ dự án và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật có
liên quan đến dự án. Đây là cơ sở đánh giá tính khả thi và đánh giá hiệu quả
của dự án về mặt tài chính.
Tuy nhiên, việc thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng khơng thể dựa
hồn tồn vào các số liệu thông tin từ các tài liệu trên do chủ đầu tư cung
cấp. Bởi như đã đề cập ở trong nội dung những tài liệu này đã chứa đựng
yếu tố chủ quan của chủ đầu tư nên vấn đề đặt ra là thẩm định tài chính dự
án đầu tư phải trú trọng đến việc thẩm định tính chính xác, thực tiễn của
các số liệu làm cơ sở vững chắc cho việc thẩm định tiếp theo.
b. Quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư:
b.1. Tổ chức cơng tác thẩm định tài chính dự án đầu tư:
Nhìn chung việc tổ chức thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng và
thẩm định dự án nói chung phải phù hợp với việc tổ chức hoạt động của
từng ngân hàng, nó do từng ngân hàng quy định thể hiện qua việc quy định
chức năng, nhiệm vụ của từng phòng. Các ngân hàng sẽ chọn và tổ chức
thẩm định theo các phương thức khác nhau, xuất phát từ cách tiếp cận
thông tin khác nhau, cách thức quản lý khách hàng và thông tin khách hàng
khác nhau, nhưng nhìn chung quy trình thẩm định một dự án gồm có:
Thẩm định trước khi cho vay: đây là quá trình thẩm định trước khi cho
vay gồm các công việc như đọc hồ sơ vay vốn kỹ lưỡng, xen xét mức độ trung
thực của khách hàng và khả năng tài chính của khách hàng trong những
năm gần nhất; xem xét dự án đầu tư về mặt vật chất; đến cơ sở xin vay để
tận mắt xem xét hoạt động sản xuất kinh doanh của người xin vay, từ đó
xem xét tính chính xác trung thực của các báo cáo tài chính, trách nhiệm của
khách hàng và quá khứ tín dụng của khách hàng ( trước đây vay nợ và trả
nợ như thế nào... ). Ngân hàng thông qua các cơ quan chủ quản của bên vay
để nắm được những thông tin này.
Thẩm định trong khi cho vay: Đó là q trình thẩm định khi đã cho vay,
khách hàng đã đang sử dụng tiền vay bao gồm: việc giám sát xem việc sử
dụng tiền vay có đúng mục đích hay khơng thơng qua các hệ thống giấy tờ,
báo cáo lưu chuyển hàng hố, tiền tệ... nhằm mục đích khuyến khích khách
hàng hoạt động có hiệu quả để đảm bảo an tồn tiền vay, hạn chế tiền vay
qua tay người thứ ba, biện pháp sử dụng trong cơng việc này là địi hỏi có
bảo đảm tiền vay. Nếu là sự đảm bảo bằng hình thức thế chấp tài sản thì
trong giai đoạn này, ngân hàng phải đảm bảo tình trạng của tài sản thế
chấp sao cho giá trị tài sản không thay đổi q nhiều so với lúc đánh gía ban
đầu. Nếu khơng ngân hàng phải quản lý tài sản hình thành từ nguồn vốn vay
tránh sự sử dụng tuỳ ý của khách hàng.
Trong quá trình này, ngân hàng phải nỗ lực thu hồi các khoản thanh
toán đúng kỳ hạn, theo định kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng để
đánh giá khả năng trả nợ.
Thẩm định sau quá trình cho vay: Khi kết thúc quá trình trả nợ các bên
đã thực hiện đúng cam kết như trong hợp đồng thì về phía ngân hàng vẫn
nên thực hiện thẩm định để tìm hiểu tình trạng thực tế của quá trình thực
hiện dự án, từ đó có được những tổng kết, rút ra những kinh nghiệm phục
vụ cho việc xây dựng hệ thống các chỉ tiêu tham số cho quá trình thẩm định
sau này.
b.2. Nội dung thẩm định tài chính của dự án đầu tư:
Thẩm định tài chính dự án đầu tư xác định gía trị hiện tại của các luồng
chi phí và lợi ích tài chính xuất hiện trong cuộc đời của dự án có tính đến gía
trị thời gian của tiền. Thu nhập rịng của các luồng tiền tài chính này sẽ
được so sánh với chi phí bỏ ra ban đầu và xem xét sự bù đắp có thoả đáng
khơng.
Ngân hàng sẽ đi vào thẩm định tài chính dự án đầu tư theo các nội
dung sau:
Bước 1: Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư và các nguồn tài trợ cho dự
án.
Bước 2: Xem xét các bảng dự toán tài chính và phân tích tài chính.
Bước 3: Đánh gía hiệu quả tài chính dự án đầu tư.
Bước 4: Cân đối khả năng trả nợ.
Cụ thể như sau:
Bước 1: Xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư và các nguồn tài trợ cho dự
án:
Thứ nhất: Phải xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư cho dự án. Khi một dự
án đầu tư đưa lên ngân hàng xin vay vốn thì dự án đó đã được nhiều cấp
xem xét, phê duyệt, tổng vốn đầu tư đã được xác định. Tuy nhiên, ngân hàng
vẫn tiến hành xem xét lại trên cơ sở những kết quả thẩm định ở các khiá
cạnh khác của ngân hàng.
Điều này rất quan trọng bởi vì vốn đầu tư sẽ tạo điều kiện cho dự án
được thực hiện một cách thuận lợi, thơng suốt, từ đó nâng cao hiệu quả của
dự án. Vốn đầu tư thiếu sẽ gây khó khăn cho hoạt động đầu tư cũng như
hoạt động vận hành kết quả đầu tư sau này. Ngược lại, thừa vốn đầu tư sẽ
gây lãng phí vốn, giảm hiệu quả tài chính cuả dự án.
Tổng vốn đầu tư cần thiết cho dự án bao gồm:
+ Vốn đầu tư cố định: chi phí ban đầu về mặt bằng, giá trị nhà xưởng và
cơ sở hạ tầng sẵn có, chi phí xây dựng mới...
+ Vốn lưu động ban đầu: là các chi phí để tạo ra tài sản lưu động, các
điều kiện để dự án có thể đi vào hoạt động bình thường theo các điều kiện
kinh tế kỹ thuật dự tính: dự trữ sản xuất ( nguyên, nhiên vật liệu... ), dự trữ
bán thành phẩm, thành phẩm tồn kho, các khoản thuộc quỹ tiền mặt...
Thứ hai: Phải xem xét các nguồn tài trợ cho dự án, khả năng đảm bảo
từ mỗi nguồn từ đó xác định số vốn mà ngân hàng cần phải tài trợ.
Các nguồn tài trợ cho dự án có thể là nguồn vốn do ngân sách cấp, vốn
vay ngân hàng, vốn liên doanh... Vì vậy, khi thẩm định cơ cấu nguồn vốn,
ngân hàng cần phải làm rõ mức vốn đầu tư cần thiết từ từng nguồn để đi
sâu tìm hiểu khả năng hiện thực của các nguồn đó.
Đối với các dự án được ngân sách hỗ trợ vốn một phần hay cấp phát
thì cần xem xét các cam kết đảm bảo của các cấp có thẩm quyền đối với
nguồn vốn này.
Đối với nguồn vốn vay các tổ chức tín dụng thì phải tính đến độ tin cậy
về khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng đã cam kết cho vay.
Nếu là vốn tự có thì ngân hàng cần kiểm tra, phân tích tình hình tài
chính và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ba năm trước đây và hiện
tại, chứng tỏ rằng cơ sở đã đang và sẽ tiếp tục hoạt động có hiệu quả, có tích
luỹ và do đó đảm bảo cơ cấu vốn để thực hiện dự án.
Với những dự án có sử dụng vốn vay nước ngoài, ngân hàng tập trung
xem xét các điều kiện cho vay; lãi suất cố định hay thả nổi, các loại chi phí
liên quan, phương thức và kỹ thuật chuyển vốn...
Sau khi kiểm tra tính hiện thực của các nguồn vốn, xác định lịch trình
rút vốn từ các nguồn khác, ngân hàng thương mại sẽ phải xác định được số
vốn mà ngân hàng cần tài trợ và kế hoạch bỏ vốn của mình.
Bước hai sẽ xem xét các bảng dự tốn tài chính và phân tích tài chính.
Trong nội dung này, ngân hàng sẽ thẩm định tính chính xác, hợp lý, hợp lệ
của các bảng dự trù tài chính. Cơ sở để xem xét là dựa trên nội dung của
luận chứng kinh tế kỹ thuật và các chỉ tiêu định mức kinh tế kỹ thuật, dựa
trên kết quả thẩm định các mặt thị trường, kỹ thuật, tổ chức, kinh tế xã hội
của ngân hàng. Các bảng tài chính được thẩm định thơng thường bao gồm:
- Bảng dự trù chi phí sản xuất.
- Bảng dự trù lời lỗ.
- Bảng dự trù tổng kết tài sản.
- Bảng dự trù cân đối thu chi.
Các bảng này là cơ sỏ để ngân hàng thương mại thực hiện việc phân
tích tài chính và tính tốn các luồng tiền nên được xem xét rất kỹ tính chính
xác và hợp lý.
Trên cơ sở các bảng dự tốn tài chính, ngân hàng thương mại tiến hành
phân tích tài chính dự án đầu tư dể thấy được tình hình tài chính, hiệu quả
hoạt động cuả dự án qua các năm. Việc phân tích tài chính thưịng được sử
dụng các phương pháp sau:
• Phân tích các tỷ lệ tài chính:
Các tỷ lệ tài chính thường được phân ra làm 4 nhóm:
- Tỷ lệ về khả năng thanh toán: