Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

MỘTSỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRUNG VÀN DÀI HẠN TẠI NHCT HAI BÀ TRƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.05 KB, 27 trang )

MỘTSỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRUNG

VÀN DÀI HẠN TẠI NHCT HAI BÀ TRƯNG
3.1 ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU CHO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NHCT
HAI BÀ TRƯNG THỜI GIAN TỚI.
Năm 2001 NHCT Hai Bà Trưng cần tiếp tục chấn chỉnh hoạt động để tăng cường sự ổn
định phát triển tín dụng đúng hướng, phù hợp với khả năng quản lý, gắn hiệu quả kinh
doanh với an toàn vốn. Đây là tư tường chỉ đạo xuyên suốt trong công tác thẩm định và
mọi công tác kinh doanh dịch vụ Ngân hàng. Các tiêu chí chi nhánh đạt ra để thực hiện mục
tiêu trên gồm:
Phấn đấu tăng trưởng về huy động vốn đạt 1.548 tỷ đồng và đến cuối năm 2001 đạt
1.608 tỷ đồng tăng 7% so với năm 2000.
Thực hiện cơ chế tín dụng để đảm bảo an toàn vốn và tăng trưởng doanh nghiệp một
cách lành mạnh.
Tăng trưởng vững chắc cho vay trung và dài hạn . Huy động cho vay trung và dài hạn
phải đạt 181 tỷ đồng. Chủ động,tích cực tìm kiếm dự án để cfho vay, đa dạng hố các hoạt
động cho vay kể cả xây dựng mới, mở rộng sản xuất lẫn cải tíên kỹ thuật.
Phấn đấu giảm nợ quá hạn xuống mức thấp nhất, đồng thời hạn chế tối đa nợ quá hạn
mới phát sinh.
Mở rộng cho vay kinh tế đối ngoại, thực hiện việc giải ngân các dự án đã xét duyệt. Mở
rộng cho vay đối với khách hàng có tính chất chiến lược và có quan hệ tín dụng lâu dài với
Ngân hàng.
Tiếp tục đa dạng hoá các mặt nghiệp vụ, các dịch vụ Ngân hàng. Triển khai nhanh tốc
độ cơng nghiệp hố cơng nghệ Ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như
năng cao hiệu quả đầu tư.
Thường xuyên chú trọng đến cơng tác kiểm sốt nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời
những sai sót của các mặt nghiệp vụ. Đảm bảo an toàn tài sản, tránh rủi ro trong hoạt
động kinh doanh.
Tổ chức bộ máy cán bộ, đảm bảo đại đa số công nhân viên phát huy được khả năng
công tác của mình. Có những chương trình khuyến khích, hỗ trợ cán bộ học tập, thường
xuyên năng cao tay nghề, trình độ chun mơ nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học và


quản lý điều hành.
Tăng cường mối quan hệ với các cơ quan từ Trung Ương đến địa phương. Tạo sự giúp
đỡ cho các chi nhánh thường xuyên và có hiệu quả trong mọi lĩnh vực nhất là trong kinh
doanh và xử lý tài sản thế chấp.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN
TẠI NHCT HAI BÀ TRƯNG.
Nâng cao chất lượng tín dụng, như ở chương 1 đã phân tích, bao gồm việc mở rộng quy
mô cho vay, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng vay vốn,đảm bảo sự tồn tại, phát
triển của ngân hàng và đóng góp chung vào sự phát triển nền kinh tế. Trên cơ sở bám sát
những u cầu đó, kết hợp với việc phân tích thực trạng chất lượng tín dụng của ngân


hàng CT HBT, có thể thấy để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng trung và dài hạn thì
trong thời gian tới NHCT Hai Bà Trưng cần tiến hành đồng bộ một loạt các biện pháp
xuyên suốt các khâu từ tạo nguồn, thu hút khách hàng đến quản lý tín dụng trước, trong và
sau khi cho vay. Cụ thể em xin nêu một số biện pháp chính như sau:
3.3.1. Giải pháp về nguồn vốn:
Như ở chương 2 đã phân tích, nguồn vốn cho vay trung dài hạn của NHCT Hai Bà
Trưng hiện nay bao gồm: vốn tự có, vốn uỷ thác và vốn huy động ngắn hạn chuyển
sang.Trong đó nguồn vốn ngắn hạn chuyển sang chiếm tỷ trọng chủ yếu. Xét về quy mơ thì
cho đến nay nguồn vốn này vẫn còn rất lớn so với dư nợ cho vay trung dài hạn của NHCT
Hai Bà Trưng, cho phép ngân hàng có thể mở rộng cho vay hơn nữa. Tuy nhiên, nếu xét
theo cơ cấu kỳ hạn thì với nguồn vốn chủ yếu ngắn hạn như vậy việc mở rộng cho vay
trung dài hạn sẽ khiến ngân hàng đứng trước nguy cơ rủi ro rất lớn. Để khắc phục điều
này trong thời gian tới NHCT Hai Bà Trưng cần đồng thời thực hiện đồng thời hai biện
pháp: tăng quy mô đồng thời kéo dài kỳ hạn các nguồn vốn hiện có, khai thác thêm những
nguồn vốn mới.
a.Tăng quy mơ nguồn vốn hiện có:
Trong ba nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng hiện nay thì việc
tăng nguồn vốn tự có là rất khó khăn, phức tạp và không thuộc quyền tự chủ của ngân

hàng. Chính vì vậy việc tăng nguồn vốn hiện có chủ yếu thực hiện với hai nguồn còn lại. Đối
với nguồn vốn huy động tiền gửi của dân cư, trong hệ thống ngân hàng công thương lãi
suất và kỳ hạn tiền gửi do NHCTVN quy định nên ngân hàng CT HBT khơng thể tự ý thay
đổi, do đó biện pháp chủ yếu tăng nguồn vốn này là tăng cường hơn nữa chất lượng phục
vụ cũng như những tiện ích mang lại cho người gửi tiền, với những khách hàng gửi tiền kỳ
hạn dài(9-12) khi có nhu cầu rút tiền trước hạn nếu thời gian gửi đã đủ cho các kỳ hạn
ngắn hơn (3,6 tháng) thì ngân hàng có thể xem xét cho hưởng một mức lãi hợp lý, lớn hơn
tiền gửi khơng kỳ hạn và nhỏ hơn tiền gửi có kỳ hạn. Những biện pháp kiểu như vậy sẽ
khiến cho khách hàng yên tâm hơn khi gửi tiền với kỳ hạn dài, hoặc nếu có gửi với kỳ hạn
ngắn thì họ cũng để nhiều kỳ mà không rút, tạo sự ổn định cho nguồn vốn của ngân hàng.
Với nguồn vốn uỷ thác thì một mặt ngân hàng chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm
những khách hàng tốt, phối hợp giúp đỡ để khách hàng có đủ điều kiện vay vốn, mặt khác
tích cực tìm kiếm thêm những nguồn uỷ thác mới bên cạnh nguồn uỷ thác của chính phủ,
nguồn cho vay theo chương trình Đài Loan, chương trình Việt Đức hiện nay. NHCT Hai Bà
Trưng cũng có thể thương lượng với các nhà tài trợ nước ngoài để họ giảm bớt những
điều kiện quá khắt khe, không cần thiết nhằm tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn.
b. Khai thác những nguồn vốn mới:
Ngoài ba nguồn vốn mà NHCT HBT hiện nay đang sử dụng, các nguồn khác có thể sử
dụng để cho vay dài hạn là: nguồn vốn vay NHNN, nguồn huy động tiền gửi, trái phiếu
trung dài hạn, nguồn vay nợ nước ngoài( vay ngân hàng, TCTC, doanh nghiệp nước ngồi).
Theo luật NHNNVN, NHNN khơng cho các TCTD vay vốn trung dài hạn do đó nguồn này
khơng thể khai thác được. Mặt khác, theo quy định hiện hành về cơng tác huy động vốn của
NHCTVN thì các chi nhánh NHCT chỉ được huy đông vốn với kỳ hạn tối đa là một năm,
nghĩa là ngân hàng CT HBT không được phép huy động tiiền gửi trung dài hạn dưới bất cử
hình thức nào. Như vậy, chỉ cịn nguồn vay nợ nước ngồi là có thể khai thác được. Trước


mắt viêc khai thác nguồn vốn này chưa phải là u cầu cấp bách, hơn nữa việc đó cũng địi
hỏi nhiều yếu tố phức tạp song nhìn về nhìn một tương lai xa hơn NHCT HBT nên có sự
chuẩn bị ngay từ bây giờ, bắt đầu từ việc tăng cường, mở rộng mối quan hệ hợp tác với

các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hiện đang hoạt động tại Hà Nơị, đó sẽ là những đầu
mối quan trọng dể NHCT HBT có thể khai thác được nguồn vốn vay nước ngoài trong
tương lai. Hơn nữa, việc tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngồi cịn giúp
NHCT HBT có cơ hội mở rộng nghiệp vụ, tiếp thu được công nghệ hiện đại và phương pháp
quản lý tiên tiến của họ
3.2.2. Đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng:
Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức và quản lý của ngân hàng từ việc phát
hiện ra nhu cầu đến việc thoả mãn nhu cầu cuẩ khách hàng về nguồn vốn cũng như các
dịch vụ khác thơng qua các chính sách, các giải pháp cụ thể, linh hoạt để thích ứng với môi
trường, với thi trường, đạt tới mục tiêu sinh lợi.
Nội dung của công tác marketing ngân hàng bao gồm 4 chính sách lớn: Chính sách
thơng tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra:Chính sách sản phẩm-giá cả; Chính sách phân
phối; Chính sách giao tiếp –khuếch trương. Với khn khổ hạn hẹp của chuyên đề, em chỉ
xin nêu một số giải pháp cụ thể liên quan đến hai chính sách đầu nhằm tăng cường hiệu
quả công tác Marketing của ngân hàng trong thời gian tới, góp phần thực hiện mục tiêu
nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng.
a. Chính sách thơng tin nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra:
Chính sách này phải được tiến hành trên cả 4 lĩnh vực: môi trường vĩ mô; các yếu tố
thuộc khách hàng( hiện tại và tiềm năng); sự cạnh tranh trên thị trường các ngân hàng;
các yếu tố thuộc nội bộ ngân hàng. Mục tiêu là nhằm nắm bắt được những thông tin về nhu
cầu của khách hàng hiện tại cũng như tiềm năng của ngân hàng, hiểu được họ thực sự cần
gì; đồng thời đánh giá khả năng của các đối thủ cạnh tranh và khả năng của bản thân
ngân hàng, từ đó đưa ra những giải pháp tối ưu nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng
một cách tốt nhất so với đối thủ cạnh tranh.Đây có thể coi là khâu yếu không chỉ của ngân
hàng mà của hầu hết các NHTM Việt Nam hiện nay. Nhằm mục đích nâng cao chất lượng
cơng tác thơng tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra; tạo sự chủ động cho ngân hàng trong
việc tìm kiếm, nắm bắt và đáp ứng tốt nhu cầu của ngân hàng trong thời gian tới NHCT
Hai Bà Trưng cần thực hiện các biện pháp sau:
Tiếp tục phát huy hiệu quả của phịng Thơng tin-Điện tốn hiện nay song cần có sự điều
chỉnh về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu nhân sự.

Về chức năng, nhiệm vụ:bên cạnh những chức năng nhiệm vụ hiện có cần phải đảm
đương thêm những chức năng nhiệm vụ sau:
- Xác định nhu cầu về thông tin cần thu thập.
- Tiến hành việc điều tra, thu thập, xử lý thông tin.
- Phân tích các thơng tin đã qua xử lý để đưa ra những dự đoán, kết luận về nhu cầu
khách hàng hiện tại và tiềm năng, về tình hình cạnh tranh giữa ngân hàng với các ngân
hàng khác và giữa các ngân hàng với nhau, về khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của
NHCT Hai Bà Trưng. Đây là cơ sở để ngân hàng đưa ra những quyết định đúng đắn trong
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
- Lưu trữ thơng tin


Để đảm bảo tính chính xác, khách quan, các thơng tin phải được thu thập từ nhiều
nguồn khác nhau, trên cơ sở đó tiến hành xử lý, đối chiếu để chọn ra những thông tin đáng
tin cậy nhất. Đối với NHCT Hai Bà Trưng có thể tiến hành thu thập thông tin từ những
nguồn sau:
Thông tin về khách hàng:
Các thông tin này có thể thu thập trực tiếp qua phỏng vấn,điều tra thực tế, những
thông tin do khách hàng xin vay vốn cung cấp trong hồ sơ xin vay vốn; hoặc có thể gián tiếp
thơng qua ngân hàng bạn, các doanh nghiệp có quan hệ với khách hàng, các phương tiện
thông tin đại chúng, cơ quan địa phương nơi quản lý khách hàng và đặc biệt là hai nguồn
tin: trung tâm thơng tin tín dụng (CIC) của NHNN và trung tâm thơng tin phịng ngừa rủi
ro của NHCTVN
Thơng tin về các đối thủ cạnh tranh của NHCT Hai Bà Trưng:
Quận Hai Bà Trưng tập trung khá nhiều ngân hàng nên tình hình cạnh tranh cũng khá
gay gắt và ngày càng có xu hướng tăng lên. Trong bối cảnh đó, để đảm bảo tồn tại được thì
khơng thể khơng biết gì về các đối thủ cạnh tranh. Thông tin về các đối tượng này có thể
lấy từ NHNN, từ các tài liệu do chính ngan hàng đó phát hành nhằm mục đích tun
truyền, quảng cáo, tù các phương tiện thơng tin đại chúng, tù dư luận trong khách hàng
của họ.

*Về nhân sự:
Từ trước đến nay do chức năng nhiệm vụ của phòng khá đơn giản nên cơ cấu nhân xự
của phòng cũng khơng phức tạp. Hiện nay phịng có 13 nhân viên đều là những người hiểu
biết thông thạo về máy tính nhưng những kiến thức về kinh tế nói chung và ngân hàng nói
riêng hầu như khơng được đào tạo cơ bản. Chính vì vậy, để có thể thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ mới đòi hỏi cơ cấu nhân sự của phịng phải có sự thay đổi. Do khối lượng công
việc tăng lên nên số lượng nhân sự cũng có thể phải tăng lên nếu như số nhân sự trước đay
đã tận dụng hết công xuất. Số nhân viên tăng thêm này ngồi việc thơng thạo máy tính cịn
phải là những người có kiến thức, am hiểu về kinh tế thị trường, về tài chính doanh nghiệp,
về khoa học kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, đồng thời phải có khả năng tổng hợp và phân
tích số liệu tốt.
Với những điều chỉnh như vậy hoạt động của phịng Thơng tin -Điện toán sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho NHCT Hai Bà Trưng trong việc nâng cao chất lượng kinh doanh nói
chung và chất lượng tín dụng chung và dài hạn nói riêng. Thứ nhất, thơng qua cơng tác
thơng tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra sẽ giúp cho ngân hàng nắm bắt được chính xác
nhu cầu của khách hàng hiện tại và tiềm năng, nắm bắt được mặt mạnh- yếu của đối thủ
cạnh tranh cũng như của chính mình, dự đoán được xu hướng biến động của nến kinh tế.
Trên cơ sở đó sẽ đưa ra những quyết định thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay
vốn của khách hàng. Thứ hai, những thông tin cung cấp bởi phịng Thơng tin- Điện tốn là
những căn cứ bổ ích giúp cán bộ tín dụng đánh giá uy tín, năng lực của khách hàng một
cách chính xác, tránh được nguy cơ rủi ro “ thông tin không cân xứng” dẫn đến sự “ lựa
chọn đối nghịch”. Thứ ba, do công tác thu thập thông tin được tiến hành liên tục trước,
trong và sau khi cho vay nên giúp cán bộ tín dụng ln bám sát khách hàng vay vốn nhằm
hạn chế những biểu hiện tiêu cực trong quá trình sử dụng vốn vay cũng như có biện pháp


giúp đỡ khách hàng khi cần thiết, tạo lập và duy trì mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài với khách
hàng
b. Đa dạng hố loại hình cho vay trung và dài hạn:
Một trong những nguyên nhân cản trở khả năng mở rộng tín dụng của NHCT Hai Bà

Trưng dó là sự ngh nàn về loại hình cho vay. Để khắc phục điều này, nhằm đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng, thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng trung dài hạn trong
thời gian tới NHCT HBT cần phải đa dạng hố loại hình cho vay của mình một cách thích
hợp. Trong điều kiện hiện nay, ngồi hình thức cho vay theo dự án ngân hàng có thể xem
xét cung cấp một số loại hình tín dụng trung dài hạn sau:
Cho vay hợp vốn:
Đây là hình thức cho vay khá phổ biến ở các nước phát triển. Nó được tiến hành trên cơ
sở sự phối hợp của một nhómNHTM do một ngân hàng đứng ra làm đầu mối, cùng thực
hiện cho vay đối với một khách hàng nhất định.
Việc sử dụng hình thức này sẽ đem lại cho NHCT HBT nhiều lợi thế: có thể cho vay
những khách hàng vượt quá khả năng hay giới hạn tối đa của ngân hàng, phân tán rủi ro,
tăng cường quan hệ hợp tác với các NHTM khác, mở rộng thị trường hoạt động. Đặc biệt
khi thực hiện việc hợp vốn với ngân hàng lớn hay ngân hàng nước ngoài sẽ giúp cho ngân
hàng có điều kiện học hỏi thêm kinh nghiệm quản lý, cách thức thẩm định dự án, quản lý
tín dụng của họ đồng thời chuẩn bị cho việc khai thác nguồn vốn vay nợ nước ngồi như
đã nói ở phần (3.2.1). Với tất cả những ưu điểm đó, lại được sự khuyến khích của NHNN,
hơn nữa việc thực hiện hình thức này khơng phức tạp, hồn tồn phù hợp với điều kiện
thực tế của NHCT HBT hiẹn nay, vì vậy đay là một giải pháp rất hữu hiệu để mở rộng tín
dụng trung dài hạn trước mắt cũng như lâu dài.
Nghiệp vụ th mua:
Đây là một hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn dựa trên một hợp đồng thuê mua
theo đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người đi
thuê sử dụng trong một thời gian nhất định, người đi thuê có trách nhiệm trả tiền thuê
trong suốt thời gian thuê và hết hạn sẽ được chuyển quyền sở hữu, mua hoặc thuê tiếp tuỳ
theo thoả thuận giữa hai bên.
Đây là phương thức cấp tín dụng khá phổ biến trên thế giới và đến nay đã bắt đầu xâm
nhập vào Việt Nam. Sử dụng phương thúc này có nhiều ưu điểm cho cả ngân hàng và
khách hàng:
- Đáp ứng tốt nhu cầu của nhiều loại khách hàng bao gồm:
+ Các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng khơng đủ vốn tự có hay tài sản thế chấp

theo yêu cầu. Khác với cho vay thông thường, trong nghiệp vụ thuê mua khách hàng khơng
cần có tài sản thế chấp và nếu là khách hàng có uy tín thì ngân hàng có thể tài trợ 100%
giá trị tài sản mà không cần doanh nghiệp phải ký quỹ.
+Các doanh nghiệp đủ điều kiện nhưng vẫn thích sử dụng phương thức thuê mua để
dành vốn của mình cho một định hướng kinh doanh khác có lợi hơn hoặc để hưởng một
khoản tiết kiệm nhờ thuế ( tiền thuê tài chính được khấu trừ vào chi phí trước khi tính
thuế thu nhập doanh nghiệp).


+ Các doanh nghiệp là chủ sở hữu đối với thiết bị đang sử dụng có thể bán thiết bị đó
cho cơng ty th mua rồi mua lại( tái thêu mua).Trường hợp này thường xảy ra với những
doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản hiện có của mình hoặc cần vốn để
đầu tư vào những dự án khác có lợi hơn. Cũng có thể do doanh nghiệp có những khoản nợ
đến hạn mà chưa thanh tốn được(điều chỉnh thời hạn vay vốn).
+ Các doanh nghiệp mới thành lập có mức độ rủi ro cao( các doanh nghiệp có quy mơ
nhỏ, doanh nghiệp được xếp hạng tín dụng thấp) cũng có thể sử dụng phương thức này
mặc dù khó có thể được các ngân hàng cho vay trung dài hạn theo phương thức thông
thường.
-Tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh.
-Thuê- mua là một phướng thức tài trợ ít rủi ro do các lý do sau:
+Ngân hàng( người cho thuê) vẫn là chủ sở hữu đối với tài sản trong suốt thời gian
thuê do đó họ có quyền quản lý, kiểm soát tài sản theo thoả thuận trong hợp đồng thmua.Trong trường hợp người đi th khơng thanh tốn theo đúng hợp đồng thì ngân hàng
có quyền thu hồi tài sản đồng thời buộc bên thuê bồi thường thiệt hại nếu có.
+Đối tượng thuê mua được thực hiện dưới dạng tài sản cụ thể gắn với mục đích
kinh doanh của người ddi thuê, do đó bảo đảm người đi thuê sẽ sử dụng vốn đúng mục
đích, tạo tiền đề để hồn trả tiền vay theo đúng thời hạn.
+Thơng thường giá mua lại tài sản thuê được xác định ngay từ khi ký kết hợp đồng.
Điều này có tác dụng khuyến khích doanh nghiệp sử dụng và bảo quản tài sản tốt hơn.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hình thức này tỏ ra khá thích hợp với đặc điểm nền
kinh tế: các doanh nghiệp ngồi QD mới được hình thành và phát triển chưa lâu nên chưa

đủ cơ sở để ngân hàng đánh giá mức độ tín nhiệm, hơn nữa quy mơ nguồn vốn tự có nhỏ
nên khơng đủ điều kiện vay vốn TDNH. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước đã hoạt đọng
lâu năm thì đại bộ phận trang thiết bị và công nghệ thuộc loại lạc hậu cần phải thay thế.
Trong hồn cảnh đó, việc áp dụng phương thức th- mua góp phần tích cực giúp đỡ các
doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị, tiếp thu công nghệ mới, mở rộng sản xuất, góp phần
thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Theo quy chế hiện hành về tổ chức và hoạt động của Cơng ty Th - mua Tài chính tại
Việt Nam( ban hàng kèm theo NĐ số 64/CP ngày 9/10/1995 của Chính phủ) thì hoạt động
thuê- mua phải được thực hiện bởi các Cơng ty cho th tài chính được phép. Hiện nay ở
Việt Nam chỉ có một số ít các cơng ty loại này và đều là các công ty con do các NHTM thành
lập nên, trong đó có Cơng ty cho thuê tài chính của NHCT VN. Như vậy theo quy định này
thì NHCT HBT khơng được phép trực tiếp thực hiện nghiệp vụ thuê - mua. Tuy nhiên, NHCT
HBT vẫn có thể tham gia cung ứng loại hình tín dụng trung dài hạn này thơng qua các hình
thức th- mua hợp tác( Levereged lease).
Khi tham gia vào hình thức thuê - mua hợp tác, NHCT HBT có thể đóng vai trị người
cho vay hoặc người góp vốn. Nếu là người cho vay thì cũng thực hiện giống như cho vay
đối với doanh nghiệp, trong trường hợp này là Công ty cho thuê tài chính, tài sản cho thuê
sẽ được dùng làm tài sản thế chấp. Còn nếu là người góp vốn thì ngân hàng và Cơng ty cho
th tài chính ký kết hợp đồng góp vốn cùng thực hiện việc cho thuê đối với một hoặc nhiều
khách hàng( tương tự như hình thức cho vay hợp vốn). Tiền thuê sẽ phân chia theo thoả
thuận, nếu có rủi ro cùng chia sẻ. Có thể mơ tả nghiệp vụ này như sau:


Hình1: Mơ hình nghiệp vụ th mua hợp tác.
(2b)
(4b)
NHCT Hai Bà Trưng.

Cty cho thuê TC.
(1c)


(2a)

(1b)

(1a) (2c) (4a)

(1d)
Người cung cấp.

Người đi thuê.
(3)

(1a). Người đi thuê và Công ty cho thuê tài chính ký hợp đồng.
(1b). Cơng ty cho th tài chính ký hợp đồng với nhà cung cấp để mua tài sản.
(1c). Cơng ty cho th tài chính ký hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng góp vốn với NHCT
HBT.
(2a). Nhà cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho Cơng ty cho th
tài chính.
(2b). Cơng ty cho th tài chính thanh tốn tiền mua tài sản cho nhà cung cấp.
(2c). Cơng ty cho th tài chính lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho
người đi thuê.
(3). Nhà cung cấp giao tài sản cho người đi thuê.
(4a). Người đi thuê thanh toán tiền theo định kỳ.
(4b). Cơng ty cho th tài chính trả nợ hoặc chia tiền thuê cho NHCT HBT.


Tham gia vào hình thức tín dụng này vừa giúp cho NHCT HBT mở rộng quy mơ tín dụng
vừa đảm bảo an toàn vốn do khoản vay được thế chấp bởi chính tài sản cho th, hơn nữa
các Cơng ty cho th tài chính là cơng ty con của các NHTM lớn có uy tín nên mức độ bảo

đảm càng cao hơn.
*Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phịng:
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phịng là hình thức cho vay theo đó ngân hàng
cho vay cam kết sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất
định để đầu tư cho dự án.
Khi áp dụng phương thức vay này, ngoài việc thực hiện các quy định như phương thúc
cho vay theo dự án đầu tư, ngan hàng cho vay và khách hàng cần thoả thuận thêm một số
nội dung sau:
Thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phịng.
Mức phí cho hạn mức tín dụng dự phịng( theo biểu phí do Tổng giám đốc NHCT quy
định cho từng thời kỳ).
Hạn mức tín dụng, thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phịng được ghi trong
hợp đồng tín dụng. Trong suốt thời hạn đó khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào cần,
miễn là phải đảm bảo hạn mức tín dụng và phải lập giấy nợ kèm theo các chứng từ cần
thiết gửi cho ngân hàng cho vay. Hình thức này có tác dụng bổ xung kịp thời vốn lưu động.
Trong q trình thực hiện dự án có thể có những chi phí phát sinh bất thường mà doanh
nghiệp không lường trước được, nếu việc bổ xung vốn khơng kịp thời có thể ảnh hưởng
đến tiến độ dự án. Nếu khơng có hạn mức tín dụng dự phịng doanh nghiệp có thể tìm kiếm
các nguồn tài trợ khác hoặc có thể làm đơn xin vay thêm vốn ngân hàng, tuy nhiên cơng
việc này địi hỏi nhiều thời gian gây ra gián đoạn cơng trình, ảnh hưởng đến kết quả cuối
cùng. Ngồi ra trong q trình thực hiện dự án nếu có những cơ họi kinh doanh tốt đẹp
hơn thì doanh nghiệp có thể vay vốn theo hạn mức tín dụng dự phịng để thực hiện dự án,
cịn vốn tự có của mình đầu tư vào dự án mới.Về phía ngân hàng đây là một trong những
biện pháp nhằm tăng quy mô cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên hình thức này có nhược
điểm là hạn mức tín dụng thường khơng lớn và địi hỏi ngân hàng phải quản lý chặt chẽ
quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm tránh việc sử dụng vốn sai mục đích.
3.2.3.Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Qua nghiên cứu về hoạt đọng tín dụng trung dài hạn ở NHCT Hai Bà Trưng có thể thấy
một đặc điểm nổi bật đó là có sự đối xử phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế quốc doanh và ngồi quốc doanh. Có thể thấy điều này qua bảng số liệu sau:


Bảng 12: Số doanh nghiệp và dư nợ trung dài hạn phân theo TPKT.
Năm

1998

1999

2000

Sốlượng Tỷtrọng

Sốlượng Tỷtrọng

SốlượngTỷtrọng


(%)

(%)

(%)

Chỉ tiêu
1.Số DN có quan
hệ TD

2.DN cho
TDH(tỷ đ)
Quốc doanh.

Ngồi QD.

100

865

100

22

170

21,7

215

24,9

78

615

78,3

650

75,1

75


100

156

100

125

100

68

90,7

136

87,2

106

84,8

7

vay

785

700


- Ngoài QD.

100

197

- Quốc doanh.

897

9,3

20

12,8

19

15,2

[11,2].
(Nguồn: Tổ Cân Đối- Tổng Hợp NHCT HBT )
Như vậy có thể thấy trong khi số khách hàng vay vốn là doanh nghiệp ngồi quốc
doanh ln chiếm trên 75% cơ cấu khách hàng thì ngược lại dư nợ cho vay trung dài hạn
đối với khu vực này chỉ ở mức dưới 15%. Nguyên nhân của tình trạnh này thì có nhiều,
song xét về phía NHCT Hai Bà Trưng có thể thấy một thực tế là ngân hàng không tha thiết
lắm với việc mở rộng cho vay trung dài hạn đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài
quốc doanh. Đây thực sự là rào cản lớn trong việc mở rộng cho vay trung dài hạn của ngân
hàng. Những vướng mắc về mặt nguyên tắc có thể giải quyết được nếu có được sự thiện
chí, nỗ lực từ cả hai phía, nhưng nếu một khi ngân hàng đã khơng thực sự muốn cho vay

thì có ngàn lẻ một lý do để từ chối.Trong thời gian qua do quá coi trọng mục tiêu an toàn
vốn nên NHCT Hai Bà Trưng đã dành cho các DNNQD một sự đối xử khơng mấy thân thiện,
mang đầy tính ngun tắc. Kết quả là có khơng ít doanh nghiệp có tiềm năng nhưng do
khơng thoả mãn một u cầu nào đó của ngân hàng nên đành lực bất tòng tâm. Vẫn biết
rằng cho vay đối với DNNQD thời gian qua gặp nhiều rủi ro song khơng nên vì thế mà ngân
hàng quay lưng với khu vực này.Tuy rằng khu vực này chứa nhiều rủi ro tiềm ẩn song nó
lại cũng là một thị trường đầy tiềm năng cần đẩy mạnh khai thác. Để làm được điều này
cần có sự nỗ lực từ nhiều phía, về phía NHCT Hai Bà Trưng có thể thấy hai vướng mắc lớn
nhất mà các doanh nghiệp thường không vưọt qua được đó là khơng đủ vốn tự có tham
gia dự án và không đủ TSTC theo quy định.
Nếu như yêu cầu về vốn tự có do NHNN đưa ra và NHCT HBT khơng thể tn theo thì
u cầu về tài sản thế chấp lại không cứng nhắc đến vậy, đặc biệt là sau khi chính phủ ban
hành NĐ 178/CP(29/12/99) quy định về việc đảm bảo tiền vay của TCTD. Theo đó TCTD
được phép cho vay đối với các đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế có bảo đảm hoặc
khơng có baỏ đảm. Nghị định này đã tạo ra một hành lang pháp lý thoáng hơn nhằm tháo
gỡ khó khăn trong quan hệ giữa các TCTD và các doanh nghiệp ngồi quốc doanh, tuy
nhiên mục tiêu đó đạt được đến mức nào là tuỳ thuộc vào nỗ lực của các NHTM. Rõ ràng
vào thời điểm hiện nay rất ít ngân hàng dám cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay
không cần TS thế chấp, ngân hàng CT HBT cũng vậy, để đảm bảo an toàn vốn trong điều


kiện trình độ thẩm định dự án, thẩm định khách hàng, quản lý tín dụng chưa cao thì nếu
làm như vâyh nguy cơ rủi ro là q cao. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề này trong thời
gian tới thiết nghĩ NHCT HBTnên chọn lọc những doanh nghiệp có đủ uy tín cũng như năng
lực để tiến hành việc thí điểm phương thức cho vay có bảo đảm bằng chính tài sản hình
thành từ vốn vay.Đây là một phương thức bảo đảm tiền vay phổ biến trên thế giới nhưng ở
nước ta còn khá mới, tuy vậy phương thức này đã được quy định khá chi tiết trong
NĐ178/CP và tỏ ra phù hợp với điều kiện ngân hàng công thương HBT cũng như nhiều chi
nhánh khác ở Việt Nam.
Việc áp dụng phương thức này có lợi cho cả hai phía doanh nghiệp và ngân hàng. Về

phía doanh nghiệp, nó cho phếp doanh nghiệp khơng có đủ TSTC nhưng có uy tín, có năng
lực, có phương án kinh doanh hiệu quả có thể vay vốn mở rộng sản xuất, đổi mới trang
thiết bị, công nghệ, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đối với ngân hàng đây là
phương thức cho vay khá an toàn do được đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Hơn nữa, cũng giống như phương thức thuê mua, doanh nghiệp sẽ khó có cơ hội sử dụng
vốn sai mục đích, bởi lẽ ngân hàng chỉ cho vay khi chắc chắn doanh nghiệp sẽ sử dụng vốn
vay để mua sắm tài sản mà hai bêb đã thoả thuận. Có thể mơ tả nghiệp vị này như sau:

Hình 2: Quy trình thực hiện nghiệp vụ cho vay bảo đảm bằng chính tài sản hình thành từ
vốn vay( chỉ xét từ khi ngân hàng đồng ý cho vay).
(5)
NHCT Hai BàTrưng.

Nhà cung cấp.
(2)

(1)

(4)

(6)
(3)

DN vay vốn.
(1). Doanh nghiệp và ngân hàng ký kết hợp đồng cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.
(2). Doanh nghiệp và nhà cung cấp ký hợp đồng mua bán tài sản.
(3). Nhà cung cấp lập thủ tục và chuyển giao quyền sở hữu và tài sản cho doanh nghiệp.
(4). Doanh nghiệp giao bản chính giấy chứng nhận sở hữu tài sản cho ngân hàng.



(5). Sau khi kiểm tra giấy tờ và tài sản, nếu thấy hợp lệ thì ngân hàng trả tiền cho nhà
cung cấp.
(6). Doanh nghiệp trả nợ cho ngân hàng theo thoả thuận.
Trường hợp doanh nghiệp vay vốn để xây dựng cơ bản thì phải nộp bản chính giấy
chứng nhận quyền sủ dụng khu đất nơi sẽ hình thành tài sản cho ngân hàng trước khi ký
hợp đồng tín dụng. Ngân hàng sẽ tiến hành cấp tiền cho nhà thầu xây dựng đúng theo tiến
độ thoả thuận để thực hiện dự án. Sau khi cơng trình hồn thành, bàn giao và đi vào sử
dụng thì doanh nghiệp phải nộp bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản cho ngân
hàng. Đối với những tài sản thế chấp là phương tiện vận tải thì chủ phương tiện được
dùng bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu có xác nhận của Cơng chứng Nhà nước và
của ngân hàng cho vay để lưu hành phương tiện trong thời gian thế chấp.
Với phương thức cho vay này doanh nghiệp vay vốn không trực tiếp nhận tiền nên
tránh được vấn đề sử dụng vốn sai mục đích. Tuy nhiên ngân hàng cũng có thể phát tiền
trực tiếp cho doanh nghiệp vay vốn theo thoả thuận với điều kiện doanh nghiệp phải
chứng minh được rằng tiền vay được sử dụng đúng theo hợp đồng. Đồng thời, trong quá
trình sử dụng tài sản của doanh nghiệp ngân hàng tiếp tục thực hiện các biện pháp kiểm
tra, giám sát giống như trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản thế chấp thông
thường. Với cách làm như vậy, phương thức cho vay này tỏ ra khá an toàn và phù hợp với
điều kiện hiện nay của NHCT Hai Bà Trưng.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng:
Các biện pháp bảo đảm( thế chấp, cầm cố) mà ngân hàng yêu cầu khách hàng thực hiện
chỉ là nhằm đảm bảo khả năng thu hồi vốn trong trường hợp xấu nhất, ngân hàng không
bao giờ muốn thu hồi vốn thông qua việc xử lý các tài sản đảm bảo. Một khoản tín dụng có
chất lượng cao địi hỏi phải được hồn trả bằng thu nhập sinh ra từ việc sử dụng hiệu quả
tài sản đó chứ khơng phải từ việc phát mại tài sản cầm cố, thế chấp. Muốn vậy phải có biện
pháp nhằm chọn ra những khách hàng thực sự đáng tin cậy, những dự án khả thi và có
hiệu quả. Điều đó địi hỏi hiệu quả cơng tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng phải
được nâng cao hơn. Đối với NHCT Hai Bà Trưng trong điều kiện hiện nay để đáp ứng đòi
hỏi này cần tiến hành một số biện pháp sau:

a. Tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin.
Thông tin là yếu tố không thể thiếu được cho việc thẩm định dự án, thẩm định khách
hàng. Thơng tin thu thập càng nhanh, đầy đủ, chính xác thì càng giúp cho việc thẩm định
được thuận lợi hơn. Để đảm bảo tính chính xác, thiết thực của thơng tin thì cần phải tiến
hành thu thập từ nhiều nguồn, đồng thời phải tổ chức tốt việc xử lý thơng tin nhằm chọn
lọc những thơng tin chính xác, thiết thực nhất. Công việc thu thạp và xử lý thông tin phải
được tiến hành một cách chủ động và liên tục chứ không phải đợi khách hàng đến xin vay
rồi mới tiến hành.
Đối với NHCT Hai Bà Trưng, như ở phần(3.2.2.1) đã nêu, công tác thu thập và xử lý
thông tin nên dành cho phịng Thơng tin- Điện tốn. Khi có khách hàng đến vay vốn CBTD
sẽ u cầu phịng cung cấp cho mình những thơng tin càn thiết. Trên cơ sở so sánh, đối
chiếu những thông tin do khách hàng cung cấp và những thơng tin của phịng Thơng tin
-Điện toán bước đầu sẽ cho phép CBTD đánh giá mức độ trung thực của khách hàng vay
vốn. Bên cạnh nđó những thơng tin của phịng Thơng tin- Điện tốn cung cấp còn cho phép


đánh giá đầy đủ hơn về khách hàng cũng như dự án vay vốn. Như vậy có thể thấy được
việc tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng Thơng tin- Điện tốn là một trong
những ván đề ngân hàng cần xem xét trong thời gian càng sớm càng tốt vì đó là điều kiện
để thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của
ngân hàng.
b.Thực hiện việc cho điểm tín dụng.
Hiện nay các CBTD ở NHCT Hai Bà Trưng đang thực hiện công tác thẩm định dự án,
thẩm định khách hàng dựa theo bản “Tóm tắt hướng dẫn thẩm định dự án trong nước và
quốc tế” do NHCT Việt Nam phát hành. Cách làm này có hai điểm đáng lưu ý: Thứ nhất là
bản hướng dẫn chỉ đưa ra những nguyên tắc chung nhất,những chỉ tiêu cơ bản nhất làm
cơ sở tham khảo cho các chi nhánh NHCT chứ không phải là chuẩn mực cho mọi ngân
hàng. Chính vì vậy việc áp dụng bản hướng dẫn này một cách máy móc khơng phải là một
cách làm hay, cần phải có sự linh động sáng tạo để phù hợp với tình hình thực tiễn.Thứ hai,
các chỉ tiêu thẩm định có tầm quan trọng khác nhau, có quan hệ tác động qua lại với nhau,

song với cách làm hiện nay các chỉ tiêu này lại được xem xét một cách rời rạc, không đánh
giá được tầm quan trọng của từng chỉ tiêu cũng như mối quan hệ giữa chúng. Rõ ràng là
cách làm này khơng khoa học, cần phải có những cải tiến trong thời gian tới nhằm nâng
cao hơn nữa hiệu quả công tác thẩm định.
Một trong những phương pháp khá phổ biến thường được các ngân hàng sử dụng để
đánh giá khách hàng là phương pháp cho điểm tín dụng. Theo phương phấp này doanh
nghiệp vay vốn sẽ được đánh giá cho điểm trên các mặt như: khả năng tài chính; khả năng
quản lý điều hành kinh doanh; hiệu quả sản xuất kinh doanh, mức dộ tín nhiệm thơng qua
việc tính toán các chỉ tiêu liên quan. Đồng thời mỗi mặt đó được gán cho một trọng số thể
hiện mức độ quan trọng của nó đối với việc đánh giá khách hàng. Tổng điểm số của khách
hàng sẽ là tổng điểm của mỗi mặt nhân với trọng số tương ứng. Trên cơ sở so sánh tổng
điểm với những tiêu chuản cụ thể, doanh nghiệp sẽ được xếp loại theo mức A, B, C từ đó
ngân hàng có cách đối xử phù hợp. Thiết nghĩ đây là một phương pháp ngân hàng có thể
tham khảo và áp dụng để nâng cao hơn nữa hiệu quả thẩm định dự án, khách hàng của
mình. Điểm mấu chốt của việc áp dụng phương pháp này là phải xây dựng được một hệ
thống chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp trên các mặt một cách chính xác, đồng thời phải xác
định được vai trò của mỗi mặt đó trong việc quyết định các mặt khác cũng như quyết định
hiệu quả của doanh nghiệp. Theo văn bản hướng dẫn của NHCT VN và thực tế hiện nay cho
thấy ngân hàng quá quan tâm đến chỉ tiêu thanh toán hiện hành và tài sản đảm bảo trong
khi quên mất rằng nguồn trả nợ phải được lấy từ thu nhập do việc sử dụng khoản vay
mang lại. Vì vậy theo ý kiến cá nhân em để đánh giá chính xác hơn nên thêm một số chỉ tiêu
sau:
* Chỉ tiêu vòng quay tiền:

DT tiêu thụ trong năm
TM và TS tương đươngtiền bình qn

Chỉ tiêu này cho biết khả năng quay vịng tiền của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cao cho
thấy khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo doanh thu từ một nguồn vốn nát định ban
đầu là rất tốt, đó sẽ là nguồn doanh nghiệp trả nợ ngân hàng.



DT tiêu thụ trong năm
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSCĐ:
Giátrị TSCĐ(GTCLtại thời điểm báo cáo)
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị TSCĐ của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu trong một năm.
DT tiêu thụ trong năm.
*Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tổng TS
Tổng giá trị tài sản.
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị tài sản của doanh nghiệp mang lại bao nhiêu
đồng doanh thu cho doanh nghiệp trong một năm.
Hai chỉ tiêu hiệu suất trên càng cao chứng tỏ khả năng quản lý và khai thác tài sản của
doanh nghiệp càng tốt và ngân hàng có thể tin cậy được khi cho doanh nghiệp vay vốn mở
rộng sản xuất kinh doanh.
LN trước thuế và lãi.
*Chỉ tiêu doanh lợi vốn:
Tổng giá trị tài sản.
Chỉ tiêu này cho biết cụ thể hơn về khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu này càng lớn hơn so với lãi vay càng tốt.
c. Thành lập nhóm chuyên trách thẩm định dự án:
Nếu như việc thẩm định khách hàng khơng q phức tạp, có thể được thực hiện trực
tiếp bởi mỗi CBTD với sự trợ giúp của phịng Thơng tin- Điện tốn, thì ngược lại thẩm định
dự án lại là một việc không đơn giản chút nào, nó địi hỏi cán bộ thẩm định phải có một
vốn kiến thức rất tổng hợp về thị trường, về quản trị doanh nghiệp, về khoa học kỹ thuật,
luật pháp, xã hội. Với những yêu cầu như vậy đòi hỏi phải có những cán bộ chun sâu chứ
khơng nên để cán bộ tín dụng kiêm nhiệm như hiện nay. Bởi lẽ hầu hết các cán bộ tín dụng
chỉ được đào tạo về nghiệp vụ ngân hàng chứ không chuyên sâu về thẩm định dự án. Vì vậy
theo ý kiến cá nhân em, ngân hàng nên tách một phần quân số hiện nay của phòng kinh
doanh để lập tổ thẩm định dự án của riêng mình. Để nâng cao hiệu quả của tổ thẩm định,

các cán bộ TD được tách ra sẽ cho đi học những khoá chuyên về thẩm định dự án, đồng
thời có thể thuê thêm một só chuyên gia trong một số lĩnh vực khác ngoài ngân hàng để
tăng thêm khả năng đánh giá dự án một cách tồn diện. Việc chun mơn hố như vậy sẽ
giúp cho cơng tác thẩm định được nhanh hơn, chính xác hơn, vừa rút ngắn thời gian chờ
đợi cho khách vừa đảm bảo an tồn cho ngân hàng, hơn nữa cịn hạn chế những tiêu cực
phát sinh trong quá trình thẩm định.
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các khoản vay; hợp tác chặt chẽ
với khách hàng để giải quyết khoa học số nợ quá hạn.


Kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay là một việc làm cần thiết để phòng ngừa và
ngăn chặn rủi ro tín dụng. Thực hiện thường xuyên sẽ giúp ngân hàng phát hiện kịp thời
những sai phạm của doanh nghiệp đồng thời giúp ngân hàng ln bám sát tình hình hoạt
động thực tế của dự án, nắm bắt được những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực
hiện dự án để có biện pháp đối phó kịp thời. Hiện nay việc kiểm tra giám sát sau khi vay ở
ngân hàng cịn mang nặng tính hình thức, kiểm tra chủ yếu dựa trên những tài liệu do
doanh nghiệp cung cấp và được tiến hành định kỳ mỗi quý một lần. Việc kiểm tra này
không mang lại hiệu quả cao, bởi lẽ chẳng có gì đảm bảo rằng những tài liệu do doanh
nghiệp cung cấp hoàn toàn đúng sự thật. Kiểm tra định kỳ và khơng thường xun như vậy
thì nếu doanh nghiệp khơng có thiện chí họ sẽ có những thủ thuật để che mắt cán bộ kiểm
tra. Để khắc phục điều này trong thời gian tới công tác kiểm tra, giám sát sau khi cho vay
phải được tiến hành chặt chẽ hơn nữa, việc kiểm tra trực tiếp tại cơ sở không nên tiến
hành định kỳ như hiện nay mà nên tiến hành ngẫu nhiên, không báo trước có vậy mới đảm
bảo những gì mắt thấy tai nghe là trung thực.
Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy doanh nghiệp gặp khó khăn khơng thể trả
nợ theo đúng hợp đồng thì CBTD cũng khơng
nên q hốt hoảng tìm mọi cách thu nợ,
mà nên báo cáo về ngân hàng để có biịen pháp xử lý kịp thời. Về phía ngân hàng nên xem
xét thận trọng phối hợp với khách hàng giải quyết khoa học số nợ quá hạn. Có thể áp dụng
hai biện pháp khai thác và thanh lý. áp dụng biện pháp khai thác nếu xét thấy những khó

khăn là có thể vượt qua. Hình thức cụ thể là có thể kết hợp một hoặc nhiều biện pháp sau:
Ngân hàng tư vấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp trên nhiều khía cạnh nhằm tác động
đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận.
Ngân hàng đề nghị doanh nghiệp quản lý chặt chẽ quỹ chi tiêu, tư vấn cho doanh
nghiệp một số biện pháp tăng vốn bằng cách giải toả số hàng tồn kho, bán bớt một phần
tài sản có giá trị và thanh lý những tài sản không sử dụng
Ngân hàng đề nghị doanh nghiệp tổ chức lại hệ thống sản xuất kinh doanh, thay đổi
thiết bị máy móc, cơng nghệ.
Nếu do ngun nhân khách quan bất khẩ kháng khiến doanh nghiệp khơng trả được nợ
thì ngân hàng có thể xem xét gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay tương ứng với kỳ
hạn có thể thu hồi tiền của doanh nghiệp
Nếu cần ngân hàng có thể tham gia điều hành doanh nghiệp cho đến khi thu hồi được
nợ.
Nếu xét thấy biện pháp khai thác là khơng thuận lợi và khơng có hy vọng thu hồi thì
ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để xử lý các khoản nợ khó địi. Biện pháp thanh lý
chỉ nên coi là giải pháp tình thế khi khơng cịn cách lựa chọn nào khác. Nói chung khi đã áp
dụng hình thức này thì khó tránh khỏi những tổn thất. Chính vì vậy, điều quan trọng là
phải tránh những nguy cơ ngay từ những khâu trước đó.
3.2.5. Vấn đề nhân sự:
Yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định trong mọi lĩnh vực hoạt động, đặc biệt với
một lĩnh vực nhạy cảm và phức tạp như TDNH thì điều đó càng đúng hơn bao giờ hết. Tất
cả những giải pháp đưa ra ở trên sẽ không thể phát huy được hiệu quả nếu không được
thực hiện được nếu không được thực hiện bởi những con người cụ thể trong ngân hàng,
trực tiếp là các CBTD. Để phát huy nhân tố con người thì trước tiên cần phải có những


CBTD thực sự giỏi về chun mơn, có tầm hiểu biết rộng, có đạo đức, tinh thần trách nhiệm
cao sau đó là phải có những biện pháp thích hợp nhằm phát huy được năng lực của những
cán bộ đó. Muốn vậy, với NHCT Hai Bà Trưng trong thời gian tới cần tiến hành những biện
pháp đồng bộ sau:

a.Nâng cao trách nhiệm, thưởng phạt nghiêm minh đối với cán bộ tín dụng.
Cán bộ tín dụng là những người thực tế thẩm định và đề xuất cho vay khách hàng, là
người chịu trách nhiệm chính đối với khoản tín dụng bị rủi ro. Do vậy phải nâng cao trách
nhiệm của CBTD, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh.
Ngoài ra, chi nhánh cần có chế độ khen thưởng xứng đáng với những cán bộ có thành
tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng. Đây là một việc làm quan trọng nhằm giải quyết
tình trạng cán bộ tín dụng “ngại” cho vay. Do yếu tố tâm lý, CBTD cho rằng nếu cho vay thu
nợ đầy đủ hàng trăm tỷ cũng không được khen thưởng, không được tăng lương, nhưng chỉ
cần một khoản vay phát sinh quá hạn là bị coi là yếu kém, bị xử lý...Do vậy CBTD chỉ cần
hoạt động cầm chừng.
b. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động, sự phát triển như vũ bão của
khoa học kỹ thuậtngày nay đòi hỏi việc trang bị thêm những kiến thức mới, cập nhật thông
tin phải được tiến hành hàng ngày, hàng giờ để theo kịp những thay đổi đó,đặc biệt với
hoạt động ngân hàng là hoạt động có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã
hội. Để đáp ứng u cầu đó, về phía NHCT Hai Bà Trưng nên thường xuyên tổ chức các lớp
tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; các cơ chế thể lệ chính sách của ngành, liên
ngành; chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương. Trong quá trình bồi dưỡng, tập
huấn phải gắn lý luận với thực tiễn để các CBTD có thể vận dụng kiến thức một cách linh
hoạt, sáng tạo trong thực tế. Bêncạnh đó phải thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức, tác
phong nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động nhất là về văn minh thương
mại trong giao tiếp với khách hàng. Tất cả những biện pháp đó đều nhằm một mục đích
duy nhất là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung dài hạn nói riêng của NHCT Hai Bà Trưng.
3.3. MỘT VÀI KIẾN NGHỊ.
Như trong chương hai đã phân tích, trong số các nguyên nhân gây ra những mặt
hạn chế trong hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng có những nguyên
nhân thuộc về phía các cơ quan quản lý vĩ mô mà trực tiếp là Nhà nước, NHNN, NHCT VN.
Mặt khác, trong số những gái pháp đưa ra trên đây có những giáp pháp chỉ có thể thực
hiện và phát huy được hiệu quả khi có sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía các cơ quan này. Những

kiến nghị đưa ra sau đây đều nhằm giải quyết hai vấn đề đó.
3.3.1. Đối với nhà nước.
a.Tạo mơi trường pháp lý đầy đủ hơn cho hoạt động TDNH.
Hệ thống pháp luật nước ta hiện nay chưa đồng bộ, tính ổn định chưa cao. Trong điều
kiện nước ta đang chuyển sang cơ chế thi trường, nhiều vấn đề cơ bản của cơ chế thị
trường chưa được nghiên cứu kỹ. Do những tác động cả chủ quan và khách quan mà hệ
thống pháp luật nước ta chưa đồng bộ, chưa thực sự là cán cân cơng lý trong kinh doanh.
Trong điều kiện đó,phương pháp tốt nhất để hoàn thiện pháp luật kinh tế là cần tiến hành


hai công việc; vừa xây dựng các văn bản pháp quy về kinh tế, vừa nghiên cứu để ban hành
bộ luật mới nhằm thống nhất các quy định pháp luật trong văn bản luật kinh tế.
Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản luật cần thiết để chỉnh
các quan hệ như: Luật doanh nghiệp, Luật thuế, pháp lệnh chuyển giao công nghệ, hợp
đồng kinh tế.
Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với tổ chức kinh tế sự cảnh giác vẫn là một
nhân tố quan trọng, đồng thời với việc phát triển hoạt động ngân hàng cũng phải có thêm
các biện pháp mới để Luật ngân hàng hồn thiện hơn. Do đó nhà nước nên sửa và bổ sung
một số luật như: Luật đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, Luật thế chấp phát mại tài
sản... phục vụ cho hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như thị trường vốn.Như vậy đứng
trên giác độ ngân hàng các nhân tố trên sẽ làm giảm bớt rủi ro, nâng cao tính sẵn sàng
đầu tư của ngân hàng. Những nhân tố đó giúp cho ngân hàng mạnh dạn mở rộng quan hệ
tín dụng với mọi thành phần kinh tế.
b. Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động và vay vốn ngân
hàng.
Để khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn vào phát triển sản
xuất trước tiên Nhà nước cần phải tạo lập được một hệ thống cơ sở pháp lý , cơ chế, chính
sách ổn định và hợp lý. Mọi quyết định mà Chính phủ đưa ra đều phải cân nhắc kỹ càng,
tránh tình trạng đưa ra một quyết định mới một cách vội vàng rồi lại điều chỉnh, sửa đổi
như cơm bữa khiến cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư hoang mang khơng biết đường

nào mà lần.
Chính phủ cần có thái độ rất khốt trong việc rà sốt, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước, chỉ giữ lại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp mà Nhà
nước thực sự cần phải lắm giữ để đảm bảo vai trò định hướng kinh tế. Còn lại những
doanh nghiệp khác có thể xử lý bằng cách giải thể, sáp nhập hoặc cổ phần hoá nhằm tăng
vốn, tăng năng lực sản xuất kinh doanh. Với những doanh nghiệp giữ lại Nhà nước cần
cung cấp đủ vốn theo điều lệ đã được duyệt nhằm tạo ddiều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp hoạt động và vay vốn ngân hàng.
Kiểm soát nghiêm ngặt các luồng hàng từ bên ngoài đưa vào để ngăn chặn hàng nhập
lậu. Đây là một trong những vấn đề nhức nhối nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện
nay đang phải đối mặt.
Có chính sách khuyết khích các doanh nghiệp có phương án đổi mới trang thiết bị, công
nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm thay thế hàng nhập
khẩu hoặc có thể xuất khẩu, thơng qua nguồn cho vay ưu đãi, tạo thuận lợ về mặt thủ tục
xuất nhập khẩu.
c.Nhà nước cần có sự theo dõi, chỉ đạo sát sao các cấp chính quyền trong việc
bảo đảm quyền tự chủ trong hoạt động của các NHTM.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh,có khơng ít các dự án vay vốn mặc dù NHCT Hai
Bà Trưng thấy không đủ điều kiện cho vay nhưng dưới sức ép của chính quyền địa phương
nên không thể từ chối. Rất nhiều dự án kiểu như vậy đã dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Để
bảo đảm sự lành mạnh thực sự cho hoạt động của cá ngân hàng, trong thời gian tới Chính
phủ cần lưu tâm hơn đến vấn đề này.
d. Thành lập cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm.


Cơ quan này sẽ có trách nhiệm thu thập, xử lý, phân tích thơng tin về tình hình tài chính,
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có dăng ký để tiến hành đánh giá,
xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp đó. Trên cơ sở bảng xếp hạng của tổ chức này, các
NHTM sẽ thamkhảo để có được những đánh giá chính xác về doanh nghiệp vay vốn. Để
đảm bảo hiệu quả hoạt động của tổ chức này, Chính phủ có thể bắt buộc chỉ những doanh

nghiệp nào có đăng ký tại cơ quan xếp hạng tín nhiệm mới được ngân hàng xem xét cho
vay vốn. Bằng cách làm này, các doanh nghiệp sẽ phải tự giác tham gia đăng ký xếp hạng
để có được giấy chứng nhận nếu muốn vay vốn ngân hàng. Ngoài tác dụng giúp đỡ ngân
hàng trong việc thẩm định khách hàng, hoạt động của tổ chức này còn tạo động lực thúc
đẩy các doanh nghiệp tự hoàn thiện, nâng cao năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh
doanh, uy tín của mình để có được vị trí xếp hạng cao. Đó cũng là một cách để tạo môi
trường đầu tư thuận lợi thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài.
3.3.2. Đối với ngân hàng nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các quy định, quy chế và môi trường pháp lý của
hoạt động tín dụng cụ thể:
a.Sớm hồn thiện đề án: thành lập công ty mua bán nợ, khai thác tài sản đảm bảo
để giải quyết nợ tồn đọng của các ngân hàng trong tài sản đảm bảo vay vốn ngân hàng
b.Loại bỏ mức lãi xuất trần cho vay tín dụng
Thực hiện điều hành chính sách tiền tệ theo lãi suất cơ bản vì với áp lực hạ trần lãi xuất
liên tục gây ra khó khăn lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Đầu năm 2000
mặc dù trong thị trường tiền tệ tín dụng vẫn đang có trần lãi xuất do NHNN quản lý,
nhưng những lãi xuất thực trên thị trường đã cơ bản thoát ly lãi suất “trần” này theo
hướng thấp hơn ở mức ngày càng báo động đối với hiệu quả tài chính của các NHTM. Các
NHTM không thể hạ thấp lãi xuất đầu ra với tốc độ lớn hơn tốc đọ hạ lãi xuất tiền gửi đầu
vào. Mặt khác do cạnh tranh tín dụng ở đàu ra nên buộc các ngân hàng phải giảm lãi xuất
để tìm kiếm khách hàng vay và mặc nhiên các NHTM phải chạy đua giảm trần lãi suất từ
trần lãi suất quản lý của nhà nước. Trên ý nghĩa đó trần lãi suất trở thành một hình ảnh
mang tính lịch sử và danh nghĩa.
c. Bảo đảm thơng tin chính xác, kịp thời, đầy đủ cho các NHTM.
Thông tin ở đây bao gồm hai loại: thứ nhất là thông tin về doanh nghiệp; thứ hai là
những thơng tin có tính chất định hướng cho hợt động của NHTM. Những thông tin về
doanh nghiệp sẽ được thu thập và cung cấp qua trung tâm thơng tin tín dụng của
NHNN(CIC), bao gồm thơng tin về khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh,hệ số an tồn
vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM, với các doanh nghiệp khác. Đây sẽ là
căn cứ đáng tin cậy để các NHTM sử dụng trong q trình thẩm định khách hàng.

Cùng với thơng tin về doanh nghiệp, NHNN còn phải lắm vững để cung cấp cho các
NHTM những thông tin về phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế của đất nước, của từng vùng, từng khu vực trong từng thời kỳ; tư vấn cho
NHTM về những lĩnh vực, những ngành mũi nhọn cần tập trung đầu tư vốn tín dụng nhằm
góp phần thực hiện những chủ trương, đường lối phát triển chung đòng thời phát huy hiệu
quả đồng vốn, bảo đảm an tồn tín dụng cho NHTM.
d. NHNN cần tăng thêm quyền tự chủ cho các NHTM, chi nhánh NHTM.


Sự quản lý của NHNN chỉ nên dừng lại ở những vấn đề vĩ mô, những vấn đề chung nhất
mang tính định hướng chứ khơng nên đưa ra những quy định quá cụ thể, chi tiết liên quan
đến những vấn đề mang tính đặc thù riêng của mỗi ngân hàng, bởi lẽ điều kiện hoạt đọng
của các NHTM không giống nhau, nếu đưa ra những quy định cụ thể áp dụng chung cho
mọi ngân hàng thì sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thích ứng với mơi trường
kinh doanh cụ thể của mình. Đơn cử như quy định về vốn tự có tối thiểu của các doanh
nghiệp tham gia vào dự án, trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp có phương án kinh
doanh rất tốt, có đủ tài sản thế chấp nhưng không đủ vốn tự có tham gia dự án như u
cầu nên khơng được vay vốn, rõ ràng trong trường hợp này ngân hàng đã mất đi một
khách hàng đầy tiềm năng. Quy định về tỷ lệ vốn tối thiểu của doanh nghiệp tham gia dự
án là nhằm ràng buộc, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc thực hiện dự
án. Nhưng điều này thực sự có cần thiết hay khơng bởi lẽ khi doanh nghiệp đã sẵn sàng thế
chấp toàn bộ tài sản của mình để vay vốn thì đương nhiên họ phải có trách nhiệm với
khoản vay nếu như khơng muốn bị xiết nợ bằng tài sản thế chấp. Hay như quy định về một
TSTC chỉ được thế chấp tại một ngân hàng cũng có chỗ khơng ổn. Nếu một doanh nghiệp
có TSTC có giá trị lớn hơn nhiều lần khoản vốn vay nhưng do ngân hàng hiện đang nhận
thế chấp khơng muốn cho doanh nghiệp vay nữa thì doanh nghiệp đó cũng đành chịu
khơng thể vay vốn ở ngân hàng khác. Đưa một vài ví dụ như vậy là để muốn nói rằng vai
trị quản lý vĩ mơ của NHNN là cần thiết song ở một mức đọ nhất định cần đảm bảo quyền
tự chủ kinh doanh cho các NHTM để họ phát huy sự sáng tạo, linh hoạt nhằm thích ứng với
mơi trường kinh doanh.

3.3.3.Đối với ngân hàng công thương VN
a.Tăng cường công tác thông tin cho các chi nhánh trong hệ thống NHCT
Từ tháng 9/1997 NHCTVN đã triển khai áp dụng chương trình phần mềm “Thơng tin
phịng ngừa rủi ro”. Sau hai năm chương trình đã vạn hành tương đối tốt, nên chăng trong
thời gian tới một mặt phát huy những mặt tích cực đạt được, mặt khác nên phát triển
nghiệp vụ lên một bước cao hơn nữa. Bên cạnh những thông tin về doanh nghiệp, NHCTVN
cần cung cấp thêm cho các chi nhánh về những thông tin hoạt động của nghành như: lợi
nhuận bình quân, những tiến bộ khoa học công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng, chủ trương
chính sách quảnlý vĩ mơ của Nhà nước, các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội,
tình hình hoạt đọng của các ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống.
Hỗ trợ các chi nhánh trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ; mời các chuyên gia,
những người có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vựcTDNH để tổ chức các buổi nói chuyện,
trao đổi, học tập nhằm nâng cao hơn kiến thức chuyên môn cũng như kinh nghiệm cho các
CBTD. NHCTVN cũng có thể hỗ trợ kinh phí, cử cán bộ đi học ở các trường đại học, các
trung tâm nghiên cứu kinh tế, khoa học trong và ngoài nước. Cung cấp đầy đủ các tư liệu,
văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn và các quy định
khác có liên quan của Chính phủ, NHNN, NHCT để CBTD tự tham khảo và nghiên cứu.
b.Có chính sách khuyến khích các chi nhánh NHCT mở rộng, đa dạng hố hình
thức cho vay trung dài hạn.
Trong thời gian qua hoạt động cho vay nói chung và cho vay trung dài hạn nói riêng
của các chi nhánh được NHCTVN quản lý khá chặt chẽ. Các khoản cho vay của các chi


nhánh đều phải thực hiện qua NHCTVN. Ngồi hình thức cho vay theo dự án đầu tư, các
hình thức cho vay khác đều phải có sự xem xét chỉ đạo củaTổng giám đốc NHCTVN thì mới
được thực hiện. Các chi nhánh cũng dược chỉ đạo không được cho vay với các DNNQD nếu
khơng có tài sản thế chấp. Những quy định này là nhằm đảm bảo an toàn cho chi nhánh
song chúng cũng phần nào hạn chế khả năng mở rộng cho vay của NHCT Hai Bà Trưng nói
riêng và của các chi nhánh NHCT nói chung. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các chi
nhánh NHCT trong việc mở rộng cho vay trung dài hạn, NHCTVN nên khuyến khích các chi

nhánh thực hiện các hình thức cho vay mới như cho vay trả góp, cho vay hợp vốn, cho vay
theo hạn mức tín dụng dự phịng.


KẾT LUẬN.

Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới, nâng cao chất lượng tín dụng nói
chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng là u cầu cấp bách không chỉ của NHCT Hai Bà
Trưng mà cuả tất cả các NHTMVN hiện nay, nhằm hội nhập vào cái xu thế chung đó. Với
tinh thần mong muốn đóng góp vốn kiến thức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất
lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng, trong luận văn này em đã đề cập đến
những nội dung chính sau:
*Đưa ra một quan điểm khác về chất lượng tín dụng ngân hàng, phân tích các chỉ tiêu
đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung dài hạn để lấy đó làm
tham chiếu phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai
Bà Trưng.
*Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại NHCT Hai Bà Trưng qua ba
năm 98,99,2000. Thấy được những mặt tích cực cần tiếp tục phát huy đồng thời nhìn nhận
một cách khách quan những điểm hạn chế và nguyên nhân của chúng để đưa ra giải pháp
khắc phục.
*Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng
trung dài hạn của NHCT Hai Bà Trưng trong thời gian tới.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là những giải pháp sơ lược, mang tính lý thuyết và được đưa ra
dưới góc độ nghiên cứu cá nhân. Mặt khác, do năng lực và hiểu biết cịn hạn chế nên luận
văn này khơng tránh khỏi những sai sót.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy hướng dẫn và các
cán bộ tín dụng phịng kinh doanh, Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng.




×