Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Cơ sở lí luận và thực tiễn về Kinh tế hợp tác và hợp tác xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.46 KB, 23 trang )

Cơ sở lí luận và thực tiễn về Kinh tế hợp tác và hợp tác xã

I. khái niệm, bản chất và các loại hình Kinh tế hợp tác và hợp tác
xã.
1.Kinh tế hợp tác .
1.1 Khái niệm, bản chất và vai trò của kinh tế hợp tác (KTHT).

Sự hợp tác trong lao động sản xuất của con người diễn ra từ rất sớm vì sự
hợp tác trong lao động sản xuất là bản tính xã hội của con người ( Các Mác)
thực tiễn cho thấy trong quá trình sản xuất con người buộc phải liên kết với
nhau để thực hiện những hoạt động mà từng người tách riêng ra không thể thực
hiện được hay thực hiện kém hiệu quả.
Nông nghiệp là hoạt động sản xuất vật chất đầu tiên mà con người tiến
hành, sản xuất nông nghiệp diễn ra trên không gian rộng và chịu ảnh hưởng
rất lớn bởi các điều kiện khách quan, trong đó có nhiều tác động tự nhiên tiêu
cực như hạn hán, bão lụt chỉ có thể được hạn chế và khắc phục khi có sự
chung sức của nhiều người sản xuất. Sản xuất nông nghiệp cịn mang tính
thời vụ nên trong nhiều trường hợp địi hỏi sự tập trung sức lao động và công
cụ lao động để hồn thành một số cơng việc trong khoảng thời gian nhất định.
Mặt khác, những người sản xuất nông nghiệp lại chủ yếu là các hộ nông dân
với nguồn lực rất có hạn. Do vậy khác với các ngành sản xuất khác, sản xuất
nơng nghiệp ln địi hỏi sự liên kết, sự chung sức tự nguyện giữa những
người sản xuất để hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất. Tuy
nhiên trong nông nghiệp do điều kiện sản xuất cũng như nội dung, tính chất
của các hoạt động sản xuất kinh doanh rất đa dạng mà sự liên kết giữa những
người sản xuất cũng đa dạng và được thực hiện với những hình thức, quy mơ
và nội dung khác nhau.
Trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau, do các hoạt động kinh tế có những
đặc điểm riêng mà kinh tế hợp tác có đặc điểm khác. Trong công nghiệp hợp tác
giữa những người lao động sản xuất có thể thực hiện trong mọi khâu của q
trình sản xuất, từ đảm bảo các yếu tố đầu vào đến khâu trực tiếp sản xuất và tiêu




thụ sản phẩm. Ngược lại trong nông nghiệp, đối tượng của sản xuất nông nghiệp
là những cơ thể sống chịu ảnh hưởng trực tiếp thường xuyên và rất mẫn cảm với
các tác động của tự nhiên và của con người, chúng ln địi hỏi sự chăm sóc tỉ
mỉ và thường xuyên của những người chủ thực sự và trực tiếp của đồng ruộng
và chuồng trại. Vì vậy trong nơng nghiệp hợp tác giữa những người lao động
sản xuất thường là hợp tác trong các khâu cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, cịn khâu sản xuất trực tiếp thì do các hộ nông
dân đảm nhiệm.
Traianôp cho rằng: Hợp tác xã nông nghiệp là bổ sung cho các hộ nông dân
xã viên, phục vụ nó và nếu khơng có nó thì kinh tế hợp tác khơng có ý nghĩa.
Nhà lý luận người Mỹ Êmiliannôp quan niệm rằng: Hợp tác xã không phải là
một xí nghiệp tập thể mà là tập hợp xí nghiệp các hộ thành viên vẫn giữ được
tính độc lập của mình, khác với các bộ phận của một xí nghiệp phụ thuộc hồn
tồn vào xí nghiệp.
Lênin cho rằng “Nếu chúng ta tổ chức được tồn thể nơng dân vào hợp tác xã
thì chúng ta đã đứng được hai chân trên miếng đất xã hội chủ nghĩa”.
1.2. Những nguyên tắc cơ bản của kinh tế hợp tác.

Có thể nêu ra nhiều nguyên tắc cơ bản của kinh tế hợp tác, dưới đây chỉ xin
nêu ra một số nguyên tắc cơ bản nhất:
- Nguyên tắc tự nguyện: Người nông dân trên cơ sở lợi ích của mình mà
hồn tồn tự nguyện, tự quyết định việc gia nhập và ra khỏi các tổ chức kinh
tế hợp tác. nguyên tắc tự nguyện có vị trí hết sức quan trọng đối với kinh tế
hợp tác vì chỉ có dựa trên sự tự nguyện của những người tham gia thì sự liên
kết giữa những người tham gia với nhau mới là thực chất và do đó kinh tế
hợp tác mới có cơ sở vững chắc để hình thành và tồn tại. Lênin ln nhấn
mạnh ngun tắc tự nguyện và ngưòi coi tự nguyện là nguyên tắc tiên quyết
của kinh tế hợp tác.

- Nguyên tắc cùng có lợi: Theo ngun tắc này lợi ích của các thành viên
tham gia kinh tế hợp tác đều được đảm bảo. Lợi ích kinh tế thiết thân là động
lực, là căn cứ thúc đẩy các hộ nông dân tham gia các tổ chức kinh tế hợp tác.


Đây là nguyên tắc cơ bản nhất có ý nghĩa quyết định nhất đối với kinh tế hợp
tác.
- Nguyên tắc quản lý dân chủ: Theo nguyên tắc này tổ chức và hoạt động
của các đơn vị kinh tế hợp tác phải thực sự dân chủ. Tập thể thành viên của các
tổ chức hợp tác phải là người quyết định mọi vấn đề về tổ chức và hoạt động
của đơn vị hợp tác mà họ tham gia.
- Nguyên tắc giúp đỡ của Nhà nước: Để hình thành và phát triển kinh tế
hợp tác thì khơng thể thiếu sự giúp đỡ của Nhà nước về tài chính, kỹ thuật…
Tuy vậy do bản chất của kinh tế hợp tác mà sự giúp đỡ của Nhà nước phải tơn
trọng các ngun tắc trên thì sự giúp đỡ của Nhà nước mới phát huy hết tác
dụng.
1.3. Các hình thức kinh tế hợp tác trong nơng nghiệp.

Sản xuất nông nghiệp rất đa dạng nên nhu cầu hợp tác trong sản xuất
kinh doanh cũng đa dạng, từ đó dẫn tới tính đa dạng của các hình thức hợp tác
trong nơng nghiệp. Các hình thức hợp tác này phân biệt với nhau bởi tính chất,
nội dung hoạt động, quy mơ hoạt động, quy mơ và trình độ tổ chức. Có thể nêu
ra một số hình thức chủ yếu của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp.
- Tổ hợp tác: Tổ hợp tác thường có quy mơ nhỏ, có nội dung hoạt động hẹp,
đơn mục tiêu, hình thành và hoạt động trên cơ sở hợp tác giản đơn, chưa có tổ
chức chặt chẽ, thường có vốn quỹ chung, hoạt động chưa có điều lệ, khơng phải
đăng ký kinh doanh nên chưa phải là pháp nhân kinh tế. Các tổ hợp tác trong
nông nghiệp thường không cố định.
- Hợp tác xã: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ, có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ, có vốn quỹ chung, được cấp đăng ký kinh doanh và có tư cách pháp nhân.

Luật HTX nước ta quy định “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những
người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập
ra theo quy định của pháp luật”. ở nước ta HTX được xem là hình thức cơ bản
của KTHT.
- Hội (câu lạc bộ) nghề nghiệp: Hội (câu lạc bộ) nghề nghiệp là một hình
thức hợp tác có phạm vi hoạt động linh hoạt, thường gắn với một loại sản


phẩm trồng trọt, chăn nuôi hay một lĩnh vực hoạt động nào đó (nhu hội sinh
vật cảnh, hội làm vướn, hội nuôi ong), song không phải là một tổ chức sản
xuất kinh doanh, khơng có tư cách pháp nhân. Các thành viên tham gia chủ
yếu là để trao đổi, giúp đỡ nhau về kinh nghiệm sản xuất, kỹ thuật sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm
- Hiệp hội theo sản phẩm hay nhóm sản phẩm: Đây là hình thức hợp tác có
phạm vi hoạt động rộng, có thể là phạm vi một vùng, một miền hay cả nước.
Thành viên của hiệp hội là những chủ thể kinh tế (có thể thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau) tham gia hiệp hội nhằm phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong sản
xuất kinh doanh. Hiệp hội có điều lệ hoạt động song khơng phải là đơn vị sản
xuất kinh doanh.
Mỗi hình thức KTHT nêu trên đều có vị trí, vai trị quan trọng thích hợp
trong những điều kiện nhất định mà khi hình thức hợp tác nào có thể thay thế.
Bât kỳ một sự áp đặt hình thức hợp tác khơng phù hợp nào cũng đều dẫn đến
làm giảm hiệu quả hoạt động và làm suy yếu kinh tế hợp tác.
2. Hợp tác xã:
2.1. Khái niệm.

- Theo liên minh HTX quốc tế (International cooperative alliance- ICA):
“HTX là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng
các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hố thơng
qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”.

- Tổ chức lao động quốc(TLO) định nghĩa HTX là sự liên kết của những
người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết lại
trên cơ sở bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển
giao vào HTX phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết khó khăn đó chủ
yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng
kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích và tinh thần chung.
- Ngày 20/3/1996 Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua Luật HTX. Tại Điều 1 Luật khẳng dịnh:” HTX là tổ chức kinh tế tự
chủ do những người lao động có nhu cầu lợi ích chung, tự nguyện cùng góp


vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể, cùng giúp nhau thực hiện có
hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh “.
- HTX kiểu mới là tổ chức kinh tế tự chủ của những người lao động có nhu
cầu, lợi ích chung tự nguyện
2.2. Những đặc điểm cơ bản của HTX kiểu mới ở Việt Nam.

góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh
của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúy nhau thực hiện có hiệu quả hơn các
hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước. Hợp tác xã có tư cách pháp nhân, có tổ chức
chặt chẽ, hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình và
được đối xử bình đẳng như các thành phần kinh tế khác.
- Nguyên tắc tổ chức hoạt động của hợp tác xã: Khi xây dựng HTX kiểu
mới phải đảm bảo 5 nguyên tắc cơ bản: Tự nguyện gia nhập và ra khỏi HTX
theo quy định của điều lệ HTX; quản lý dân chủ và bình đẳng, mỗi xã viên đều
có quyền ngang nhau trong biểu quyết; tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; chia
lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên với sự phát triển của HTX.
- Quan hệ sở hữu và phân phối trong HTX: Khi ra nhập HTX mỗi xã viên
bắt buộc phải góp vốn theo quy định của điều lệ. Phần vốn góp của xã viên

thuộc sở hữu của từng thành viên, các nguồn khác thuộc sở hữu chung của
HTX. Sau khi làm xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi của HTX được phân phối như
sau: Thanh toán các khoản bù lỗ; trích lập các quỹ của HTX; chia lãi theo vốn
góp và cơng sức đóng góp của xã viên có tính đến mức độ sử dụng dịch vụ của
HTX.
- Xã viên HTX: Có thể là cá nhân hoặc hộ gia đình, mỗi xã viên có thể
đồng thời là thành viên cuả nhiều HTX, khơng phân biệt ngành, nghề, địa giới
hành chính. Mỗi xã viên đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
- Quan hệ giữa HTX và xã viên: HTX tôn trọng quyền độc lập tự chủ kinh
tế của xã viên. Sự hình thành và phát triển HTX nơng nghiệp khơng phá vỡ tính
độc lập tự chủ của kinh tế hộ, trang trại gia đình. Nó có tác đụng tạo điều kiện


phát triển tăng thu nhập cho kinh tế của các hộ xã viên. Trên cơ sở đó mà thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế HTX.
- Điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể HTX: Khi thành lập HTX cần
phải có điều lệ, phương án sản xuất kinh doanh cụ thể có tính khả thi, được đại
hội xã viên thơng qua và cơ quan có trách nhiệm phê duyệt. Trong trường hợp
giải thể theo nghị quyết của đại hội xã viên, hoặc bị buộc phải giải thể theo
quyết định của pháp luật, HTX phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với cơ quan có
thẩm quyền. Đại hội xã viên hoặc đại hội đại biểu xã viên có thẩm quyền quyết
định cao nhất đối với mọi hoạt động của HTX.
- HTX là một tổ chức kinh tế do các thành viên tự nguyện lập ra, nó khơng
phải là một tổ chức xã hội. HTX hoạt động theo luật pháp quy định trước hết về
mục tiêu kinh tế. HTX chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ xã hội đối với các
xã viên của chính HTX, khơng thể biến HTX thành một tổ chức xã hội, hoặc bắt
buộc HTX làm nhiệm vụ như một tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị
của địa phương.
2.3. Các loại hình HTX


Căn cứ vào điệu kiện cụ thể của Việt Nam việc phan loại HTX thường
được dựa vào: Chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hố, quy mơ và
đặc điểm hình thành HTX.
- HTX dịch vụ: Bao gồm 3 loại: HTX dịch vụ từng khâu, HTX dịch vụ
tổng hợp đa chức năng và HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX “chuyên
ngành”. HTX dịch vụ từng khâu có nội dung hoạt động tập chung vào từng lĩnh
vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu cơng việc trong qua trình sản
xuất. HTX dịch vụ tổng hợp - đa chức năng có nội dung hoạt động đa dạng,
gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản
phẩm …HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX “chuyên ngành” thường được
hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất – kinh doanh một
loại hàng hoá tập trung, hoặc cùng làm một nghề giống nhau.


- HTX sản xuất kết hợp dịch vụ: HTX loại này có đặc điểm nội dung hoạt
động sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp. Thường phù hợp trong các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, nghề đánh cá, nghề làm muối.
- HTX sản xuất – kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện: Đặc điểm cơ bản
của mơ hình HTX này là: cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy quản lý
theo nguyên tắc của HTX kiểu mới; sở hữu tài sản trong HTX gồm hai phần sở
hữu tập thể và sở hữu cổ phần; HTX hoạt động sản xuất – kinh doanh vì mục
tiêu lợi nhuận nhằm phát triển kinh tế HTX và đem lại lợi ích cho xã viên; HTX
loại này thích hợp với lĩnh vực tiểu thủ cơng nghiệp, xây dựng, khai thác

II.khái niệm và đặc điểm Hợp tác xã nông nghiệp.
1. Khái niệm.
Từ khái niệm về hợp tác và kinh tế hợp tác xã ta có thể hiểu hợp tác xã
trong Nông nghiệp như sau: HTX nông nghiệp trước hết là một tổ chức của kinh
tế hợp tác của những người sản xuất nông nghiệp. Được thành lập trên nguyên
tắc tự nguyện, dân chủ nhằm đáp ứng những yêu cầu về dịch vụ đa dạng trong

sản xuất nông – lâm – ngư và đời sống của chính các xã viên tham gia. HTX
nơng nghiệp có thể là các tổ chức kinh tế hợp tác của nơng dân, ít nhất trên 3
lĩnh vực: thứ nhất đó là lĩnh vực cung ứng các yếu tố đầu vào của sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu… hợp tác trong khâu làm đất, thuỷ lợi, thứ hai trong
lĩnh vực giải quyết đầu ra của sản xuất nông nghiệp bao gồm hoạt động thu mua
chế biến đóng gói và tiêu thụ nơng sản ở thị trường trong và ngoài nước, thứ ba
trong lĩnh vực trực tiếp tổ chức sản xuất tập trung trong trồng trọt, chăn nuôi, kể
cả nuôi thuỷ sản.
2. Đặc điểm của hợp tác xã nông nghiệp.
2.1.Quyền hạn và nghĩa vụ của hợp HTX nơng nghiệp.

- HTX nơng nghiệp có quyền về lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực, quy mô
sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động, quyết định cơ cấu tổ chức, thuê lao
động, xuất nhập khẩu, phân phối thu nhập, huy động vốn, được bảo hộ bí quyết


về công nghệ và quyền từ chối những can thiệp từ bên ngoài trái với quy định
của pháp luật.
Cụ thể hơn chi tiết hơn một số nội dung đặc thù của HTX nông nghiệp: thứ
nhất chủ động tổ chức các hoạt động kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp theo
khả năng, lợi thế và tập quán sản xuất. Thứ hai, chủ động tìm kiếm các khả năng
phát triển các ngành nghề khác nhau để đa dạng hoá kinh tế HTX, thốt dần
khỏi tình trạng thuần nơng và độc canh, hiệu quả thấp.
- Về nghĩa vụ: Giống như các loại hình doanh nghiệp khác HTX phải tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ ngành nghề đã đăng ký, thực
hiện các nghĩa vụ về việc bảo đảm các quyền của xã viên, thực hiện nghĩa vụ
đối với xã viên trực tiếp lao động cho HTX và người lao động làm thuê. Ngoài
ra phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước và toàn xã hội.
2.2. Điều kiện xã viên, quyền lợi, nghĩa vụ của xã của HTX nông nghiệp.


- Điều kiện để trở thành xã viên HTX nông nghiệp: Là công dân lao động
nông nghiệp hoặc lao động trong một số hoạt động gắn bó mật thiết với lĩnh
vực nơng nghiệp từ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, là người
dân sống trong cùng cộng đồng nông thôn.
- Quyền lợi của xã viên HTX nông nghiệp: Được làm việc cho HTX và
hưởng thù lao theo lao động, được hưởng phần lãi chia theo vốn góp, theo cơng
sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ HTX, được HTX cung cấp các thơng
tin cần thiết, được bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ, được hưởng các
phúc lợi chung của HTX, được khen thưởng khi có nhiều đóng góp xây dựng và
phát triển HTX.
- Nghĩa vụ của xã viên HTX nông nghiệp: Gồm hai mặt nghĩa vụ vật chất
và nghĩa vụ chính trị. Cụ thể, chấp hành điều lệ, góp vốn theo quy định, cùng
chịu rủi ro, thiệt hại và các khoản lỗ của HTX trong phạm vi vốn góp của mình,
bồi thường thiệt hại cho mình gây ra cho HTX theo quy định của điều lệ.
2.3. Quan hệ tài sản và tài chính của HTX nơng nghiệp.

- Quan hệ tài sản trong HTX nông nghiệp: Tài sản của HTX nông nghiệp
được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, đó là nguồn vốn góp của xã viên


dưới dạng tiền tệ hoặc hiện vật quy ra giá trị; nguồn vốn vay ngân hàng và các
tổ chức kinh tế; nguồn quà biếu theo tính chất kinh tế và pháp lý của nhuồn gốc
hình thành tài sản của HTX phân thành: nhóm tài sản từ nguồn nội tại và nhóm
tài sản từ bên ngồi. Quan hệ tài sản trong HTX nơng nghiệp rất đa dạng, những
tài sản mang tính cộng đồng là những tài sản có giá trị lớn thường là tài sản
thuộc về các cơng trình cơng cộng.
Quan hệ tài chính trong HTX nơng nghiệp: Quan hệ tài chính trong HTX
nơng nghiệp phản ánh sự vận động của các dịng tiền tệ diễn ra trong HTX trong
q trình sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Cụ thể là những nguyên tắc trong việc
huy động vốn góp của xã viên các nguồn vốn khác để phát triển sản xuất kinh

doanh và phân phối lãi trong HTX nông nghiệp
2.4. Cơ sở khoa học về tổ chức quản lý HTX nông nghiệp

Các HTX nông nghiệp thực hiện quản lý dựa trên việc hình thành ba định
chế cơ bản đi từ dân chủ đến tập trung đó là: Đại hội xã viên, ban quản trị, ban
kiểm sốt. Trong đó đại hội xã viên là cơ quan quyền lực cao nhất và thực hiện
quyền lực của mình dựa trên nguyên tắc dân chủ tổng hợp quyền lực của các xã
viên, thể hiện ở chỗ có quyền quyết định mọi vấn đề về tổ chức, hoạt động của
HTX, có quyền lập ra ban quản trị, ban kiểm soát, chủ nhiệm HTX cũng như
các chức danh quan trọng khác.
Ban quản trị HTX nơng nghiệp có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch sản xuất kinh doanh dịch vụ huy động vốn trong HTX nơng nghiệp.
Ban quản trị có quyền lựa chọn kế toán trưởng, cơ cấu tổ chức và các bộ phận
nghiệp vụ, chun mơn HTX
Ban kiểm sốt thực hiện quyền giám sát, kiểm tra ban quản trị và xã viên
trong việc thực hiện nghị quyết của đại hội xã viên.
Chủ nhiệm HTX đại diện trước pháp luật để quan hệ đối ngoại, chủ động
điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX, được quyền triệu tập
các cuộc họp ban quản trị để thảo luận và quyết định các vấn đề phát sinh.
2.5. Cơ sở khoa học của mối quan hệ giữa nhà nước với HTX nông nghiệp.


Nhà nước được xem như một nhân tố cơ bản trong việc nuôi dưỡng phát
triển những nhu cầu hợp tác, hỗ trợ sự hình thành và trưởng thành của từng
HTX cũng như toàn bộ phong trào HTX. Mối quan hệ nhà nước – HTX thường
được thể hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, quan hệ trực tiếp: quan hệ này thường bắt đầu từ chức năng của
nhà nước trong lĩnh vực tổ chức các hoạt động kinh tế của xã hội, đó là tạo
khung pháp lý cần thiết cho các lực lượng thị trường hoạt động có hiệu quả.
Ngồi ra Nhà nước còn tổ chức các cơ quan hỗ trợ phát triển HTX với chức

năng theo dõi giám sát việc thi hành luật pháp của HTX.
Thứ hai, quan hệ gián tiếp: mối quan hệ này rất đa dạng nhiều cấp độ khác
nhau tuỳ thuộc rất nhiều vào quan điểm, cách nhìn của từng chính phủ đối với
khu vực kinh tế HTX. Chẳng hạn, chính phủ có thể coi HTX là phương tiện để
thực hiện các chính sách kinh tế của mình, khi đó chính phủ sẽ có nhiều hỗ trợ
vật chất cụ thể để tác động lên hệ thống này, hoặc nếu chính phủ chỉ nhìn nhận
HTX là một trong nhiều tổ chức kinh tế của lực lượng thị trường khi đó chính
phủ sẽ khơng sử dụng các yếu tố tác động riêng hoặc ưu đãi nào đối với HTX.

III. tính tất yếu khách quan của kinh tế hợp tác và hợp tác xã ở
Việt Nam.
Lịch sử phát triển kinh tế xã hội thế giới đã chứng minh rằng: sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau,
song về mặt cơ cấu và tổ chức kinh tế thì trong mỗi giai đoạn đều tồn tại rõ nét
ba khu vực khác nhau với vai trị vị trí và quy mơ của mỗi khu vực được biến
đổi theo sự phát triển ở mỗi giai đoạn. Khu vực kinh tế cá thể tư nhân là khu
vực có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế TBCN phát triển với
nhịp độ tăng trưởng cao, khu vực kinh tế nhà nước, nhìn chung hoạt động kinh
doanh trì trệ kém năng động, hiệu quả kinh tế thấp kém hơn khu vực tư nhân,
song lại có vai trị tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân và các khu vực khác phát
triển. Song song với hai khu vực kinh tế trên, hình thức tổ chức HTX ngày càng
phát triển, tuy không phải là khu vực chính để tạo ra tăng trưởng kinh tế mà là
khu vực phụ trợ, song khu vực này có vai trị, vị trí qan trọng trong giải quyết


việc làm đảm bảo đời sống cho đông đảo người lao động( nhất là ở các nước
đang phát triển) tạo sự ổn định xã hội và môi trường thuận lợi cho tăng trưởng
và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam cũng cho thấy vai trị, vị trí của các
khu vực kinh tế ở từng thời kỳ là khác nhau. ở giai đoạn thực hiện cơ chế kế

hoạch hoá tập trung và phân chia nền kinh tế thành hai khu vực: Khu vực kinh
tế XHCN và khu vực kinh tế phi XHCN thì khu vực kinh tế XHCN đóng góp
58.8% thu nhập quốc dân, khu vực kinh tế phi XHCN đóng góp 41,19% thu
nhập quốc dân.
Bước sang giai đoạn thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, so sánh giữa
vốn nắm giữ của các doanh nghiệp với kết quả đóng góp thấy khá rõ: Doanh
nghiệp nhà nước nắm giữ tỷ trọng vốn lớn hơn 68% tổng vốn doannh nghiệp
nhưng đóng góp trong tổng sản phẩm xã hội GDP là 40,29%, ngược lại khu vực
ngoài quốc doanh chỉ nắm dưới 10% tổng số vốn các doanh nghiệp nhưng đóng
góp đến 41,4% tổng GDP, HTX góp 8,9%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi 9,8% tổng GDP.
Chúng ta thấy rõ KTHT và HTX không phải là khu vực đem lại lợi nhuận
cao và đóng góp cho tăng trưởng kinh tế vì mục tiêu hoạt động của khu vực này
không đơn thuần chạy theo lợi nhuận nhưng lại có vai trị to lớn trong việc
mang lại lợi ích cho người lao động cá lẻ đảm bảo sự ổn định xã hội, thông qua
sự giúp đỡ hỗ trợ với mọi người lao động có cơ hội tham gia vào quá trình phát
triển kinh tế, bản thân họ và cộng đồng mà nếu để họ tự làm sẽ gặp khơng ít khó
khăn. Mặt khác, hình thức hợp tác này họ có thể tiếp nhận và sử dụng có hiệu
quả hơn các nguồn hỗ trợ của nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội đối với họ.
Với đặc điểm kinh tế nước ta còn chưa phát triển và kinh tế nông thôn, nông
nghiệp chiếm tỷ trọng cao (cả về lực lượng lao động và giá trị đóng góp cho xã
hội) bộ phận dân cư nghèo và yếu về kinh tế cịn khá lớn. Do đó đồng thời với
quá trình tăng trưởng , thúc đẩy tăng trưởng vầ phát triển kinh tế phải hết sức
coi trọng xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với từng gia đình của lực
lượng sản xuất. KTHT và HTX đặc biệt đối với nơng nghiệp , nơng thơn có ý
nghĩa vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình phát triển nền kinh tế nước nhà


theo định hướng XHCN. Song cùng với sự phát triển của tồn nền kinh tế theo
hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố tất yếu địi hỏi KTHT và HTX khơng chỉ

dừng lại ở các hình thức thơ sơ mà phải tự đổi mới luôn coi trọng việc trang bị
và sử dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng suất chất lượng mẫu
mã chủng loại của sản phẩm làm ra, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Đó là con đường đi lên mang tính quy luật khách quan mà kinh nghiệm
nhiều nước trên thế giới đã chỉ ra.

IV. khái quát tình hình phát triển Hợp tác xã Nơng nghiệp ở việt
nam
Tình hình phát triển của HTXNN Việt Nam có thể chia thành các giai
đoạn với các bước phát triển và hạn chế như sau:
1. Giai đoạn 1955- 1958:
Thí điểm xây dựng các HTX nơng nghiệp .
Trong nơng nghiệp, sau cải cách ruộng đất chế độ bóc lột ruộng đất
phong kiến bị xố bỏ, nơng dân giành quyền làm chủ, hai triệu hộ nông dân
nghèo chia 8 vạn ha ruộng hăng hái làm ăn theo con đường hợp tác mà Đảng đã
vạch ra. Khởi đầu là các tổ vần đổi công. Đổi công tự nguyện của nông dân.
Ngay từ đầu 1955 đã thành lập 153.000 tổ đổi công với 1.094.000 hộ tham gia,
chiếm 40,5% số hộ nông dân trong đó 12400 là các tổ đổi cơng thường xuyên
với số hộ nông dân bằng 8,1% số hộ tham gia các tổ đổi công. Đến 1958 tổng số
tổ đổi công tăng lên 244.000 thu hút 65.7% tổng số hộ nơng dân, trong đó tổ
thường xun là 74.500 thu hút 32% số hộ tham gia hợp tác. Hình thức hợp tác
lao động giản đơn dưới dạng tổ đổi công tự nguyện trong giai đoạn này rất có
hiệu quả, phù hợp với tâm lí và nguyện vọng của đơng đảo nhân dân, nên đã có
tác dụng tích cực đến sản xuất nông nghiệp và quan hệ sản xuất mới trong nông
thôn . Trên cơ sở xác định các tổ đổi công, Đảng ta đã hình thành chủ trương về
đẩy mạnh hợp tác hố trong nơng nghiệp . Thực hiện chủ trương đó trong nơng
nghiệp tính đến cuối 1957 đã thí điểm xây dựng 42 HTX ở các tỉnh Phú Thọ,
Thái Nguyên và Thanh Hố. Các HTX thí điểm chủ yếu được hình thành từ các
tổ đổi cơng có quy mơ xóm hoặc thơn bình qn 20-30 hộ xã viên, có ban quản



trị rất gọn nhẹ từ 2-3 người và 1 kiểm sốt viên, hình thức hợp tác chủ yếu là
cùng làm chung và phân phối theo công điểm. Các tư liệu sản xuất chung vẫn
của riêng hộ xã viên, quyền sở hữu ruộng đất của từng hộ vẫn được đảm bảo,
nhưng được HTX sử dụng để sản xuất chung và chia hoa lợi hàng năm cho hộ
xã viên. Đất khai hoang, tăng vụ được giảm và miễn thuế, được tự do th nhân
cơng. Với chủ trương đúng đắn đó đã tạo ra sự hăng hái phấn khởi trong nông
dân, sản xuất phát triển, đời sống nông dân và bộ mặt nông thơn có sự thay đổi
rõ rệt, bình qn lương thực đầu người tăng từ 257(1957) lên 304 kg (1958) và
334 kg (1959).
2. Giai đoạn 1959-1960:
Giai đoạn thực hiện và hoàn thành cơ bản phong trào hợp tác hố trong
nơng nghiệp ở miền Bắc.
Sau 3 năm tiến hành thí điểm thành lập HTX nông nghiệp đến tháng 4
năm 1959 Đảng và Nhà nước đã tổng kết và đánh giá: Xuất hiện mâu thuẫn
giữa phương thức tập thể với cá nhân, mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng năng suất và
kỹ thuật lạc hậu. Nghị quyết số 16 TW tháng 4/1959 nhận định” Còn chế độ tư
hữu tư nhân về TLSX và lối làm ăn cá thể thì vẫn cịn cơ sở vật chất và điều
kiện cho khuynh hưóng TBCN phát triển”. Từ quan điểm này NQ 16 TW
qưuyết định cần phải cải tạo sản xuất cá thể thành nền sản xuất tập thể, chặn
đứng con đường TBCN ở nông thôn, cứu nông dân thốt khỏi nanh vuốt của
CNTB góp phần củng cố liên minh công nông. Nguyên tắc xây dựng HTX là”
Dân chủ, tự nguyện, cùng có lợi. Ưu tiên kết nạp xã viên là bần cố nông, trung
nông lớp dưới, sau đó mới kết nạp trung nơng, khơng bố trí trung nơng vào vị
tríchủ chốt”.
Về hình thức tổ chức: HTX bậc thấp trả hoa lợi ruộng đất, HTX bậc cao
tập thể hoá TLSX, xoá trả hoa lợi ruộng đất.
Về quản lý: HTX thốngnhất quản lý điều hành đến từng lao động theo
công việc chung.



Về phân phối: Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động bằng
phương pháp “trừ lùi”, thuế quỹ, chi phí sản xuất, các khoản điều hồ. Cịn lại
chia theo ngày công theo chế dộ kinh tế hiện vật.
Sau NQ 16 TW đã xuất hiện một cao trào vận động nông dân vào HTX
nông nghiệp bằng nhiều biện pháp, nhằm mục tiêu hồn thànhnhiệm vụ hợp tác
hố nơng nghiệp vào năm 1960. Chỉ trong 1 năm từ mùa hè 1959 đến mùa thu
1960 đã đưa 2,4 triệu hộ vào HTX bằng 84,8% số hộ nơng dân và 70% diện tích
ruộng đất vào làm ăn tập thể trong 41000 HTX nông nghiệp , ở miền biển thu
hút 75% thuyền lưới vào HTX. Quy mô HTX lúc này khoảng 40-50 hộ xã viên
trong đó có 10% HTX bậc cao.
Về lao động: Các HTX nông nghiệp đã thu hút được 4,93 triệu người
trong tổng số 5,75 triệu lao động hiện có ở nơng thơn ( khoảng 85%).Đồng thời
với quá trình xây dựng và phát triển HTX nông nghiệp trong nông thôn cũng
tiến hành xây dựng và phát triển các HTX tín dụng , đến năm 1956 đã xây dựng
được 5294 cơ sở với 2082000 xã viên tham gia chiếm 71% tổng số hộ nông dân
miền Bắc. Mỗi HTX tín dụng hoạt động trên quy mơ một xã, đóng vai trị cho
kinh tế phụ gia đình vay vốn để mua lương thực, thuốc men, sửa chữa nhà cửa
của xã viên HTX nông nghiệp.
3. Giai đoạn 1961-1980:
Giai đoạn củng cố hồn thiện đưa HTX nơng nghiệp bậc thấp lên bậc
cao, mở rộng quy mô HTX theo mơ hình tập thể hóa. Xây dựng các HTX cấp
huyện ở miền Bắc và thực hiện mơ hình HTX tập thể hố ở miền Nam sau giải
phóng với mong muốn thúc đẩy nhanh quá trình cải tạo XHCN trên phạm vi cả
nước thống nhất cùng đi lên CNXH.
Ơ giai đoạn đầu 1961-1975 phong trào hợp tác hoá bộc lộ nhiều nhược
điểm biểu hiện là sự không phù hợp của mô hình HTX bậc cao. Quá trình củng
cố và mở rộng quy mô HTX luôn luôn trái ngược với kết quả trong sản xuất
nông nghiệp. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, sản xuất nông
nghiệp ngày càng sa sút, kinh tế HTX ngày càng biểu hiện tiêu cực: mất đân

chủ, tham ơ , lãng phí thu nhập của xã viên HTX đã thấp lại càng giảm. Thời


kỳ1966-1972, tốc độ tăng thu nhập bình quân hàng năm là 13,6% thì tốc độ tăng
chi phí là 15,1%. Tương tự thời kỳ 1973-1975 là 23,75% và 75%. Năm 1972,
giá trị tài sản cố định HTX thất thoát tới 35,4%, quỹ tích luỹ khấu hao tính
khống 40,7%. Mức lương thực bình qn đầu người giảm từ 17kg/người/tháng
1965 xuống cịn 10,4 kg năm 1980 Xã viên HTX chán nản, ruộng đất bỏ hoang
hố, số lượng ngưịi xin ra khỏi HTX ngày càng tăng, đời sống nơng dân gặp
nhiều khó khăn, bao trùm đời sống ở nông thôn miền núi là tinh thần đồn kết
đùm bọc, chia sẻ khó khăn, tất cả giành cho tiền tuyến. Giai đọan này khối
lượng lương thực nhập khẩu tăng liên tục qua các năm( Năm 1966 nhập khẩu
388,1 ngàn tấn, năm 1975: 1055 ngàn tấn).
Giai đoạn 1976-1980: ở miền Nam, số HTX tổ đổi công tăng lên nhanh
chóng, thậm chí dùng cả biện pháp hành chính đưa nông dân vào HTX. Giai
đoạn này nền kinh tế đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng,
trước hết là tình trạng khủng hoảng kinh tế tập thể trong nông nghiệp trên phạm
vi cả nước.
4. Giai đoạn 1981-1988:
Giai đoạn thực hiện chỉ thị 100 về cải tiến công tác khốn, mở rộng khốn
sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nơng nghiệp”.
Mục đích của chủ trương mở rộng khgoán sản phẩm là đảm bảo phát
triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế củng cố và tăng cường QHSX mới ở
nông thôn không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên , tăng tích
luỹ của HTX, làm trịn nghiã vụ và khơng ngừng tăng khối lượng nông sản cung
ứng cho Nhà nước .

Cơ chế khốn với 3 khâu (gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch)

đã phá vỡ một mảng trong mơ hình HTX tập thể hoá, tạo điều kiện gắn người

lao động với kết quả cuối cùng của sản xuất. Nhờ đó cơ chế khốn đã tạo động
lực kích thích tính chủ động, hăng hái sản xuất trong nông dân.
Chỉ thị 100 đã mang lại một sinh khí mới cho nơng nghiệp giai đoạn
1981-1985,được coi là thời kỳ thành cơng của q trình thực hiện chỉ thị 100.
Sau đó những hạn chế của khoán 100 bộc lộ rõ: hoạt động quản lý yếu kém,
phân phối bình qn bao cấp, chi phí bất hợp lý.. đã dẫn đến tình trạng vi phạm


lợi ích của người lao động, tỷ lệ vượt khốn ngày càng giảm, nơng dân chán
nản, trả ruộng khốn ngày càng nhiều.
5. HTX nông nghiệp giai đoạn 1986-1996.
Dưới tác động của cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng tới người lao động
theo chỉ thị 100, cơ chế quản lý đã tháo gỡ được một bước, tạo điều kiện cho xã
viên chủ động trong sản xuất sau khi nhận khoán với HTX do đó đã tạo ra động
lực và trong HTX nơng nghiệp tình hình sản xuất nơng nghiệp những năm đầu
thập kỷ 80 có sự khởi sắc sau thời sa sút vào cuối thập kỷ 70.
Tuy nhiên, cơ chế khoán theo chỉ thị 100 chủ yếu mới giải phóng lao động
và một phần quan hệ phân phơí, quan hệ sở hữ vẫn như tình trạng bao cấp, phân
phối theo cơng điểm, quản lý tập trung, mệnh lệnh, thu nhập từ kinh tế tập thể
thấp, mức khốn khơng ổn định, tình trạng tham ơ, lãng phí trong HTX vẫn tiếp
diễn nơng dân xã viên vẫn phải chịu nhiều khoản đóng góp, điều bất hợp lý, làm
cho mức thu nhập giảm dần, động lực tạo ra nhanh chóng bị suy giảm, người
sản xuất khơng n tâm, tình trạng chán nản tăng lên, hộ xã viên trả lại ruộng
khoán ngày một tăng.
Năm 1993, Luật HTX được ban hành , hộ xã viên được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lâu dài và được hưởng 5 quyền. HTX rút dần khỏi các
hoạt động trực tiếp tiến hành sản xuất để chuyển giao quyền tự chủ cho hộ xã
viên. Quan hệ HTX – hộ xã viên chuyển dần sang quan hệ hợp đồng kinh tế
giữa hai chủ thể bình đẳng theo các nguyên tắc thoả thuận, xố bỏ chế độ phân
phối cơng điểm trong HTX . Bộ máy quản lý HTX giảm nhẹ, phổ biến tới4050%, các khoản chi phí bất hợp lý trong HTX cũng giảm, dần xố bỏ tệ rong

cơng, phóng điểm và tham ô công quỹ.
Trước sự thay đổi của cơ chế mới, các HTX nơng nghiệp kiểu cũ gặp
nhiều khó khăn, lúng túng, lâm vào tình trạng trì trệ, suy giảm tác dụng đối với
hộ xã viên tự chủ, thậm chí một bộ phận HTX , đặc biệt các tập đồn sản xuất
tan rã: Theo báo cáo của Bộ nơng nghiệp &PTNT từ 1988 đến 1995 giải thẻ
2958 HTX và 33804 TĐsản xuất nông nghiệp , đồng thời số hộ xã viên tham


gia HTX và TĐsản xuất cũng giảm mạnh từ 86%xuống cịn 10% ở các tỉnh
Nam bộ, mỉền núi phía Bắc giảm từ 91% xuống 45%.
Số HTX còn lại buộc phải tiến hành đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức
và cơ chế quản lý nội bộ theo hướng tinh, gọn, hiệu quả, nhiều chức danh được
lồng ghép để giảm bớt chi phí quản lý. Nhiều HTX phải chia nhỏ cho phù hợp
với trình độ quản lý, đến năm 1995 cả nước còn 16.243 HTX và 2548 TĐ sản
xuất với 64% số hộ nông dân cả nước. Các HTX đang tồn tại có thể chia thành
ba nhóm theo mức độ dịch vụ cho hộ xã viên và hiệu quả hoạt động:
Loại hoạt động tốt: 2528 đơn vị chiếm 15,5% tổng số, là những HTX cịn
vốn, có đội ngũ cán bộ giỏi, có hướng hoạt động tốt, làm tốt cơng tác dịch vụ
tưới tiêu, BVTV, giống, kỹ thuật, vật tư, vốn cho xã viên, HTX có vốn và tài
sản. Bình qn tài sản cố định một HTX thuộc nhóm này khoảng 742 triệu
đồng.
Loại hoạt động cầm chừng ở một vài khâu công việc nhưng kết quả thấp
6562 đơn vị, chiếm 40,4% tổng số. HTX cịn ít vốn, nợ đọng nhiều và ban quản
lý kém năng động hoặc trì trệ.
Loại khơng hoạt động, tồn tại hình thức:7152 đơn vị chiếm 43,3%. Đây là
những HTX đã hồn tồn mất vai trị của KTHT, xã viên không an tâm và tin
tưởng vào bộ máy quản lý cũng như bộ phận kinh tế tập thể của HTX .
6. Giai đoạn từ khi có Luật HTX ra đời và có hiệu lực (1/1/1997) đến nay.
6.1. Một số thành công bước đầu.


Thứ nhất: việc ban hành Luật HTX cùng một loạt các nghị định, thông tư
hướng dẫn thực hiện chỉ thị của Đảng và nghị định của Chính phủ về HTX đã
thể hiện rõ quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước trong việc tiếp tục đổi mới và
phát triển các HTX ở Việt Nam. Lần đầu tiên HTX có một khung pháp lý tương
đối đầy đủ, bảo vệ và điều chỉnh các hoạt động, với tư cách là một tổ chức kinh
tế bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong cơ chế thị trường đó là một
thành tựu rất đáng kể trong đổi mới từ nhận thức tư duy đến chỉ đạo hành động
của Đảng ta.


Thứ hai: đổi mới HTX sau khi Luật HTX ra đời diễn ra toàn diện trên cơ sở
những quy định về tiêu chuẩn và nguyên tắc HTX mà pháp luật quy định. HTX
được thành lập trên cơ sở phải xác định rõ về: tư cách xã viên, vốn góp tối thiểu,
phương án sản xuất kinh doanh, điều lệ HTX và hàng loạt các quy định khác.
Những điều kiện này trở thành tiêu chuẩn cụ thể mang tính định lượng mà từ
trước đến nay chưa từng được quy định. Với những quy định và ràng buộc như
vậy rõ ràng là việc chuyển đổi các HTX cũ cũng như việc thành lập HTX mới
theo Luật HTX đã thể hiện rõ tính chất tích cực và tồn diện, đề cao chất lượng
và các nguyên tắc hợp tác cũng như nhu cầu khách quan là điều kiện tiên quyết.
Thứ ba: kết quả chuyển đổi các HTX cũ thu được một số kết quả như sau:
nhìn chung, mơ hình HTX sau chuyển đổi thường gồm hai loại, thứ nhất HTX
có đơng xã viên, thứ hai HTX có ít xã viên. Số HTX sau chuyển đổi loại có
đơng xã viên chiếm tỷ lệ cao hơn số HTX có ít xã viên. tuy nhiên hiệu quả hoạt
động thì loại HTX có ít xã viên hoạt động tốt hơn. (xem bảng 1.)


Bảng 1: Quy mơ HTX tính theo số liệu xã viên của HTX đã chuyển đổi.
Chỉ tiêu

chung

Tổng

Miền bắc
%

Miền Trung, Miền Nam

Tổng

Tây Nguyên
Tổng %

%

Tổng

%
100
10,5

số
Số HTX có báo cáo 2127
Số HTX có từ 7-50 215

số
10
1795
10,1 212

số

100 313
11,8 1

100
0,3

số
19
2

xã viên
Số HTX có từ 51- 131

6,1

6,8

0,3

8

42,1

100 xã viên
Số HTX có trên 1781

83,7 1461

99,3


9

47,3

122

1

81,3 311

100 xã viên
Nguồn: số liệu điều tra xã hội học năm 1999.
Cụ thể các HTX sau chuyển đổi đạt được một số kết quả như sau:
Làm rõ tài chính của các HTX cũ và mới,tỷ lệ xã góp vốn của xã viên
bình quân tăng 2,5 lần so với trước khi chuyển đổi, cổ phần của xã viên trong
HTX được xác định rõ hơn. Từ bảng 2 cho thấy các chỉ số về tổng số vốn bình
quân một HTX cũng như tài sản lưu động so với tổng số vốn của HTX ở các
vùng rất khác nhau: ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Ngun, các số liệu
nói trên đều thấp hơn so với mức trung bình của các HTX ở miền Bắc. So với
các HTX ở miền Nam thì tỉ lệ này còn thấp hơn nhiều.
Bảng 2: Tài sản, vốn của HTX nông nghiệp chuyển đổi
Tên địa
phươn
g

Số
Tổng số
HT Số lượng
Bình
X

(Triệu
qn/HT
theo
đồng)
X
báo
(Triệu
cáo
đồng)

Chung
cả
nước
Miền
bắc
Miền

1948 1092.02
5

556

1954 722.160

453

595.771 373,7

12.869


354

1.044

266.51

103.355 292

369.865

Trong đó
Tài sản cố định
Tài sản lưu động
Số
Bình
Số
Bình
lượng
quân/HT
lượng
quân/HT
(Triệu
X
(Triệu
X
đồng)
(Triệu
đồng)
(Triệu
đồng)

đồng)
862.28 439
229.744 177
1

752

79,3


Nam
Miền
núi
phía
bắc
ĐBSH
Khu IV

DHMT
Tây
nguyên
đong
nam bộ
ĐBSC
L

553

116.766


211,5

0
99.772

180,4

16.994

30,7

439
602

228.922
376.472

521,5
625,4

174.594 397,7
321.405 533,7

54.326
55.067

123,7
91,5

312

14

354.007
3279

1134
233

254.987 817
2583
184

99.020
696

317
49

24

9416

392

6479

269

2937


123

4

3163

790

2461

615

702

175

Nguồn: số liệu điều tra xã hội học năm 1999.
Đối với khoản nợ HTX phải thu : tính bình qn một HTX có số nợ phải
thu khoảng 50 triệu đồng, trong đó xã viên nợ HTX chiếm khoảng 70-90%. Đa
số các HTX đã thực hiện việc giảm, xoá một số khoản nợ như: giảm các khoản
xã viên nợ từ trước năm 1998, giảm nợ của các hộ gia đình thương binh, liệt sĩ,
gia đình nghèo neo đơn, xoá nợ đối với những người đã chết, các hộ gia đình
chuyển đi nơi khác sinh sống.
Đối với các khoản nợ phải trả :hầu hết các HTX chuyển đổi đã làm rõ về
cơ sở pháp lý các khoản nợ HTX phải trả và đã loại trừ khỏi phần vốn khi phân
bổ vốn góp cho xã viên tham gia HTX mới. Nhìn chung sau khi đã cố gắng thu
nợ,các HTX đã bàn giao cho HTX mới hoặc UBND về các khoản công nợ
của HTX cũ.
Xác định nội dung và phạm vi hoạt động của HTX,xã viên được biết,
tham gia và có quyền kiểm tra hoạt động của HTX thơng qua bộ máy quản lý do

đại hội xã viên lựa chọn.Nhiều HTX đã xây dựng được phương hướng sản xuất
kinh doanh có tính khả thi, phù hợp với nhu cầu của thị trường, HTX và khả
năng của cơ sở.
Quan hệ giữa xã viên với ban quản trị được quy đinh rõ trên cơ sở xác
định chức năng, quyền hạn của các bên.


Xố bỏ sự can thiệp hành chính của chính quyền địa phương vào công
viẹc nội bộ của HTX những việc làm trên đây đã không thể thực hiện được
trong những năm chưa có luật HTX, đồng thời quạ chuyển đổi có căn cứ để
đưa ra các biện pháp phù hợp giúp đỡ các HTX phát triển.
Thứ tư, việc thành lập HTX kiểu mới có sự phát trồng triển khá về số
lượng và loại hình; theo thống kê bước đầu số lượng HTX thành lập mới là
1563 đơn vị. Phần lớn các HTX này có đội ngũ cán bộ giỏi , có năng lực xã viên
là những người có quyết tâm cao trong việc xây dựng và phát triển HTX của
mình. Các HTX mới thành lập nhìn chung đã thực hiện tương đối đầy đủ quy
định của luật pháp: xác định rõ xã viên, góp vốn khi vào HTX, có phương án
sản xuất kinh doanh và điều lệ rõ ràng. Bên cạnh vệc hình thành các HTX kiểu
mới, đã xuất hiện một số mơ hình hợp tác, liên kết giữa HTX với các loại hình
HTX khác( như liên kết với DNNN, với công ty TNHH..) bước đầu đem lại kết
quả.
Thứ năm: Tính đa dạng trong hoạt động của HTX tăng lên, dịch vụ văn
hố, trường học, chăn ni, thú y, điện năng, chế biến dược liệu ở khắp các
vùng trong cả nước. Điều này cho thấy HTX có nhiều triển vọng và khả năng
phát triển đa dạng không đơn điệu và chỉ “đóng khung” ở một số ngành sản xuất
như trước kia.
6.2 Một số tồn tại và nguyên nhân.

Thực trạng phát triển HTX ở một số địa phương nổi lên một số vướng
mắc như sau:

Tiến độ chuyển đổi còn chậm và không đồng đều, nguyên nhân của sự
chậm chễ này xuất phát từ hai mặt chủ quan và kách quan. Về chủ quan, do việc
ban hành các văn bản dưới luật của các Bộ , ngành còn chậm so với quy định
của Chính phủ. Những tỉnh có sự lãnh đạo sát sao của Đảng và chính quyền thì
cơng tác chuyển đổi HTX đã hoàn thành như: Đà Nẵng, Quảng Nam, Tiền
Giang, Bạc Liêu, Trà Vinh, Hà Tây, Hưng Yên ở một số tỉnh miền núi do quan
điểm của các cấp uỷ, cơ quan địa phương muốn thông qua chuyển đổi phải giữ
được HTX kiểu cũ vì liên quan đến an ninh biên giới và ổn định chính trị ở


nông thôn nên công tác chuyển đổi diễn ra rất chậm thậm chí dẫm chân tại
chỗ.Lý do khách quan là điều kiện thông tin, phổ biến và tuyên truyền vầ mục
đích yêu cầu, cách làm trong chuyển đổi đối với cán bộ cơ sở và người lao động
gặp nhiều khó khăn nhất là các tỉnh ở xa, điều kiện tài chính nghèo nàn, gặp rất
nhiều khó khăn trong chuyển đổi.
Chất lượng chuyển đổi chưa cao, chưa thực hiện đúng các yêu cầu của
Luật và Nghị định của Chính phủ. Nhiều HTX đã chuyển đổi một cách hình
thức để đối phó với các quy định của Luật và các văn bản của Chính phủ, một
số HTX đã chuyển đổi nhưng lúng túng về phương hướng hoạt động, về tổ chức
xã viên xã viên thờ ơ với HTX. Qua khảo sát một số HTX đã chuyển đổi cho
thấy còn tồn tại các vấn đề: xử lý tài sản, công nợ, xác định vốn góp của xã
viên, điều lệ HTX do sao chép điều lệ mẫu là chủ yếu nên chưa rõ ràng, phương
án hoạt động quá chung, trách nhiệm, lợi ích của Ban quản lý không được quy
định rõ, hoặc sai quy định Một số HTX biểu hiện chuỷên đổi hình thức chưa
đảm bảo đầy đủ các tính chất và các nguyên tắc của HTX.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là: Một số văn bản hướng dẫn của Nhà
nước chưa có( như thông tư hướng dẫn nghị định số 02 CP về quản lý Nhà nước
với HTX, nghị định 43/CP về hưóng dẫn thi hành điều lệ mẫu HTX nơng
nghiệp ). Mặt khác cán bộ triển khai thiếu, chưa thấu đáo tinh thần của các văn
bản pháp luật, thông tư hướng dẫn hoặc làm theo hướng dẫn thì khó nên làm tuỳ

tiện cho
qua việc.
Việc theo dõi và uốn nắn những lệch lạc của các HTX trong chuyển đổi
chưa được đặt thành nhiệm vụ quan trọng và cần thiết và chưa xác định rõ tổ
chức nào có trách nhiệm việc này. Cho đến nay theo Nghị định 16/CP ngày
21/2/1997 trách nhiệm thụ lý hồ sơ và cấp ĐKKD cho các HTX chuyển đổi và
thành lập mới là phòng kế hoạch và đầu tư các quận và huyện trong cả nước,
nhưng việc theo dõi, phát hiện những sai sót và xử lý kịp thời thì nghị định chưa
quy định cơ quan, tổ chức nào chịu trách nhiệm.
Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các HTX cịn thấp, khơng đồng bộ và
vẫn quen hoạt động theo lề lối cũ, kém năng động và chậm thích ứng với cơ chế


thị trường. đây cũng là một tồn tại khá cơ bản có tác động làm trì trệ q trình
phát triển kinh tế HTX .Muốn khắc phục tồn tại này cần phải tổ chức đào tạo và
bồi dưỡng trình độ kinh tế thị trường cho đội ngũ này. Coi đây là một phần đầu
tư của Nhà nước cho sự nghiệp phát triển kinh tế HTX trong tương lai.
Các chính sách của Nhà nước đối với HTX chưa được tổ chức thực hiện:
như chính sách đất đai, chính sách về xử lý cơng nợ đối với HTX cũ đã chuyển
đổi, chính sách miễn , giảm thuế lợi tức, thuế doanh thu đối với HTX làm dịch
vụ phục vụ các hộ xã viên, chính sách về thuế mơn bài của các HTX đã chuyển
đổi, đã thực sự chưa khuyến khích, động viên HTX chuyển đổi và thành lập
theo quy định của pháp luật.



×