Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo Bắc Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.91 KB, 15 trang )

Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo
Bắc Hà Nội
I.Định hướng hoạt động của chi nhánh NHNo Bắc Hà Nội
1.Đa đạng hoá các hình thức huy động, đẩy nhanh ứng dụng công nghệ khoa học nhằm tạo
tiện ích cho khách hàng và an toàn tài sản. Phấn đấu đạt tăng trưởng nguồn vốn với nhịp độ cao và bền vững,
mức tăng trưởng nguồn vốn đạt chỉ tiêu của Hội đồng Quản trị đề ra, cân đối với nhịp độ tăng trưởng dư nợ
và các hoạt động kinh doanh khác.
2.Thực hiện chủ trương các chi nhánh muốn mở rộng kinh doanh đều phải tăng trưởng thêm
nguồn vốn thông qua việc thực hiện có hiện có hiệu quả đề án chiến lược huy động tại địa phương, thực hiện
giao dịch một cửa, chủ động mở thêm mạng lưới phòng giao dịch. Đa dạng các hình thức huy động vốn theo
cơ chế mới như tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm gửi lãi bậc thang, tiết kiệm bằng vàng…
3.Trụ sở chính khuyến khích các chi nhánh thực hiện các sản phẩm mới trình Tổng Giám
đốc phê duyệt để tăng trưởng nguồn vốn cho chi nhánh cũng như toàn hệ thống.
4.Tiếp tục thực hiện tỷ lệ sử dụng nguồn vốn kho bạc Nhà nước và tiền gửi không kỳ hạn
của BHXH để đảm bảo khả năng chi trả và kinh doanh trên thị trường mở, đấu thầu tín phiếu kho bạc.
5.Tăng cường quan hệ với các định chế tài chính trong nước và nước ngoài để khai thác
nguồn vốn nội tệ ngoại tệ trung và dài hạn mà NHNo còn đang rất thiếu, khai thác thêm các dự án mới nhằm
thu hút và tranh thủ nguồn vốn rẻ.
6.Thực hiện chính sách khách hàng của NHNo&PTNT Việt Nam, tiếp tục triển khai tiếp cận
với những khách hàng là các tổng công ty 90,91 và các đơn vị thành viên của tổng công ty 90,91 để khai thác
tiền gửi thanh toán và các dịch vụ khác. Đa dạng các tiện ích ngân hàng cho doanh nghiệp như kết nối mạng
với doanh nghiệp, chi trả tiền lương cho cán bộ công nhân viên, kết hợp với cho vay tiêu dùng.
7.Lập chương trình phần mềm để thực hiện việc gửi rút bất kỳ trong hệ thống NHNo&PTNT
Việt Nam đối với tiền gửi không kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn, chứng chỉ có giá dài hạn vô danh và trái
phiếu vô danh.
8.Mục tiêu cụ thể cho năm 2007
-Tổng nguồn vốn huy động: 5010 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng 10%.
Trong đó: Vốn huy động từ dân cư 1000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 20%
-Tổng dư nợ: 1800 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng 21%
Trong đó: Dư nợ ngắn hạn 55%, trung hạn trên tổng dư nợ là 45%
-Nợ quá hạn: Dưới 4%/tổng dư nợ


-Thu dịch vụ: Phấn đấu đạt 15%/tổng doanh thu.
-Tài chính: Chênh lệch thu – chi (chưa lương): 64 tỷ đồng.
Đảm bảo quỹ thu nhập đủ chi lương cho người lao động và có một phần quỹ tiền thưởng
trong lương.
II. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo Bắc Hà Nội
Tăng cường vốn huy động là điều kiện tiên quyết để giữ vững vị thế của một NHTMQD
hàng đầu. Có vốn mới thúc đẩy được tăng trưởng tín dụng, tạo đà cho việc thực hiện thành công nhiệm vụ
kinh doanh của ngân hàng.Vì vậy, trên cơ sở phân tích và dự toán tình hình phát triển kinh tế của đất nước,
xác định tỷ lệ vốn huy động triển vọng của thị trường trong nước, thị trường ngoài nước, đánh giá đúng điểm
mạnh, điểm yếu của mình trong bối cảnh có nhiều ngân hàng cùng hoạt động, chi nhánh ngân hàng Nông
nghiệp cần có các giải pháp để tăng cường huy động vốn trên nguyên tắc: nguồn vốn tăng trưởng ổn định,
huy động cả nội lực tài chính của mình lẫn các nguồn lực bên ngoài, tăng cường huy động vốn có kỳ hạn và
vốn VNĐ để cải thiện cơ cấu nguồn vốn.
2.1.Tăng cường hoạt động Marketing
Có thể thấy rằng không chỉ riêng chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp Bắc Hà Nội mà các
NHTM khác của Việt Nam cũng đều chưa có được hoạt động Marketing tốt. Không chỉ riêng hoạt động huy
động vốn là cần đến marketing, mà marketing còn đóng vai trò quan trọng đối với tất cà các dịch vụ khác của
ngân hàng và các dịch vụ này sẽ hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Mọi người ít tiếp xúc với ngân hàng cũng có
nghĩa là khả năng tiếp cận với những nguồn vốn tiềm năng của ngân hàng sẽ bị hạn chế.
Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp Bắc Hà Nội cần có chiến lược quảng cáo sâu rộng trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Các dịch vụ cần được quảng cáo cụ thể chứ không chỉ chung chung về
chi nhánh vì hiểu biết của mọi người về ngân hàng chỉ hạn chế ở mức là gửi tiền và vay tiền truyền thống. Có
thể trong một thời điểm nhất định thì chú trọng đến quảng cáo một dịch vụ nhất định, nhất là các dịch vụ mới.
Giả sử tiện ích về tiền gửi như gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi cần phải được quảng cáo rộng rãi về các
tiện ích ưu việt so với các ngân hàng khác khi mà các ngân hàng đó chưa thể thực hiện được dịch vụ này,
thông qua đó nâng cao được uy tín, chất lượng của ngân hàng trong con mắt khách hàng.
Chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp Bắc Hà Nội cần có đội ngũ nhân viên marketing chuyên
nghiệp, tích cực hơn nữa cho quảng cáo sản phẩm, tìm hiểu nhu cầu khách hàng, đặc biệt là nhu cầu gửi tiền.
Do nhu cầu gửi tiền của khách hàng khác nhau nên cần tìm hiểu trước khi tung ra một hình thức huy động
vốn mới, tránh tình trạng đưa ra mà không đáp ứng được nhu cầu đỏi hỏi của khách hàng. Từ việc nghiên

cứu, phân đoạn thị trường có thể đưa ra được những chính sách khách hàng khác nhau. Ví dụ như, đối với
những khách hàng có nhu cầu gửi tiền tiết kiệm thì hầu hết là những người có thu nhập trung bình, thường
quan tâm đến lãi trả, do vậy có thể áp dụng các hình thức tham gia dự thưởng. Đối với những khách hàng gửi
tiền lớn lại quan tâm đến thái độ phục vụ, các tiện ích được hưởng cho nên ngân hàng cũng sẽ phải đáp ứng
đầy đủ các yêu cầu đó.
Hơn nữa, để thực hiện thành công Marketing trong ngân hàng, ngoài bộ phận chuyên trách,
cần tất cả cán bộ ngân hàng phải cùng tham gia. Ngân hàng cần chú trọng đến việc thường xuyên bồi dưỡng
nghiệp vụ marketing trong nội bộ, đặc biệt là những nhân viên tại quầy, những người trực tiếp tiếp xúc với
khách hàng. Chính sự hiểu biết, phục vụ tận tình của nhân viên là phương thức quảng cáo tốt nhất, với chi phí
thấp nhất, tạo hình ảnh tốt về ngân hàng trong mắt khách hàng.
2.2.Phát triển sản phẩm
Hiện nay, các hình thức huy động vốn của ngân hàng Nông nghiệp Bắc Hà Nội tuy đã cải
thiện nhưng các sản phẩm vẫn chưa được phong phú. Bên cạnh việc phát triển các hình thức huy động vốn đã
có như tiền gửi doanh nghiệp, tiết kiệm dân cư, tiền gửi liên ngân hàng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…, chi
nhánh cần tiếp tục cải tiến, phát triển đa dạng hoá sản phẩm với định hướng hướng tới khách hàng, đem lại
tiện ích cho từng đối tượng khách hàng.
Cách thức đưa ra một sản phẩm mới của ngân hàng hiện nay vẫn là: đưa sản phẩm ra thị
trường, rồi quảng cáo, tiếp thị, hướng khách hàng sử dụng sản phẩm đó. Mặc dù đó là biện pháp tình thế
trong điều kiện hiểu biết của người dân về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng còn hạn chế. Nhưng rõ ràng,
trong tương lai, như bất kỳ một sản phẩm nào khác, ngân hàng phải xuất phát từ việc nghiên cứu thị trường,
nhu cầu của khách hàng, phân đoạn thị trường, phát triển quản lý sản phẩm của mình sao cho đáp ứng những
nhu cầu này.
Phân đoạn thị trường là việc tách riêng một số khu vực nhất định ra khối tổng thể toàn bộ thị
trường và từ đó tạo ra sản phẩm mới được thiết kế hoàn toàn riêng để phục những khu vực đó sao cho không
tồn tại bất cứ sự cạnh tranh trực tiếp nào. Đặc biệt trong môi trường cạnh tranh, việc phân đoạn thị trường,
xác định đối tượng khách hàng mục tiêu, để đưa ra sản phẩm riêng thu hút, tạo sức cạnh tranh là đỏi hỏi rất
quan trọng. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, sản phẩm ngân hàng là sản phẩm dễ bắt chước. Vì vậy ngân
hàng muốn cạnh tranh được thì phải tạo ra những đặc điểm riêng cho sản phẩm, làm nên sức hấp dẫn của sản
phẩm.
Tài khoản tiết kiệm

Với mục tiêu cải thiện cơ cấu kỳ hạn, tăng cường tính ổn định của nguồn, ngân hàng cần
phải tập trung tạo ra nhiều sản phẩm tiết kiệm hấp dẫn, linh hoạt về chuyển đổi kỳ hạn để gia tăng kỳ hạn
thực của nguồn. Như chúng ta đã biết, với tỷ lệ tiền gửi giao dịch của các tổ chức kinh tế lớn, đã làm cho
nguồn vốn của ngân hàng có tính ổn định cao. Do đó, Ngân hàng cần làm tăng tính ổn định của nguồn, mà
nguồn tiền tiết kiệm của dân cư chính là nguồn ổn định nhất. Hơn nữa, huy động vốn trung và dài hạn của
Ngân hàng cũng phải dựa vào đối tượng khách hàng thể nhân này. Cụ thể:
-Đưa ra các hình thức huy động mới như tiết kiệm tích luỹ, tiết kiệm mua nhà, ô tô,
tiết kiệm đảm bảo giá trị, bảo hiểm tỷ giá, tiết kiệm hưu trí…
-Đa dạng hoá các kỳ hạn huy động: hiện nay chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp
Bắc Hà Nội huy động tiền gửi tiết kiệm các loại kỳ hạn: 1 tháng, 3tháng, 6 tháng….Xuất phát từ nhu cầu của
khách hàng, chi nhánh cần đa dạng hoá các kỳ hạn huy động từ những kỳ hạn ngắn dưới 1 tháng đến những
kỳ hạn dài hạn trên 5 năm.
Đặc biệt ngân hàng cần quan tâm đến vấn đề kỳ hạn thực, tức là thời gian mà khoản tiền tiết
kiệm nằm liên tục trong ngân hàng. Ngân hàng cần tìm cách khuyến khích tăng kỳ hạn thực này. Ví dụ như:
tiết kiệm lãi suất bậc thang nếu khách hàng gửi với kỳ hạn 6 thàng, nhưng không rút ra mà gửi tiếp 6 tháng
nữa thì 6 tháng sau sẽ được hưởng lãi suất của kỳ hạn 12 tháng. Như vậy sẽ khuyến khích khách hàng duy trì
khoản tiền gửi tiền thêm nhiều lần kỳ hạn danh nghĩa, từ đó kéo dài được kỳ hạn thực của tiền gửi.
-Lạm phát của nước ta đang ở mức cao, điều này gây e ngại cho người gửi tiền khi
gửi tiền tiết kiệm dài hạn. Do đó, ngân hàng có thể nghiên cứu đưa ra loại hình tiết kiệm bảo hiểm trượt giá,
để tăng sự an tâm của khách hàng, khuyến khích tiền gửi có kỳ hạn dài.
-Hiện nay, đồng EUR đang ngày được sử dụng rộng rãi, hiện chi nhánh đã có hình
thức huy động tiền bằng đồng EUR, có hình thức huy động tiết kiệm bằng vàng…
Tài khoản tiền gửi thanh toán
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu chi tiêu thanh toán càng gia tăng. Và hoạt động
thanh toán vẫn là một thế mạnh của chi nhánh NHNo Bắc Hà Nội. Tỷ trọng tiền gửi thanh toán lớnd, bên
cạnh hạn chế là tính bất ổn cao thì cũng thấy rằng nó góp phần tạo ra nguồn vốn với chi phí rẻ cho ngân hàng.
Do đó, để duy trì và thu hút nguồn tiền gửi này, ngân hàng cần đưa ra các sản phẩm ngân hàng hiện đại, nâng
cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở nâng cao hàm lượng công nghệ và tăng độ an toàn cho khách hàng cũng
như chính bản thân ngân hàng. Cụ thể:
-Tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống ATM có khả năng

đảm bảo cho khách hàng rút, nộp tiền vào tài khoản, giảm thiểu thời gian giao
dịch qua quầy. Tăng cường các dịch vụ thanh toán hoá đơn tự động kèm theo
ví dụ như trả tiền điện, mua xăng. Xăng là một mặt hàng khá đồng nhất, và
khá độc quyền, nếu ngân hàng phối hợp được với các Tổng công ty xăng dầu
để lắp đặt máy móc, thực hiện thanh toán bằng thẻ ngân hàng, thì rất thuận
tiện cho khách hàng.
-Phone banking: ngày nay công nghệ giúp cho mọi khoảng
cách dường như ngắn lại. Dịch vụ này cho phép khách hàng có tài khoản tại
ngân hàng tiếp cận và sử dụng dịch vụ của ngân hàng để thanh toán các hoá
đơn dịch vụ sinh hoạt hàng ngày, giao dịch đặt lệnh chứng khoán từ xa, đồng
thời khách hàng cũng nhận được các thông tin về số dư tài khoản, tỷ giá, lãi
suất…
-Thấu chi trên tài khoản tiền gửi thanh toán của cá nhân
cho phép khách hàng được thấu chi từ tài khoản của mình trong hạn mức cho
phép. Mặc dù hiện nay thẻ tín dụng của các tổ chức thẻ quốc tế đang phát
triển ỏ Việt Nam, nhưng mức phí còn quá cao. Nếu ngân hàng phát triển được
sản phẩm này sẽ có sức cạnh tranh lớn về mức phí, vì với giới hạn địa
lý(trong nước) thì ngân hàng hạn chế rủi ro dẫn đến giảm phí. Sản phẩm này
có thể cung cấp cho những đối tượng khách hàng có thu nhập ổn định.
-Với các khách hàng là tổ chức, thì mục đích gửi tiền chính
là sử dụng các tiện ích của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải phát triển
các dịch vụ như: trả lương tự động, quản lý vốn tự động, dịch vụ quản lý tiền,
dịch vụ ngân hàng điện tử,… Đặc biệt, ngày nay khi quan hệ xuất nhập khẩu
ngày càng phát triển, các doanh nghiệp có quan hệ mua bán với nước ngoài
càng nhiều. Do vậy ngân hàng cần mở rộng quan hệ với các tổ chức tín dụng
nước ngoài để làm đại lý thanh toán, từ đó mở rộng phạm vi, thuận tiện hơn
cho khách hàng trong thanh toán dẫn đến thu hút được nguồn tiền gửi giao
dịch lớn với chi phí rẻ này.
Giấy tờ có giá:
Đây là một hình thức huy động quan trọng của ngân hàng trong

định hướng gia tăng vốn trung và dài hạn. Ngân hàng cần tiếp tục đa dạng hoá
các loại giấy tờ có giá về kỳ hạn, mệnh giá, lãi suất, phương thức trả lãi. Đồng
thời nghiên cứu cho ra sản phẩm mới. Ví dụ như:
Trái phiếu có lãi suất thả nổi: trái phiếu là một loại giấy nợ dài
hạn ngân hàng cần huy động bằng trái phiếu, đứng trước nguy cơ rủi ro lãi
suất rất lớn. Do đó, ngoài việc đa dạng hoá về mệnh giá, kỳ hạn, phương thức
trả lãi, ngân hàng cần xem xét phát hành trái phiếu có lãi suất thả nổi. Có thể
thả nổi hoàn toàn( Sibor libor) hoặc thả nổi theo lãi suất tiết kiệm 1 loại kỳ
hạn nào đó (1 năm). Điều đó làm giảm rủi ro cho người đầu tư cũng như bản
thân ngân hàng, từ đó làm tăng tính thanh khoản cho trái phiếu đó.
-Phát hành trái phiếu tham dự: đây là hình thức trái phiếu mà các
trái chủ ngoài số lãi được nhận hàng năm sẽ được nhận thêm một khoản lãi
nữa nếu năm đó ngân hàng có lợi nhuận vượt quá một tỷ lệ nhất định. Giả sử
như các trái phiếu VNĐ được trả lãi hàng năm là 9%. Thêm vào đó nếu năm
nào mà tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng vượt quá
20% thì trái phiếu sẽ được trả thêm 1% trong năm đó. Phát hành loại trái
phiếu này có điểm lợi là sẽ tạo ra sự hấp dẫn hơn đối với khách hàng nhưng
cũng có điểm bất lợi là nếu không có năm nào tỷ lệ lợi nhuận của ngân hàng
vượt quá mức đề ra thì sẽ làm uy tín của ngân hàng bị giảm sút. Vì vây, trước
khi áp dụng phương thức phát hành trái phiếu này, ngân hàng cũng nên xem
xét, cân nhắc khả năng làm sao có thể cộng thưởng cho khách hàng ít nhất là
1 lần trong kỳ hạn của trái phiếu.
Như vậy, phát triển sản phẩm hướng tới khách hàng, thường
xuyên bám sát nhu cầu khách hàng, của thị trường sẽ kịp thời đưa ra các hình
thức huy động hấp dẫn, ngân hàng có thể khai thác triệt để hơn các nguồn vốn
tiềm năng mà không cần phải tạo thêm sự hấp dẫn bằng cách tăng lãi suất, để
có thể tiết kiệm đáng kể chi phí huy động.
2.3.Chính sách khách hàng
Với sự mở rộng ngày càng lớn của các ngân hàng cổ phần, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài, khách hàng hoàn toàn có quyền lựa chọn cho

mình một ngân hàng thích hợp để giao dịch. Bởi vậy, chi nhánh NHNo Bắc
Hà Nội cần sớm hoàn thành và triển khai trong toàn hệ thống mô hình huy
động hướng tới khách hàng, chủ động tìm đến khách hàng, phân đoạn khách
hàng. Có như vậy, Ngân hàng mới có điều kiện nắm bắt, nghiên cứu sâu sắc
nhu cầu của từng nhóm khách hàng từ đó đưa ra sản phẩm, dịch vụ phù hợp.
Ngân hàng và khách hàng có mối quan hệ khăng khít, khách hàng
vừa là người gửi vừa là người vay. Ngân hàng phải biết khách hàng của mình
là ai, cần gì, cần bao nhiêu, và giá cả như thế nào.
Ví dụ như: Với khách hàng bình dân, với các khoản thu nhập nhỏ,
cố định thì họ không yêu cầu cao về sản phẩm dịch vụ, các sản phẩm mang
tính dễ dàng, thuận tiện, lãi suất hấp dẫn, linh hoạt về thời kỳ. Với khách hàng
có thu nhập cao thì lại có nhu cầu thường xuyên sử dụng dịch vụ của ngân
hàng( với số dư tiền gửi lớn- đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng) thì ngân
hàng cần thiết kế các sản phẩm riêng, đáp ứng những nhu cầu riêng của từng
khách hàng hoặc từng nhóm khách hàng.
Với mục tiêu gia tăng tính ổn định của nguồn, chi nhánh cần
hướng tới đối tượng khách hàng là thể nhân, chấp nhận sự tăng nhẹ giá vốn để
đổi lấy tính ổn định tương đối của nguồn vốn. Bởi tiền gửi của dân cư là
nguồn có tính ổn định nhất. Hơn nữa, nguồn tiền gửi của dân cư cũng chiếm

×