Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Kết quả điều trị động kinh toàn thể cơn lớn ở trẻ em dưới 6 tuổi tại bệnh viện sản nhi bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

ĐỒNG XUÂN SẮC

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ ĐỘNG KINH TOÀN THỂ
CƠN LỚN Ở TRẺ EM DƯỚI 6 TUỔI TẠI
BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC GIANG

Chuyên ngành : Nhi khoa
Mã số : Ck 62 72 07 50

LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Văn Sơn

THÁI NGUYÊN - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

ĐỒNG XUÂN SẮC



KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ ĐỘNG KINH TOÀN THỂ
CƠN LỚN Ở TRẺ EM DƯỚI 6 TUỔI TẠI
BỆNH VIỆN SẢN NHI BẮC GIANG

Chuyên ngành : Nhi khoa
Mã số : Ck 62 72 07 50

LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Văn Sơn

THÁI NGUYÊN - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là: Đồng Xuân Sắc, Học viên Chuyên khoa II, chuyên ngành Nhi
khoa, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện, dưới sự hướng dẫn
của GS.TS Nguyễn Văn Sơn.
2. Nghiên cứu này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Thái Nguyên, ngày 10 tháng 12 năm 2018
NGƯỜI CAM ĐOAN


Đồng Xuân Sắc


LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn tới:
- Ban Giám Hiệu, Phòng đào tạo, đặc biệt là Bộ môn Nhi - Trường Đại
học Y Dược Thái Nguyên, đã tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và
hoàn thành luận văn.
- GS.TS Nguyễn Văn Sơn - Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Thái
Nguyên. Thầy đã tận tình chỉ bảo tôi trong suốt thời gian học tập, và trực tiếp
hướng dẫn cho tôi phương pháp, lý luận khoa học để tôi hoàn thành luận
văn này.
- Cùng các thầy cô trong bộ môn Nhi Khoa Trường Đại học Y Dược
Thái Nguyên. Các thầy, cô đã dành nhiều thời gian và công sức để chỉ bảo,
góp ý cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học.
- Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám Đốc Bệnh viện Sản Nhi Bắc
Giang, Tập thể Khoa Nhi tổng hợp, Khoa cấp cứu, điều trị hồi sức tích cực,
chống độc và sơ sinh, Khoa xét nghiệm, Khoa chẩn đoán hình ảnh và Các
phòng chức năng Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang, Bệnh viên Đa khoa tỉnh Bắc
Giang, đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu
khoa học.
- Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến với toàn thể gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn động viên, giúp đỡ về mọi mặt trong suốt quá trình học tập và
thực hiện luận văn này.
Thái Nguyên, ngày 10 tháng 12 năm 2018
Học viên

Đồng Xuân Sắc



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1

Chữ viết tắt
BN

Nghĩa chữ viết tắt
Bệnh nhân

2
3

BVĐKBG
BVSNBG

Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc giang
Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang

4
5

CGDS
ĐK

Co giật do sốt
Động kinh

6
7

8

ĐKCL
ĐNĐ
DQ

Động kinh cơn lớn
Điện não đồ
Development Quotient (chỉ số phát triển)

9
10

n
NXBYH

Số bệnh nhân
Nhà xuất bản Y học

11
12
13

PT
TT - VĐ
PT TT - VĐ

Phát triển
Tâm thần - vận động
Phát triển tâm thần – vận động


14

P

Probability value - là một con số xác xuất có
ý nghĩa thống kê


MỤC LỤC
Đặt vấn đề
Chương 1: Tổng quan
1.1 Định nghĩa động kinh
1.2 Thuật ngữ

1
3
3
3

1.3
1.4
1.5.

Lịch sử và tình hình nghiên cứu bệnh động kinh
Nguyên nhân động kinh
Đặc điểm lâm sàng động kinh cơn lớn

4
8

9

1.6
1.7

Điện não đồ động kinh
Phát triển tâm thần vận động ở trẻ dưới 6 tuổi

12
15

1.10

Điều trị động kinh

19
22
22

Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1 Đối tượng nghiên cứu
2.2
2.3

Phương pháp nghiên cứu
Chỉ tiêu nghiên cứu

24
24


2.4
2.5

Các bước tiến hành thu thập số liệu
Một số xét nghiệm khác

25
30

2.6
2.7

Xử lý và phân tích số liệu
Đạo đức nghiên cứu

3
30
31

Chương 3: Kết quả nghiên cứu
3.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
3.2 Đặc điểm lâm sàng và điện não đồ động kinh cơn lớn
3.3

Kết quả điều trị động kinh cơn lớn ở trẻ dưới 6 tuổi

Chương 4: Bàn luận
Kết luận
Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

Phụ lục
Danh sách bệnh nhân

31
34
43


DANH MỤC BẢNG
Số bảng
3.1
3.2

Tên bảng
Phân bố bệnh theo tuổi, giới
Phân bố bệnh theo địa phương

Trang
31
32

3.3
3.4

Chẩn đoán tuyến trước
Tiền sử bệnh, yếu tốn nguy cơ

32
33


3.5
3.6
3.7

Thời gian bắt đầu co giật đến khám bệnh và điều trị
Thời gian trung bình xuất hiện 1 cơn
Thời gian cơn co giật kéo dài

34
34
35

3.8
3.9

Hoàn cảnh xuất hiện cơn co giật
Đặc điểm cơn lâm sàng

35
36

3.10
3.11

Dấu hiệu tiên triệu trước cơn co giật
Dấu hiệu báo trước cơn co giật

36
37


3.12
3.13
3.14

Triệu chứng trong cơn co giật
Ngủ sau cơn co giật
Rối loạn sau cơn co giật

38
39
39

3.15
3.16

Đặc điểm điện não đồ
Các dạng sóng điện não đồ điển hình

40
40

3.17
3.18
3.19

Mức độ hoạt động sóng điện não đồ điển hình
Các dạng sóng điện não đồ không điển hình
Mức độ sóng điện não đồ không điển hình

41

42
42

3.20
3.21

Kết quả điều trị theo cắt cơn lâm sàng
Biểu hiện đặc điểm cơn lâm sàng sau 2 năm điều trị

43
44

3.22
3.23

Kết quả dựa trên điện não đồ sau 2 năm điều trị
Đánh giá chỉ số phát triển TT – VĐ (chỉ số DQ) theo tuổi

45
45

3.24
3.25

Đánh giá chung chỉ số DQ sau 2 năm điều trị
Đánh giá khu vực chậm phát triển sau 2 năm điều trị

46
47



ĐẶT VẤN ĐỀ
Động kinh là một bệnh phổ biến ở nước ta cũng như trên thế giới. Theo Tổ
chức Y tế Thế giới (TCYTTG) động kinh (ĐK) chiếm tỉ lệ 0,5 - 1% dân số.
ĐK gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng tỷ lệ ĐK ở trẻ em gặp rất cao. Theo Ninh
Thị Ứng và Hoàng Cẩm Tú (1996), ĐK trẻ em đứng hàng đầu các bệnh thần
kinh ở trẻ em [21],[28]. Theo Lê Đức Hinh (1994), ĐK trẻ em chiếm 64,5%
trong tổng số ĐK chung. ĐK ở trẻ em có nhiều loại đa dạng và phức tạp,
nhưng đa số các nghiên cứu đều thấy ĐK cơn lớn, chiếm tỷ lệ cao nhất trong
ĐK ở trẻ em [12]. Theo Lưu Thanh Tuệ (1985), ĐK toàn thể cơn lớn chiếm
80% ĐK ở trẻ em [25], Ôn Bảo Tân (1989) là 65% [23], Hoàng Cẩm Tú
(1996) cho biết 57,27% ĐK ở trẻ em dưới 6 tuổi [21]. Theo Shian.WJ, ĐK
cơn lớn chiếm 70% ĐK chung [75], và theo thông báo của TCYTTG, ĐK cơn
lớn chiếm 50-80% của ĐK cho mọi lứa tuổi và khởi phát sớm, khả năng điều
trị cắt cơn chiếm 80% [17],[20]. ĐK cơn lớn ở trẻ em chiếm tỷ lệ cao, đặc biệt
là trẻ em dưới 6 tuổi. Đây là một thể ĐK mà lâm sàng dễ nhận thấy và cũng là
một thể ĐK được phát hiện sớm nhất trong lịch sử bệnh ĐK. Chẩn đoán ĐK
cơn lớn đã có nhiều nghiên cứu, cũng như TCYTTG đã đưa ra tiêu chuẩn
chẩn đoán dựa vào lâm sàng điển hình và ĐNĐ (điện não đồ) điển hình. Ngày
nay thực tế và một số nghiên cứu cho rằng cơn lâm sàng và hình ảnh ĐNĐ có
sự thay đổi so với trước đây. Cơn lâm sàng ĐK cơn lớn không theo 3 giai
đoạn điển hình là co cứng – co giât – doãi cơ, mà chỉ có một hay hai giai đoạn
trên. ĐNĐ cũng vậy, ĐNĐ điển hình như trước đây mô tả cũng có khác hơn.
Tỷ lệ ĐNĐ không điển hình cũng chiếm tỷ lệ cao hơn, trước đây tỷ lệ ĐNĐ
này rất thấp. Theo Wang.T (2006): Lâm sàng cơn ĐK cơn lớn không điển
hình chiếm tỷ lệ 21,46%, trước đây tỷ lệ này chỉ chiếm 5-10% [76]. Theo
Beniczky.S và cộng sự (2015): có 20-30% ĐK cơn lớn ĐNĐ ngoài cơn không
điển hình hoặc bình thường, trước đây tỷ lệ ĐNĐ không điển hình gặp ít hơn



từ 5 – 10% và không có ĐNĐ bình thường. Ông còn cho biết thêm có 10-15% ở
người bình thường không có cơn ĐK nhưng trên ĐNĐ có sóng động kinh [39].
Động kinh là một bệnh của não, do đó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển tâm thần, thần kinh, đặc biệt là trẻ dưới 6 tuổi, khi mà não đang phát
triển. Mặc dù ĐK cơn lớn nói riêng, ĐK nói chung đã được biết đến hàng
ngàn năm trước đây, song cơ chế bệnh sinh còn chưa hiểu rõ hết do đó việc
điều trị, phục hồi chức năng thần kinh, tâm thần trong ĐK còn nhiều khó
khăn. Trong công tác quản lý, điều trị và phục hồi chức năng cho trẻ bị ĐK
chưa được thúc đẩy mạnh, thiếu sót nhiều, còn có trẻ bị bỏ mặc trong cộng
đồng. Các điều tra cho thấy 50% các trẻ bị ĐK không được điều trị đầy đủ, ở
trẻ dưới 6 tuổi tỷ lệ này còn cao hơn. Do đó số trẻ em chậm phát triển ngày
càng gia tăng. Việc đánh giá sự phát triển tâm thần - vận động của trẻ bị ĐK
rất quan trọng, để từ đó có những kế hoạch giúp cho việc phục hồi chức năng
tâm lý cho trẻ bị động kinh [38],[53].
Tại Bệnh viện Sản Nhi Bắc Giang (BVSNBG), chuyên ngành Nhi khoa
đã được chú ý và quan tâm phát triển. ĐK ở trẻ em là một bệnh khá phổ biến
tại vùng tỉnh Bắc Giang và lân cận. Chẩn đoán và điều trị ĐK ở trẻ em tại
BVSNBG đã tuân thủ theo phác đồ điều trị chung của Việt Nam và Tổ chức
ĐK Thế giới. Đặc điểm động kinh cơn lớn ở trẻ em tại Bắc Giang như thế
nào? Kết quả điều trị, quản lý và theo dõi bệnh ĐK cơn lớn ở trẻ em dưới 6
tuổi ra sao? Để trả lời những câu hỏi này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề
tài “Kết quả điều trị động kinh toàn thể cơn lớn ở trẻ em dưới 6 tuổi tại bệnh
viện Sản Nhi Bắc Giang” nhằm hai mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và điện não đồ động kinh cơn lớn ở trẻ em
dưới 6 tuổi.
2. Đánh giá kết quả điều trị động kinh cơn lớn ở trẻ dưới 6 tuổi tại bệnh
viện Sản Nhi Bắc Giang.


Chương 1: TỔNG QUAN

1.1 Định nghĩa động kinh
Động kinh là sự rối loạn chức năng của thần kinh trung ương do sự
phóng điện đột ngột, quá mức và tự duy trì các noron ở não. Định nghĩa này
được cụ thể hóa bằng các đặc tính sau: xuất hiện từng cơn ngắn vài giây đến
vài phút, cơn có tính chất định hình, xảy ra dột ngột không kịp đề phòng, biểu
hiện các chức năng thần kinh trung ương bị rối loạn (cơn vận động, cảm giác,
giác quan, thực vật…) điện não đồ (ĐNĐ) ghi được các đợt sóng kịch phát.
Mất ý thức là biểu hiện thường thấy trong cơn ĐK [1],[19],[46].
ĐK cơn lớn: là một thể ĐK do sự rối loạn từng cơn chức năng của thần
kinh trung ương, bởi sự phóng điện kịch phát lan tỏa, xâm chiếm đồng thời cả
hai bán cầu đại não, cụ thể là: xuất hiện từng cơn, có tính chất toàn thể, xảy ra
đột ngột, biểu hiện lâm sàng trong cơn điển hình 3 giai đoạn: Co cứng - co
giật - doãi cơ và mất ý thức trong cơn co giật. ĐNĐ có hoạt động phóng điện
kịch phát lan tỏa hai bán cầu đại não [27],[55].
1.2 . Thuật ngữ
1.2.1. Động kinh cơn lớn
Trước đây người ta cho tất cả các cơn ĐK cơn lớn được xem là “sự co
giật toàn bộ cơ thể kèm theo rối loạn chức năng chủ yếu”. Sau này đã xác
định được sự khác biệt giữa các cơn co giật toàn thể với các cơn một bên và
biết được các cơn ĐK không co giật (cơn nhỏ). Đến cuối thế kỉ 19 và 20, ĐK
co cứng – co giật được dựa vào nhóm các cơn co giật toàn thể khác và tất cả
gộp chung với một cái tên: ĐK cơn lớn (Le Grand mal). Sau đó một số tác giả
đã viết: ĐK cơn lớn người ta sử dụng danh từ này để chỉ các biểu hiện “lớn”
của ĐK toàn thể, nó đặc trưng bởi cơn co giật, kèm theo mất ý thức và trên
lâm sàng biểu hiện 3 giai đoạn:co cứng - co giật - doãi cơ. Thuật ngữ Grand
mal ngày nay ít được dùng nữa, nó không nhấn mạng đến sự có hay không có


thứ tự xuất hiện các biến cố, mà qua đó giúp phân biệt trên lâm sàng giữa các
cơn ĐK toàn thể tiên phát với các cơn thứ phát. Hay là các cơn co cứng – co

giật toàn thể với các loại cơn có co giật khác. Một thuật ngữ khác của ĐK cơn
lớn là Generalized tonic-clonic seizures (cơn co cứng – co giật toàn thể hóa),
ngày nay có nhiều ý kiến khác nhau, người ta cho rằng cần có sự phân hóa
cao hơn, phân loại tên cơn dựa vào lâm sàng và ĐNĐ [2],[41].
1.2.2. Động kinh cơn nhỏ
Trước đây được gọi là ĐK cơn nhẹ để chỉ tất cả các biểu hiện nhẹ của
cơn ĐK. Sau này ĐK thuật ngữ ĐK cơn nhỏ chính thức được sử dụng (Petit
mal). Một số tác giả đã viết: ĐK cơn nhỏ, người ta dùng các thuật ngữ này để
chỉ các biểu hiện “nhỏ” của ĐK toàn thể, hay gặp ở trẻ em, có đặc điểm cơn
ngắn lặp lại nhiều lần trong ngày. Thuật ngữ ĐK cơn nhỏ ngày nay ít được
dùng và nói đến ĐK cơn nhỏ thường đề cập đến ĐK vắng ý thức (Absence)
[9],[13].
1.3 . Lịch sử và tình hình nghiên cứu bệnh động kinh
1.3.1. Trên thế giới
ĐK được phát hiện rất sớm từ thời cổ đại. Papyras Ebers (1500 trước
công nguyên) đã mô tả ĐK như một hiện tượng thần bí, xuất hiện như “một
tia chớp giữa bầu trời quang” và cho rằng thượng đế thần linh giận dữ trừng
phạt, coi cơn ĐK là “cơn thiêng liêng” coi người bệnh là người của ma quỷ.
Đến Hyppocrate (460-377 trước công nguyên) đã viết “cơn thiêng liêng” bằng
chứng về sự nổi giận của thượng đế và thần linh, đối với ông “chẳng có gì là
thần thánh cũng chẳng có gì là thiêng liêng hơn các mặt khác về mặt bản chất
cũng như cội nguồn của nó”. Ông đã mô tả cơn ĐK: xuất hiện đột ngột, người
bệnh ngã xuống bất tỉnh, chân tay co giật, môi răng mím chặt, thâm tím, cơn
qua nhanh, người bệnh trở lại bình thường, cơn có tính chất lặp lại, thấy một
số gia đình bố mẹ hoặc con đều mắc bệnh.Một quan niệm đầu tiên về di
truyền, ông cho ĐK là bệnh não [17],[52].


Như vậy, cơn ĐK đầu tiên trong lịch sử ĐK, được mô tả sớm nhất chính
là động kinh cơn lớn. Đầu thế kỷ thứ 1, Aretée (Hy Lạp) sau đó là Jean Fezael

(Thầy thuốc của nữ hoàng Catherine de Medicis) đã mô tả triệu chứng ĐK .
Cornelius Agrippa (1486 - 1535) và học trò Johann Weyer (1515 – 1558) cho
ĐK có thể do nhiễm độc tổ chức, chất độc tố nào đó. Theophrastus Paracelsus
(1493 – 1591) cho ĐK là rối loạn chuyển hóa. Pelix Plater (1536 – 1635) đưa
ra cho rằng phù não có thể gây ra cơn ĐK. Carolus Piso (1563 – 1635) đã mô tả
sự khác biệt của cơn co giật ĐK và cơn co giật Hysteria. Ông cho rằng cơn co
giật Hysteria do rối loạn cảm xúc còn cơn co giật ĐK do tổn thương của não
Năm 1770 Tissot trong cuốn Le traité de I’éspilepsie đã viết: Để tạo ra
ĐK cần có 2 yếu tố:
1. Não có thiên hướng mắc ĐK hơn là lành mạnh.
2. Có một nguyên nhân kích thích làm phát động thiên hướng trên.
Năm 1815 Exquirol đã phân biệt “các cơn nặng với các cơn nhẹ, đó là
cái mà người ta gọi cơn lớn, cơn nhỏ trong các bệnh viện”.
Nhờ có tiến bộ khoa học, kỹ thuật và phát triển của y học, bệnh học thần
kinh và các thuật ngữ ngày càng sáng tỏ hơn và người bị ĐK thực sự được coi
là bệnh nhân. Chính từ đây (1815) các thể loại trong ĐK đã được chú ý. ĐK
cơn lớn đã được phân biệt với thể loại khác của ĐK. Nó được thừa nhận có
biểu hiện lâm sàng điển hình, dễ nhận thấy nhất trong các loại ĐK .
Đã có nhiều công trình nghiên cứu ĐK rộng rãi hơn về lĩnh vực khác
nhau: Giải phẫu, sinh lý, hóa sinh, ĐNĐ, điều trị….
Hughlings Jakson (1825 - 1911) nhà thần kinh học, người Anh qua
nghiên cứu giải phẫu sinh lý, mô tả lâm sàng và tổn thương của ĐK, đã đưa
giả thiết, định nghĩa: “ĐK là cơn kịch phát phóng điện, đồng thời, quá mức và
sự tự duy trì của một quần thể nơron trong chất xám vỏ não”. Định nghĩa này
đến nay ngành Điện sinh lý hiện đại vẫn thừa nhận [trích từ 34 và 49 ].


Năm 1924 Hans Berger đã thành công trong việc ghi lại các hoạt động
điện trên sọ của bệnh nhân 17 tuổi u não, đã được phẫu thuật lấy đi mảnh
xương sọ, bằng các điện cực không phân cực đặt trên chỗ hở xương. Năm

1929 ông đã công bố công trình và đưa ra thuật ngữ ĐNĐ.
Năm 1937 Gibbs – David và Lennox đã mô tả cơn ĐK - Tâm thần vận
động, sau này đã xác định tổn thương của loại cơn này là ở thùy thái dương.
Năm 1956 Livingston đưa ra công trình nghiên cứu thần kinh trẻ em
nổi tiếng về chẩn đoán và điều trị các rối loạn co giật ở trẻ em.
Từ đó đến nay nhờ có tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát triển của y học,
các công trình nghiên cứu về ĐK ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Năm 1970 Henri Gastaut đưa ra bảng phân loại ĐK đầu tiên và năm
1981 bảng phân loại lần 2; G.A Vanzini (1989) đưa bảng phân loại lần thứ 3.
Sau đó nhiều bảng phân loại quốc tế ra đời ngày càng hoàn thiện hơn.
Năm 1991 Brett M Edward trong cuốn thần kinh nhi khoa ông đã viết về
ĐK trẻ em, mô tả ĐK cơn lớn ở trẻ em, nêu một số điểm khác nhau trong ĐK
cơn lớn ở trẻ em và người lớn.
Năm 1995 Gaeenbeng.DA đưa công trình nghiên cứu về sự khác biệt ĐK
rung giật ở trẻ nhỏ với ĐK cơn lớn ngẫu nhiên và ĐK cơn lớn lúc thức dậy.
Năm 1999 Hemer.HM đã nêu triệu chứng học của 296 trẻ em bị ĐK cơn
lớn dưới 6 tuổi, theo dõi trong 3 năm đầu [trích từ 21 và 46].
1.3.2.Trong nước
Động kinh nói chung và ĐK ở trẻ em nói riêng ở nước ta trước kia chưa
được chú ý, nhân dân gọi ĐK là cơn sài, cơn kinh giật. Việc chẩn đoán và
điều trị thường rất khó khăn, không được chẩn đoán sớm và điều trị hoặc điều
trị không đúng [17]. Từ 1956 ĐK ở trẻ em bắt đầu được theo dõi nhưng chỉ ở
mức độ lâm sàng. Từ năm 1971 - 1973 ĐNĐ được ứng dụng trong chẩn đoán
và điều trị ĐK.


Năm 1980 đã công bố môt công trình nghiên cứu về co giật và ĐK ở trẻ em
như: Lê Đức Hinh nghiên cứu về hội chứng co giật ở trẻ em, cho biết tỷ lệ
ĐK con lớn chiếm 74% trong ĐK chung, Hồ Ý Thơ nghiên cứu về sốt cao co
giật ở trẻ em, cho biết, tỷ lệ CGDS tái phát trở thành ĐK chiếm 10,72%.

Năm 1983 Trần Thu Hương đã nghiên cứu về ĐK co thắt gấp ở trẻ em. Năm
1985 Lưu Thanh Tuệ nghiên cứu lâm sàng và điện não của ĐK ở trẻ em, cho
biết ĐK cơn lớn chiếm tỷ lệ cao 80% và điều trị cắt cơn chiếm 80% sau 2
năm điều trị [26].
Năm 1988 Nguyễn Văn Dung đã nghiên cứu so sánh ĐK vô căn và ĐK
toàn thể. Nguyễn Văn Dung đã nghiên cứu so sánh ĐK vô căn và ĐK toàn
thể, các tác giả trên đều cho biết tỷ lệ ĐK cơn lớn chung chiếm tỷ lệ rất cao,
chiếm > 80 % thổng ĐK chung. Nguyễn Chương (1988) một vài đặc điểm
giải phẫu chức năng ứng dụng trong ĐK giúp cho chẩn đoán phân loại động
kinh [7], [18].
Từ thập kỷ 90 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về ĐK ở trẻ
em như: Năm 1994 Nguyễn Quang Bích chẩn đoán và điều trị các loại ĐK co
giật, Lê Đức Hinh (1994) hội chứng ĐK. Ninh Thi Ứng (1996) bệnh ĐK ở
trẻ em cho biết tỷ lệ ĐK cơn lớn ở trẻ em chiếm 74%, Trần Thu Hương
(1996) nghiên cứu ĐK vô căn ở trẻ em dưới 15 tuổi, Hoàng Cẩm Tú (1996)
ĐK trẻ em dưới 6 tuổi cho biết tỷ lệ ĐK cơn lớn chiếm 57,27% , Nguyễn
Hương Giang (1997) một số nhận xét từ 1-12 tháng tuổi, cho biết CGDS tái
phát chuyển thành ĐK chiếm 15%[15],[21].
Một số nghiên cứu gần đây như: Hồ Hữu Lương (2004) Bệnh Động
kinh, Hà Hoàng Kiệm (2016), Bệnh động kinh, chẩn đoán và điều trị. Hồ
Đăng Mười (2015), nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, điện não đồ, cộng hưởng
từ não ở bệnh nhân có cơn động kinh cơn lớn [19],[20].
Như vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ĐK trẻ em chung và ĐK
cơn lớn ở trẻ em, song ĐK lớn ở trẻ dưới 6 tuổi chưa được đề cập nhiều.


1.4. Nguyên nhân động kinh
1.4.1. Động kinh thứ phát: Động kinh thứ phát hay ĐK có nguyên nhân, ĐK
triệu chứng, liên quan đến tổn thương ở não gồm:
Nguyên nhân trước sinh như: bệnh của mẹ khi mang thai như nhiễm

siêu vi trùng (Rubeon, Cytomegalovirus, Toxoplasma, Herpes…) các yếu tố
khác như suy dinh dưỡng, nhiễm độc chì, thuỷ ngân, thạch tín, nicotin, rượu,
ma tuý, các thuốc chống động kinh và các chất độc hoá học khác. Các nguyên
nhân trên gây nên dị tật bẩm sinh như: dị tật bẩm sinh não bộ thời kỳ bào thai,
dị dạng mạch máu não thời kì bào thai [44],[67],[75].
Nguyên nhân trong khi sinh: liên quan đến tai biến trong sản khoa
(Ventuox, Forceps, mổ đẻ…) đẻ quá nhanh, ngạt khi đẻ, gây thiếu oxy não,
rối loạn chức năng và tổn thương não bộ.
Nguyên nhân sau sinh (theo tuổi):
Sơ sinh: nhiễm khuẩn như viêm màng não mủ, nhiễm khuẩn huyết, chấn thương
sản khoa, khuyết tật não, thiếu Pyridoxin, giảm đường máu, canxi máu.
Trẻ dưới 1 tuổi: co giật do sốt, chấn thương sản khoa, nhiễm trùng thần kinh,
khuyết tật não, xuất huyết não màng não.
Trẻ từ 1-3 tuổi: co giật do sốt, viêm não, khuyết tật não, chấn thương sản khoa.
Trẻ từ 3-6 tuổi: co giật do sốt, viêm màng não mủ, viêm não, áp xe não, chấn
thương sản khoa, chấn thương sọ não [36],[52].
1.4.2. Động kinh nguyên phát
Động kinh nguyên phát hay ĐK vô căn, chưa rõ nguyên nhân hoặc ĐK
căn nguyên ẩn. Bằng những phương pháp thăm khám lâm sàng, hỏi tiền sử
cũng như tiến hành những xét nghiệm, thăm dò chức năng hiện tại chưa tìm
thấy một tổn thương nào của não trong các bệnh nhân mắc loại ĐK này.
Nhiều nghiên cứu cho thấy nhóm ĐK này ít tìm thấy nguyên nhân rõ ràng cơ
chế gây bệnh có liên quan đến các yếu tố di truyền, gia đình, sự thay đổi của
nhịp sinh học.Đây là đại diện cho ĐK chung, trên não không tìm thấy bất cứ


tổn thương thực thể nào, nhưng trên lâm sàng có nhiều cơn co giật tái phát,
ĐNĐ có hoạt động kịch phát của các sóng điện não lan tỏa 2 bán cầu cao điện
thế. [47],[54].
1.5. Đặc điểm lâm sàng động kinh cơn lớn

Hiện nay đã có các nghiên cứu và thực tiễn đã ghi nhận, lâm sàng cơn
ĐK lớn có thay đổi: Cơn lâm sàng không đủ 3 giai đoạn co cứng - co giật –
doãi cơ, nhiều cơn ĐK chỉ có một hoặc hai giai đoạn của cơn, người ta gọi là
cơn lớn cụt. Wang.T (2006) cho biết: Lâm sàng ĐK cơn lớn không điển hình
chiếm tỷ lệ 21,46% sau 2 năm điều trị, các nghiên cứu trước đây tỷ lệ này chỉ
chiếm 5-10% [76]. Kramer.U và cộng sự (2008) nghiên cứu về trẻ co giật ĐK
toàn thể cơn lớn cho biết: Tỷ lệ cơn lâm sàng không điển hình chiếm 25,6%
tổng ĐK cơn lớn [60], cần được nghiên cứu thêm để làm sáng tỏ vấn đề này.
1.5.1. Đặc điểm lâm sàng động kinh cơn lớn ở trẻ từ 3 - 6 tuổi
1.5.1.1. Trước cơn co giật
Tiền triệu (trước đó vài ngày hoặc vài giờ). Các triệu chứng có thể xảy
ra như: nhức đầu, rối loạn tiêu hoá, kém ăn, rối loạn ngủ, kích thích khó chịu,
tăng cảm giác kích thích…(người ta hay gọi là tiền triệu xa và tiền triệu gần).
Dấu hiệu báo trước (xuất hiện ngay trước cơn hay còn gọi là cơn
thoáng (aura). Theo một số tác giả ĐK cơn lớn ở trẻ nhỏ 50% trường hợp có
dấu hiệu báo trước như: rối loạn vận động (chớp mắt, nghiến răng, động tác
nhanh của các chi, bồn chồn tay chân, mút tay…) rối loạn cảm giác (tê bì, ớn
lạnh, chóng mặt, cảm giác như nghẹt thở), rối loạn các giác quan (ù tai, loé
mắt, chớp mắt, nghe tiếng vọng, tiếng ồn, ngửi mùi khó chịu…), rối loạn thần
kinh thực vật (nôn, buồn nôn, hồi hộp, đánh trống ngực, mặt đỏ hoặc tái, chảy
nước dãi…), rối loạn tâm thần (sợ sệt, lo lắng, kích thích hoặc hưng phấn…),
rối loạn ngôn ngữ (phát âm từ từ, từng câu, đôi khi là các từ câu vô nghĩa,
nhắc lặp lại một từ, một câu…). Dấu hiệu báo trước xảy ra nhanh 5-10 giây.
Nếu bố mẹ và người trong gia đình có thể biết được cơn sắp xảy ra và có thể


đề phòng cơn cho trẻ. Cơn xảy ra bất kỳ trong ngày, thường xảy ra sau một
tác động của yếu tố gợi cơn. Ở một số trẻ cơn chỉ xảy ra lúc ngủ, nhưng các
nghiên đều cho rằng đa số cơn xảy lúc thức [11],[21].
1.5.1.2. Trong cơn co giật

Bắt đầu đột ngột mất ý thức, ngã bất ngờ, bất cứ hướng nào, khóc rống,
hoặc kêu một tiếng do co thắt khe thanh môn và co cứng các cơ ngực.
Tiếp theo cơn chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn co cứng: đầu ngửa ra sau hay bình thường chân tay duỗi
cứng, các cơ toàn thân co cứng, hai tay nắm chặt, hai hàm răng khít chặt, răng
nghiến, lồng ngực và cơ hoành bất động, ở tư thế thở ra gắng sức, ngừng thở
kèm theo ngạt, mặt bầm tím, mắt đảo ngược, đồng tử giãn không phản xạ ánh
sáng, mạch nhanh huyết áp tăng có thể đái ra quần hiếm hơn là ỉa ra quần.
Giai đoạn co cứng kéo dài khoảng 15-20 giây, tối đa khoảng 1 phút, rồi bệnh
nhân thở sâu, ầm ĩ và chuyển sang giai đoạn co giật [11],[20].
Giai đoạn co giật:
- Co giật đơn thuần: co giật các cơ toàn thân, hai tay hai chân co giật nhịp
nhàng, lúc đầu nhịp chậm sau nhanh dần các cơ mặt cũng giật, hai hàm răng
cắn theo nhịp, cuối cùng cơn giật thưa dần và ngừng hẳn.
- Co giật – rung giật toàn thân, hai tay hai chân vừa giật và rung cơ, cường độ
rung giật lớn, nhịp giật không nhịp nhàng, chậm lại, thay đổi nhịp. Lưỡi bị
đẩy ra ngoài theo cơn giật, dễ bị cắn vào lưỡi, thở khò khè, tăng tiết nước bọt,
sùi bọt mép, có thể đái hoặc ỉa không tự chủ. Giai đoạn kéo dài 1-2 phút, ít
khi quá 6 phút.
Giai đoạn doãi cơ: các cơ suy kiệt nặng, bệnh nhân hôn mê, các cơ duỗi
ra, phản xạ gân xương giảm, có thể có dấu hiệu Babinsky. Bệnh nhân thở bù
lại mạnh và nhanh, phì nước bọt ra mép, có lẫn máu nếu cắn vào lưỡi. Sau vài
phút sắc mặt trở lại bình thường, nhịp thở đều, tiếp theo giai đoạn sau cơn
[20],[62].


1.5.1.3. Giai đoạn sau cơn co giật
Sau giai đoạn doãi cơ bệnh nhân có thể tỉnh ngay trở lại bình thường hay
ngủ. Ngủ sau cơn: Sau cơn bệnh nhân ngủ thiếp đi cơn ngắn, hay cơn dài từ
vài phút đến hàng giờ sau mới tỉnh.

Rối loạn sau cơn – sau cơn (tỉnh ngay hoặc tỉnh sau cơn ngủ) bệnh nhân
có những rối loạn như: rối loạn vận động (liệt, bại, co cứng cơ…), rối loạn
cảm giác (giảm cảm giác, tê, dị cảm…), rối loạn giác quan (nhìn rối loạn,
nghe kém…), rối loạn thần kinh thực vật (nôn, buồn nôn, đau đầu…), rối loạn
tinh thần hốt hoảng, sợ hãi, chạy trốn hoặc làm những hành vi đột phát nguy
hại (trạng thái hoàng hôn). Trẻ không nhớ những gì đã xảy ra, sau cơn trẻ trở
lại bình thường [20],[54],[55].
1.5.2. Đặc điểm lâm sàng động kinh cơn lớn ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 3 tuổi
Theo một số tác giả trẻ em càng nhỏ, nhất là dưới 3 tuổi các giai đoạn
của ĐK cơn lớn không biểu hiện trình tự như ở trẻ lớn, cơn không điển hình,
cơn ngắn và cường độ nhẹ hơn. Có khi chỉ thấy cơn co giật – rung giật cơ đơn
thuần, không thấy giai đoạn tăng trương lực cơ và giai đoạn doãi cơ. Hoặc là
chỉ có hai giai đoạn co giật – rung giật và doãi cơ. Một số tác giả gọi là cơn
lớn cụt do ở lứa tuổi này hoạt động các nhân dưới vỏ chiếm ưu thế, giai đoạn
co cứng và doãi cơ xảy ra rất ngắn và trùng với cơn co giật. Trong cơn ĐK trẻ
co giật toàn thân, kèm theo có cơn ngừng thở ngắn, sau cơn trẻ có thể ngủ gà,
lơ mơ. Hầu hết không có tiền triệu và dấu hiệu báo trước. Nhưng một số trẻ
có một số biểu hiện khởi phát như quấy khóc, kém ăn, khó ngủ, sợ sệt, khóc
thét hoặc hét lên. Người mẹ và gia đình có thể dễ nhận ra, đột nhiên trẻ dễ
nhợt nhạt, kích thích thay đổi cử động, không có dấu hiệu rối loạn các giác
quan và rối loạn cảm giác.
Giai đoạn sau cơn trẻ ngủ thiếp (ngủ ngắn) hoặc tỉnh ngay (không ngủ).
Vì cơn xảy ra ngắn, nhanh nên lứa tuổi này ít thấy giai đoạn sau cơn có cơn
ngủ dài, thường rối loạn sau cơn như: Rối loạn vận động, liệt nửa người, bại,


không có rối loạn tinh thần. Hết cơn trẻ tỉnh trở lại và hoạt động bình thường
[56],[59].[63].
1.6. Điện não đồ
1.6.1.Đặc điểm điện não đồ sinh lý ở trẻ dưới 6 tuổi

1.6.1.1. Đặc điểm điện não đồ sinh lý ở trẻ sơ sinh
ĐNĐ với điện thế thấp là chủ yếu, sóng Delta không đều, tần số từ 0,5 – 3 chu
kỳ/giây, biên độ 10 – 30uv. Khi có kích thích ĐNĐ thay đổi khoảng 3 – 5 giây.
Các sóng chậm nhiều hơn. Có sự khác nhau giữa các giai đoạn thức ngủ
và có liên quan giữa hai bán cầu, không có sóng Alpha.
1.6.1.2. Điện não đồ ở trẻ từ 2 tháng đến 12 tháng tuổi
Chủ yếu sóng Delta, Theta, tần số 2-3-5 chu kỳ/giây, biên độ 30 – 70 µv ,
chưa có sóng Apha.
1.6.1.3. Điện não đồ ở trẻ 1-3 tuổi
Sóng chủ đạo Theta, tần số 4-7 chu kỳ/giây, biên độ 40-100 µv. Từ 3 tuổi
bắt đầu có sóng Alpha chậm, rải rác ở vùng đỉnh - chẩm.
1.6.1.4. Điện não đồ ở trẻ 4-6 tuổi
Sóng chủ đạo Theta, Alpha, tần số 5–8 chu kỳ/giây, biên độ 30-100 µv.
Sóng Alpha sẽ tăng tần số đến 6 tuổi chiếm 50%. Đến lúc 12 tuổi sóng Alpha
chiếm 80-90%. Đến 15 tuổi hoạt động sóng Alpha ổn định như người lớn
[5],[30],[40].
1.6.2.Điện não đồ trong động kinh
Sóng ĐK điển hình là hoạt động kịch phát của các sóng dưới dạng:
- Gai, đa gai, phức tạp gai - chậm, đa gai - chậm.
- Nhọn, đa nhọn, phức hợp nhọn - chậm, đa nhọn - chậm.
Sóng ĐK không điển hình là hoạt động của sóng dưới dạng: Delta, theta
và Alpha kịch phát, không có hoạt động của gai, nhọn sóng.
*Gai (Spike): là những giao động sóng có tính chất phóng lực mạnh, biểu
hiện sự phóng lực của neuron bệnh lý đột ngột, có bước sóng từ 20-50mm/s.


Trên bản ghi điện não thấy hình sóng một pha hoặc hai pha. Một nhánh đi lên
hoặc đi xuống cực nhanh và sau đó quay lại đường đẳng điện, đột ngột nhanh
tạo một góc đỉnh rất sắc nhọn. Gai có thể gai âm gai dương, tuỳ thuộc vào
tính chất bệnh lí mà xuất hiện đơn độc hay tạo phức bộ với các sóng khác.

*Gai - chậm: khi các gai đơn độc xuất hiện tiếp theo với một sóng chậm tần
số từ 1-3 chu kì /giây, tạo một phức bộ gai chậm.
*Đa gai – chậm: khi các gai đơn độc xuất hiện liền nhau trong một thời gian
ngắn tiếp theo với một sóng chậm 1-3 chu kì /giây, tạo một phức hợp đa gai chậm.
*Sóng nhọn (Sharp Waves): một số tác giả gọi là gai chậm, có bước sóng gần
với Alpha hoặc Beta, đỉnh nhọn luôn ở cực dương và tạo một góc nhọn hơn
với một sóng chậm. Sóng nhọn có bước sóng từ 70-200mm/s, điện thế thường
Cao từ

70-100 µv. Sóng nhọn thường biểu hiện một tổn thương ở vùng nào

đó ở vỏ não.
*Nhọn-chậm: gồm một sóng nhọn và một sóng nhọn đi liền nhau với một
sóng chậm từ 1-3 chu kỳ/giây.
*Đa nhọn-chậm: sóng nhọn suất hiện liền nhau tiếp theo là một sóng chậm
có tần số từ 1-3 chu kỳ/giây.
*Delta, theta kịch phát: là những sóng delta, theta có thể nhanh hay chậm,
tạo ổ đồng bộ, đồng thì, điện thế cao, đột ngột trên bảng ghi điện não. Các
sóng này không ở điều kiện sinh lý (lứa tuổi hay giấc ngủ) đều có nghĩa là
bệnh lý và phụ thuộc vào tính chất, vị trí và nguyên nhân bệnh, do vậy trong
ĐK, hoạt động kịch phát của các sóng đó gọi là hoạt động sóng ĐK không
điển hình [6],[61],66].
1.6.3. Đặc điểm điện não đồ trong động kinh cơn lớn ở trẻ em
*Điện não đồ trong cơn: Điện não đồ biểu hiện các loại sóng kịch phát, lan toả
đồng thời, từ hai bán cầu với biên độ cao hoặc rất cao, của các tạo sóng: nhọn, đa
nhọn, gai, nhọn hai pha, ba pha, delta, theta, phức hợp sóng tần số nhanh.


Điện não đồ ghi trong cơn nhiều sóng nhiễu của điện cơ, xen kẽ với kịch
phát và sóng chậm. Tuần tự điện não như sau: trước cơn một vài giây suất

hiện rải rác các sóng chậm, biên độ thấp, rồi chuyển nhất nhanh thành các
nhọn, gai biên độ cao, tần số nhanh trên cả các kênh (tương ứng giai đoạn co
cứng trên lâm sàng).
Các sóng dạng gai biên độ cao dần và tần số giẩm dần, sao 10-30 giây các
gai tạo thành nhóm gai-sóng chậm (tương ứng giai đoạn co giật trên lâm
sàng). Tiếp theo tần số của gai giảm dần (gai chậm),những số lượng sóng
chậm nhiều lên,ban đầu sóng chậm tần số 3 chu kỳ/giây, sau đó giảm 1 chu
kỳ/giây và cuối cơn co giật,sóng chậm 1 chu kỳ/giây chiếm ưu thế (tương ứng
giai đoạn giãn cơ trên lâm sàng). Tiếp theo các sóng chậm, điện thế thấp dần
không đều nhau, kéo dài cho đến khi bệnh nhân tỉnh hẳn (tương ứng giai đọn
phục hồi trên lâm sàng) [37],[40].
*Điện não đồ ngoài cơn: ít gặp đợt kịch phát, ĐNĐ nền bình thường hoặc
gần như bình thường, xen kẽ loạt kịch phát, lập đi lập lại, biên độ cao, có thể với
nhọn, đa nhọn, theta, delta, phức hợp gai-sóng biên độ cao, lan toả hai bán cầu.
ĐNĐ là một xét nghiệm đặc hiệu giúp cho chẩn đoán cơn ĐK, loại cơn,
vị trí ổ ĐK. Tuy nhiên bản điện não bình thường không bỏ chẩn đoán ĐK mà
trên lâm sàng có cơn co giật. Theo Adzaku.Fk và cộng sự (2017), có 20-30%
ĐK cơn lớn ĐNĐ ngoài cơn không điển hình hoặc bình thường. Ngược lại
một số tác giả cho biết từ 10-15% ở người bình thường không có cơn ĐK
nhưng trên ĐNĐ có sóng ĐK. Để nâng cao hiệu quả trong ghi ĐNĐ người ta
dùng phương pháp hoạt hoá như: Thở sâu, kích thích ánh sáng tiếng động, ghi
ĐNĐ trong giấc ngủ sâu tự nhiên….[ trích từ 66 và 72].


1.7. Phát triển tâm thần – vận động ở trẻ dưới 6 tuổi
1.7.1. Phát triển sinh lý
1.7.1.1. Trẻ sơ sinh
- Trẻ hoạt động do các phản xạ và hoạt động hỗn loạn do trung tâm dưới
vỏ chi phối, hoạt động không tự chủ, có phản xạ tự nhiên, tư thế nằm, ngủ
nhiều…

1.7.1.2. Trẻ 2-3 tháng
- Hóng chuyện, mắt nhìn theo vật sáng, phát âm líu lo, nằm sấp, ngẩng
đầu được một lúc…
1.7.1.3. Trẻ 4-5 tháng
- Theo dõi, cười đùa với người xung quanh, thích đồ chơi, hướng về
tiếng nói, tiếng động, phát âm một vài phụ âm, thích đạp, vùng vẫy chân, lẫy
từ ngửa sang sấp, nằm sấp ngửa đầu được lâu hơn…
1.7.1.4. Trẻ 6-9 tháng
+ Trẻ 6 tháng: nhận lạ quen, bập bẹ hai âm thanh, đưa tay vơ đồ vật, nằm
được vật, ngồi được dễ đổ chưa vững…
+ Trẻ 7-9 tháng: ngồi vững, phản ứng khi người ta bế, khóc, biết cầm thức ăn
đưa vào miệng, vẫy tay chào, hoan hô, cầm đồ vật cả hai tay và đập vào nhau.
Đã có sự kết hợp chưa hoàn chỉnh của cảm giác như tai nghe, mắt thấy, tay
sờ, miệng nếm, mũi ngửi, biết phát âm: bà bà, ma ma.
+ Trẻ 9 tháng: ngồi vững lâu hơn, bò, tập đứng vịn, nhặt vật nhỏ bằng ngón
cái và ngón trỏ. Phát âm: a..a, ba ba, ma ma…
1.7.1.5. Trẻ 10-12 tháng: đứng vịn vững, đi men, sử dụng ngón tay dễ hơn,
chỉ tay đòi vật, hiểu từ “không”…
1.7.1.6. Trẻ 13-15 tháng: đi một vài bước, sử dụng ngón tay dễ hơn, nói được
4-6 từ ngoài từ bố,mẹ. Đáp ứng mệnh lệnh đơn giản…
1.7.1.7. Trẻ 16-18 tháng: đi vững, đứng thẳng, mắt nhìn xa, cầm được cốc
thìa khéo hơn, tiểu tiện biết kêu, bắt chước câu nói hai từ. Trẻ trên 2 tuổi nói


được, bắt đầu sau nghĩ với thế giới vật chất bên ngoài, nhìn vật một cách chủ
qua, chưa thấy tính khách quan của sự vật…
1.7.1.8. Trẻ 2-3 tuổi: đi nhanh, chạy, leo trèo bậc cửa, thích mặc quần áo, biết
câu 2-3 từ, biết ít nhất 250 từ, biết số nhiều của từ, biết đại từ, trẻ hay hỏi,
thích hát…
1.7.1.9. Trẻ 3 – 6 tuổi: đôi tay đã khéo, cầm dao, kéo, buộc dây, đi lên xuống

cầu thang dễ dàng, đi xe ba bánh, cầu bập bênh, vốn từ hàng nghìn, nói thành
câu, thích kể chuyện và kể lại, hát... [3],[4],[30].
1.7.2. Đánh giá phát triển tâm thần-vận động qua trắc nghiệm tâm lý
1.7.2.1. Sơ lược lịch sử về trắc nghiệm tâm lý
Trắc nghiệm tâm lý có thể xem là một xét nghiệm cận lâm sàng, cho
phép khám phá một cách khách quan một số đặc điểm tâm lý của một cá
nhân, chính là môn tâm lý học sai biệt (Psychologie Différentielle), ngành
khoa học về các sai biệt giữa cá nhân về hành vi mà phương pháp trắc nghiệm
đã ra đời.
Trắc nghiệm được áp dụng rộng rãi, xong ở trẻ em được chú trọng hơn
cả, bởi vì sự phát triển và trưởng thành ở trẻ em từ lúc sinh ra đến lúc dậy thì
là một quá trình rất quan trọng. Tất cả các tổ chức, cơ quan của cơ thể trẻ em
còn đang phát triển và chưa hoàn thiện. PTTT – VĐ ở mỗi lứa tuổi có khác
nhau, đặc biệt trẻ em trước tuổi đi học (dưới 6 tuổi). Nếu có một yếu tố sai
lệch, một tác nhân gây hại, một sự thiếu hụt bẩm sinh và mắc phải nào đó, sẽ
gây cho trẻ một bệnh tật có thể tàn tật suốt đời. Điều quan tâm nhất ở đây là
chậm phát triển từ nhẹ đến nặng, do đó cần phải phát hiện sớm, để có hướng
điều trị cho trẻ. Vấn đề này được đặt ra không những cho các cán bộ làm công
tác bảo vệ sức khoẻ trẻ em, mà còn liên quan đến nhiều ngành chuyên môn
như: Nhi Khoa - Thần Kinh - Tâm Thần -Tâm Lý - Sư Phạm… [22],[57].


1.7.2.2. Trắc nghiệm Denver
Denver Test là một trắc nghiệm đánh giá sự phát triển của trẻ em, ra đời
đã hơn 30 năm, là phương pháp giúp cho phát hiện các trạng thái chậm phát
triển ở trẻ nhỏ. Đây là công trình nghiên cứu của các tác giả: William
K.Franken burg, Josianb, Doddo và Alma W.Fandal thuộc trường đại học của
trung tâm y học Calorado (Hoa Kỳ) ra đời vào năm 1967. Ngày nay Test
Denver đã được áp dụng rộng rãi nhiều trên thế giới [trích từ 37 và 68].
Test Denver được áp dụng ở Việt Nam do bác sĩ thần kinh Lê Đức Hinh

người được học tập Test này dưới sự hướng dẫn của giáo sư Oa-Quinpascual
Giopert trường đại học La habana–Cu Ba vào những năm 70 của thế kỷ vừa
qua. Về nước Bác sĩ Lê Đức Hinh đã dùng Test Denver để đánh giá và phát
hiện chậm phát triển ở trẻ em bị bệnh thần kinh đến khám tại bệnh viện Bạch
Mai. Từ đó đưa ra phương hướng điều trị. Công trình đầu tiên của ông ấy là:
áp dụng trắc nghiệm tâm lý Denver trên 1036 trẻ em dưới 6 tuổi bị bệnh thần
kinh đến khám và điều trị tại bệnh viện Bạch Mai. Tiếp sau đó Test Denver
được áp dụng tại khoa tâm thần tại viện nhi do bác sĩ Hoàng Cẩm Tú thực
hiện. Đến nay Test được áp dụng thường xuyên tại viện nhi, cho hàng ngàn
trẻ em bị bệnh thần kinh, tâm thần và các bệnh khác đến khám. Như vậy từ
thuở ban đầu Test Denver vào Việt Nam với mục đích y học của nó [12],[21].
Năm 1990 – 1991 Hà Vĩ và cộng sự (Viện nghiên cứu trẻ em trước tuổi đi
học) đã sử dụng Test Denver để đánh giá PTTT – VĐ ở trẻ từ 1 – 72 tháng
với mục đích trên cơ sở đó, để chuẩn hoá Test Denver tại Việt Nam [14].
Năm 1991 – 1995 Hoàng Cẩm Tú – Quách Thị Minh dùng Test Denver để
đánh giá sự phát triển ở trẻ suy dinh dưỡng, chậm phát triển ở trẻ mẫu giáo [21].
Năm 1999 – 2000 Hàn Nguyệt Kim Chi áp dụng Test Denver để đánh giá
sự PTTTVĐ và cân nặng ở trẻ em từ 1 - 72 tháng theo chiều dọc [tích từ 14].
Năm 1996 Hoàng cẩm Tú và Năm 2004 Nguyễn Đức Hùng áp dụng test
Denver II đánh Giá sự PTTTVĐ ở trẻ em dưới 6 tuổi bị động kinh [16],[21].


*Nội dung Test Denver: Test Denver áp dụng cho trẻ dưới 6 tuổi.
•Mục đích
- Đánh giá, phát hiện sớm các trạng thái chậm phát triển ở trẻ nhỏ.
• Phương pháp luận
- Vận dụng các tiêu chuẩn phát triển bình thường ở trẻ nhỏ, sắp xếp các tiêu
chuẩn vào hệ thống chung để tiến hành, nhận định, đánh giá và tiện làm lại
nhiều lần.
• Nội dung: Gồm 105 tiết mục sắp xếp kiểm tra, theo 4 khu vực: Cá nhân - Xã

hội, vận động tinh tế - thích ứng, ngôn ngữ, vận động thô, cụ thể tiết mục như
sau:
+ Khu vực cá nhân xã hội gồm 23 tiết mục cho biết trẻ: khả năng tiếp cận với
mọi người xung quanh, tự chăm sóc cho bản thân, nhìn vật, cười, giữ đồ chơi,
chơi ú oà, biết vẫy tay, bẽn lẽn trước người lạ, biết xúc ăn, mặc quân áo, chơi
với trẻ khác, biết rửa tay và lau tay.
+ Khu vực vận động tinh tế - thích ứng gồm 30 tiết mục biết trẻ: khả năng
nhìn vật, sử dụng bàn tay, ngón tay với đồ vật, bắt chước, chơi đồ chơi, kẻ,
viết, vẽ…
+ Khu vực ngôn ngữ gồm 21 tiết mục biết được trẻ: phản ứng nghe chuông,
phát âm, cười, la, nghe tiếng động, nghe tiếng nói, nói bập bẹ, gọi được bố
mẹ, hiểu được một số lời nói, mệnh lệnh đơn giản, nhận biết được màu sắc,
đồ vật…
+ Khu vực vận động thô sơ có 31 tiết mục nhằm phát hiện xem trẻ: ngẩng
đầu, lẫy, bò, ngồi, chững, đứng vịn, đi, đứng, nhảy, cò lò, ném bóng, đá
bóng…
• Đánh giá kết quả: có bảng mẫu của phiếu kiểm trả ghi cụ thể và xếp sắp các
tiết mục theo lứa tuổi để đánh giá. Kết quả thu được so sánh ngay trên bảng
mẫu của phiếu kiểm tra để đánh giá trẻ: Chậm phát triển hay bình thường,
chậm phát triển ở khu vực nào, chậm phát triển tương ứng với tuổi bao nhiêu.


×