Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TỈNH BÌNH THUẬN THỜI KÌ 2001 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.56 KB, 35 trang )

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH
TẾ TỈNH BÌNH THUẬN THỜI KÌ 2001 2005
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ -XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN:
1. Điều kiện tự nhiên :
a. Vị trí địa lý :
Bình Thuận là tỉnh ven biển cực Nam Trung Bộ, có mối liên hệ chặt chẽ với
vùng Đông Nam Bộ và nằm trong khu vực ảnh hưởng của ĐBTĐNB. Phía Bắc
giáp Lâm Đồng và Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, Tây Nam giáp Bà
Rịa – Vũng Tàu, Đông và Đông Nam giáp biển Đông với đường bờ biển dài 192
km. Ngoài khơi có đảo Phú Quý cách Thành phố Phan Thiết 120 km.
Tỉnh nằm giữa hai thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang,
có quốc lộ I, đường sắt thống nhất chạy qua nối Bình Thuận với các tỉnh phía
Bắc và phía Nam của cả nước; quốc lộ 28 nối liền Thành phố Phan Thiết với
các tỉnh Nam Tây Nguyên; quốc lộ 55 nối liền trung tâm dịch vụ dầu khí và du
lịch Vũng Tàu.
Với vị trí địa lý như trên tạo cho Bình Thuận giao lưu kinh tế chặt chẽ với
các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và vùng Duyên Hải. Sức hút của các thành
phố và trung tâm phát triển như Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nha Trang
tạo điều kiện cho tỉnh đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, tiếp thu nhanh khoa học
kỹ thuật. Đồng thời cũng là một thác thức lớn đặt ra cho tỉnh Bình Thuận phải
phát triển nhanh nền kinh tế nhất là những ngành mũi nhọn theo thế mạnh
đặc thù để mở rộng liên kết, không bị tụt hậu so với khu vực.
b. Địa hình :
Đại bộ phận lãnh thổ là đồi núi thấp, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp. Địa hình
hẹp ngang, kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, phân hoá thành 4 dạng
địa hình sau :
- Đồi cát và cồn cát ven biển chiếm 18,22% diện tích tự nhiên phân bố dọc ven
biển từ Tuy Phong đến Hàm Tân; rộng nhất là ở Bắc Bình ; dài khoảng 52 km,
rộng 20 km. Địa hình chủ yếu là những lượn sóng.
- Đồng bằng phù sa chiếm 9,43% diện tích tự nhiên, gồm : Đồng bằng phù sa ven
biển ở các lưu vực từ sông Lòng Sông đến sông Dinh nhỏ hẹp độ cao từ 0 – 12


m. Đồng bằng thung lũng sông La Ngà, độ cao từ 90 – 120 m.
- Vùng đồi gió chiếm 31,66%, độ cao từ 30 – 50 m kéo dài theo hướng Đông Bắc
Tây Nam từ Tuy Phong đến Đức Linh.
- Vùng núi thấp chiếm 40,7% diện tích. Đây là những dãy núi của khối Trường
Sơn chạy theo hướng Đông Bắc Tây Nam từ phía Bắc huyện Bắc Bình đến
Đông Bắc huyện Đức Linh.
Đặc điểm địa hình trên tạo điều kiện cho tỉnh phát triển kinh tế đa dạng.
c. Khí hậu :
Nằm trong khu vực có vùng khô hạn nhất cả nước, khí hậu nhiệt đới điển
hình, nhiều gió, nhiều nắng không có mùa đông, lượng mưa trung bình 800 –
1.600 mm/năm, thấp hơn trung bình cả nước (1.900 mm/năm).
Đặc điểm trên là điều kiện rất thuận lợi tăng năng suất cây trồng, phát
triển chăn nuôi đại gia súc có sừng nếu được tiếp nước từ bên ngoài; thuận lợi
cho phơi sấy trong sản xuất nông ngư nghiệp và sản xuất muối. Song do lượng
mưa nhỏ, lượng bốc hơi lớn nên vấn đề khô hạn là một trong những hạn chế
lớn của tỉnh. Vì vậy yếu tố thuỷ lợi để giữ nước và cấp nước có vai trò quan
trọng cho phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của cư
dân Bình Thuận.
d. Tài nguyên biển :
Bình Thuận với 192 km bờ biển có 3 cửa Phan Thiết, Lagi, Tuy Phong và
đảo Phú Quý; diện tích vùng lãnh hải 52.000 km
2
, là một trong những vùng
biển giàu nguồn lợi nhất về các loại hải sản; nhiều tiềm năng để phát triển
diêm nghiệp, du lịch và khai thác khoáng sản biển.
Tổng trữ lượng cá 230 nghìn tấn, khả năng khai thác 100 – 120 nghìn
tấn/năm, trong đó 60% cá nổi tập trung ở 3 ngư trường Phan Thiết, Hàm Tân
và đảo Phú Quý; mực 10.000 tấn, sò điệp là đặc sản của Bình Thuận, trữ lượng
50.000 tấn, khả năng khai thác hàng năm 25 – 30 nghìn tấn, tập trung ở 4 bài
chính : Lai Khế, Hòn Rơm, Cù Lao Cau và Phan Rí Cửa.

Vùng ven biển Bình Thuận còn nhiều khả năng nuôi trồng thuỷ sản, diêm
nghiệp và du lịch :
Toàn tỉnh có trên 3.000 ha mặt nước triều có thể đưa vào nuôi tôm, làm
ruộng muối. Trong đó diện tích có khả năng nuôi tôm là 1.500 ha : tập trung
Tuy Phong (575 ha), Bắc Bình (50 ha), Phan Thiết (115 ha), Hàm Thuận Nam
(360 ha), Hàm Tân (340 ha); khả năng diện tích phát triển ruộng muối 2.000
ha tại Tuy Phong, Phan Thiết, Hàm Thuận Nam và Hàm Tân. Ngoài ra còn có
gần 1.000 ha mặt nước hồ, đầm và các công trình thuỷ lợi có khả năng nuôi cá
nước ngọt.
Bình Thuận có các bài biển bờ cát trắng mịn như Vình Thuỷ, Rạng, Mũi Né
(Phan Thiết), Đồi Dương (Hàm Tân), có bãi biển nằm cạnh sườn núi với bờ đá
nhấp nhô như Vĩnh Hảo, Bình Thạnh (Tuy Phong) điều kiện để phát triển du
lịch biển.
e. Tài nguyên đất :
Với diện tích 799.200 ha, Bình Thuận có 10 loại đất với 20 tổ đất khác nhau:
- Đất cát, cồn cát ven biển và đất mặn phân bố dọc bờ biển từ nam Tuy Phong
đến Hàm Tân, diện tích 146,5 nghìn ha (18,3% diện tích toàn tỉnh). Trên các
loại đất này có thể phát triển mô hình nông lâm kết hợp, trồng các băng rừng
phòng hộ – kết hợp trồng cây ăn quản và các loại hoa màu như dưa hạt, đậu
các loại … Trên đất mặn có thể làm muối hoặc nuôi tôm nước lợ.
- Đất phù sa với diện tích 75.400 ha (9,43% diện tích tự nhiên) phân bố ở các
đồng bằng ven biển và vùng thung lũng sông La Ngà. Hầu hết diện tích đất này
đã được khai thác đưa vào trồng lúa nước, hoa màu, cây ăn quả …
- Đất xám có diện tích 151.000 ha (18,9% diện tích toàn tỉnh) phân bố hầu hết
trên địa bàn các huyện. Khả năng sử dụng loại đất này vào nông lâm nghiệp và
mặt bằng công nghiệp còn lớn. Trong đó tới 85% diện tích có thể phát triển cấy
điều, cao su, cây ăn quả và các loại cây có giá trị kinh tế cao.
- Diện tích còn lại chủ yếu là tổ hợp đất đồi núi, đất đỏ vàng, đất nâu vùng bán
khô hạn … Trên các loại đất này có thể sử dụng vào các mục đích nông lâm
nghiệp.

- Trong quá trình khai thác sử dụng các loại đất trên cần đặt biện pháp cải tạo
và bảo vệ như : trồng rừng phòng hộ chống cát bay ven biển, cải tạo xây dựng
đồng ruộng, bảo vệ nghiêm ngặt rừng đầu nguồn. Xây dựng một cơ cấu cây
trồng và chế độ canh tác hợp lý theo không gian nhiều tầng phù hợp với từng
tiểu vùng sinh thái.
Với diện tích đất đai trên, đến năm 1999 đã đưa vào sử dụng nông nghiệp
khoảng 132,7 nghìn ha (16,6% diện tích), sử dụng lâm nghiệp 550,3 nghìn ha
(68,8% diện tích); đất thổ cư chuyên dùng 22,6 nghìn ha (2,8% diện tích). Diện
tích đất trống đồi trọc chưa đưa vào sử dụng 248,8 nghìn ha (30,8% diện tích);
trong đó đất có khả năng mở rộng để phát triển nông nghiệp thời kỳ 1996 –
2010 khoảng 4 vạn ha. Diện tích đất mở rộng này chủ yếu là đất dốc, vì vậy khi
khai hoang phải đầu tư đồng bộ, nhất là giải quyết vấn đề nước và thâm canh
ngay từ đầu để sử dụng đất lâu bền và có hiệu quả.
f. Tài nguyên rừng :
Theo kết quả kiểm kê hiện trạng rừng năm 1998, diện tích đất lâm nghiệp
của tỉnh là 550.327 ha, chiếm 68,85% diện tích tự nhiên. Diện tích đất có rừng
391.815 ha, trữ lượng gỗ 25,6 triệu m
3
gỗ và 25 triệu cây tre nứa. So với vùng
Đông Nam Bộ, Bình Thuận là tỉnh có diện tích rừng và trữ lượng gỗ lớn nhất,
chiếm 45,5% diện tích rừng tự nhiên và 57,3% tổng trữ lượng gỗ tròn vùng
Đông Nam Bộ.
Diện tích rừng tự nhiên hiện có 381.469 ha, phân loại theo trạng thái cho
thấy ở Bình Thuận như sau :
- Kiểu rừng gỗ lá rộng thường xanh và nửa rụng lá 191,3 nghìn ha, trữ lượng gỗ
15,2 triệu m
3
. Kiểu rừng rụng lá 176 nghìn ha trữ lượng gỗ 9,9 triệu m
3
, kiểu

rừng hỗn giao lá kim chiếm ưu thế và kiểu rừng hỗn giao và tre nứa thuần loại
có diện tích 13,9 nghìn ha, trữ lượng 576 nghìn m
3
.
Điều đáng chú ý là quá trình diễn thế theo xu hướng giảm rừng giàu, rừng
trung bình. Hiện nay, rừng giàu còn 42,5 nghìn ha và 5,6 triệu m
3
gỗ, chiếm
11,4% diện tích và 22% trữ lượng gỗ; rừng trung bình có 59,7 nghìn ha, trữ
lượng 7,5 triệu m
3
gỗ, chiếm 16,1% về diện tích và 29,6% trữ lượng; rừng
nghèo 267,7 nghìn ha, trữ lượng 12,2 triệu m
3
gỗ, chiếm 72,5% về diện tích và
48,4% trữ lượng. Gần một nửa diện tích là rừng khộp (176 nghìn ha), trong đó
rừng khộp nghèo và khộp non tái sinh chiếm tới 59,4% diện tích.
Đây là xu thế xấu do quá trình khai thác chưa hợp lý, cần phải thay đổi xu
thế này bằng khai thác rừng hợp lý và đẩy mạnh tu bổ cải tạo rừng tự nhiên và
trồng rừng.
Tổng diện tích đất trống toàn tỉnh 248,8 nghìn ha, trong đó diện tích đất
trống đồi trọc do ngành Lâm Nghiệp quản lý là 158,8 nghìn ha (19,8% diện tích
tự nhiên). Đây là địa bàn để tiến hành trồng rừng nguyên liệu, rừng phòng hộ,
trồng cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi bò, mặt bằng có kết cấu nền tốt để
bố trí công nghiệp (nhất là những khu vực gần đường giao thông); cơ sở mở rộng
phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp, tạo việc làm và thu hút lao động.
g. Tài nguyên nước và thuỷ điện :
Bình Thuận có 7 lưu vực sông chính là : sông Lòng Sông. sông Luỹ, sông Cái
Phan Thiết, sông Cà Ty, Sông Phan, sông Dinh và sông La Ngà. Tổng diện tích
lưu vực 9880 km

2
với chiều dài sông suối 663 km. Nguồn nước mặt hàng năm
của tỉnh khoảng 5,4 tỉ m
3
nước trong đó lượng dòng chảy bên ngoài đưa đến
1,25 tỉ m
3
, riêng sông La Ngà chiếm 2,1 tỉ m
3
. Nguồn nước phân bố mất cân đối
theo không gian và thời gian. Lưu vực sông La Ngà thừa nước thường bị ngập
úng như vùng Tuy Phong, Bắc Bình, ven biển (lưu vực sông Phan, sông Dinh),
thiếu nước trầm trọng, có những nơi như vùng Tuy Phong, Bắc Bình, dấu hiệu
báo động tình trạng hoang mạc hoá đã xuất hiện.
- Nguồn nước ngầm ít, bị nhiễm mặn, phèn; rất ít có khả năng phục vụ nhu cầu
sản xuất, chỉ đáp ứng được phần nhỏ cho sinh hoạt và sản xuất trên một số
vùng nhỏ thuộc Pha Thiết và đồng bằng sông La Ngà.
- Nguồn thuỷ năng khá lớn, tổng trữ năng lý thuyết khoảng 450.000 KW, tập
trung chủ yếu trên sông La Ngà. Riêng 4 bậc thuỷ điện La Ngà với công suất
lắp máy 417.000 KW, sản lượng điện dự kiến khai thác 1,8 tỷ KWh. Khả năng
khai thác nguồn thuỷ năng trên các lưu vực sông Dinh đến sông Lòng Sông rất
nhỏ, chủ yếu là các công trình thuỷ điện nhỏ (15 công trình) với công suất lắp
máy 1.900 KW.
h. Tài nguyên khoáng sản :
Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng sản đa dạng về chủng loại : vàng,
wolfram, chì, kẽm, nước khoáng và các phi khoáng khác. Trong đó, có gía trị
thương mại và công nghiệp là nước khoáng.
- Nước khoáng : có nhiều điểm nước khoáng từ 39 – 42
0
như Vĩnh Hảo (Tuy

Phong), Đa Kai (Đức Linh), Đồng Kho (Tánh Linh), Văn Lâm, Hàm Cường, Tà
Kóu (Hàm Thuận Nam), Phong Điền (Hàm Tân). Riêng 4 điểm Vĩnh Hảo, Văn
Lâm, Hàm Cường và Đa Kai là loại nước khoáng thuộc loại cacbonat – natri
được dùng làm nước giải khát, khả năng khai thác khaỏng 300 triệu lít/năm.
Nước khoáng khu vực Tuy Phong có đủ điều kiện để sản xuất tảo với sản lượng
tương đối lớn.
- Trữ lượng sa khoáng II – menit 1.08 triệu tấn, Zicon 193 nghìn tấn, đi cùng với
Zicon còn có nhiều Monazit và đất hiếm. Hàm lượng TiO 43 – 45%, hàm lượng
ZrO2 48,6 – 59,5%.
Sa khoáng Iimenit – Zicon phân bố ở mũi Kê Gà (Hàm Thuận Nam), Mũi
Né (Phan Thiết), Tân Thiện (Hàm Tân), Thiện ái (Bắc Bình).
Nguồn khoáng sản lớn nhất của Bình Thuận là cát trắng thuỷ tinh với tổng
trữ lượng 496 triệu m
3
cấp P2, hàm lượng SiO2 97 – 99%. Phân bố ở Dinh
Thầy, Tân An, Tân Thắng (Hàm Tân), Cây Táo, Long Thịnh, Hồng Sơn (Hàm
Thuận Nam), Nhơn Thành, Phan Rí và Pha Rí Thành (Bắc Bình). Có thể thoả
mãn yêu cầu sản xuất thuỷ tinh cao cấp và kính dân dụng hoặc xuất khẩu
nguyên liệu.
Khoáng vật liệu xây dựng có cát kết vôi 3,9 triệu m
3
cấp P2 phân bố ở Vĩnh
Hảo và Phước Thể (Tuy Phong), đá vôi san hô (Tuy Phong). Sét gạch ngói phâ
bố ở nhiều nơi (Hàm Thuận Nam, Đức Linh, Tánh Linh, Bắc Bình). Đá xây dựng
và trang trí ở Tà Kóu (Hàm Thuận Nam) trữ lượng 45 triệu m
3
, Núi Nhọn
(Hàm Tân) trữ lượng cấp P là 30 triệu m
3
.

k. Nguồn nhân lực :
Dân số năm 1999 có 1.230 nghìn người, dân số đô thị chiếm 26,4%. Toàn
tỉnh có hơn 30 dân tộc. Dân tộc Kinh 93%, còn lại là các dân tộc Chăm (Bắc
Bình, Tuy Phong), Hoa, Tày, Nùng … Mật độ dân cư 120 người/km
2
, phân bố
không đều giữa các khu vực. Dân cư phân bố chủ yếu theo các đồng bằng ven
sông, ven biển, thuộc các lưu vực sông Phan Thiết, sông Luỹ và sông Lòng Sông.
Khu vực Bắc Bình - Tuy Phong dân cư tập trung chủ yếu ở đồng bằng ven biển
(riêng 2 thị trấn Phan Rí Cửa và Liên Hương tập trung tới 40% dân số của
huyện Tuy Phong).
Đến năm 1999, tổng nguồn lao động của tỉnh có 549,3 nghìn người, chiếm
47,09% dân số. Lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân : 489,3 nghìn
người. Số lao động chưa có việc làm là 60 nghìn người.
Lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật có 23.170 người, trong đó công nhân
kỹ thuật 9.310 người, trung học chuyên nghiệp 9.960 người, cao đẳng đại học
3.900 người. Những ngành cần nhiều cán bộ khoa học kỹ thuật như khai thác,
chế biến hải sản, nông nghiệp, thuỷ lợi và y tế thì thiếu, chất lượng nguồn lao
động làm việc trong nông nghiệp ngư nghiệp chủ yếu vẫn là lao động cơ bắp.
Hàng năm tỉnh có khoảng 18 – 20 nghìn thanh niên đến tuổi bổ sung vào
tổng lao động toàn tỉnh. Đây là một nguồn lực quan trọng, đồng thời cũng là
một thách thức đối với sự phát triển.
Nguồn lao động của tỉnh cần được đào tạo và đào tạo lại để thích nghi
với cơ chế thị trường nhằm đáp ứng được yều cầu phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh.
2. Tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2000 – 2004 :
Sự chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang
kinh tế thị trường được thực hiện từ năm 1986. Thời kỳ 1986 – 1990 là thời kỳ
đan xen giữa hai cơ chế, nền kinh tế của Thuận Hải cũ nói chung và phần lãnh
thổ Bình Thuận nói riêng đang trong quá trình tìm tòi, tiếp cận. Từ năm 2001 –

2004, nền kinh tế Bình Thuận đã đi vào ổn định và có tăng trưởng, tường bước
hoà nhập với xu thế phát triển của cả nước.
2.1. Tăng trưởng kinh tế :
Trong 5 năm 2000 – 2004 nền kinh tế liên tục đạt được nhịp độ tăng
trưởng cao, tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) tăng bình quân 11,33%. GDP năm
2004 tăng gấp 1,3 lần năm 2000, bình quân đầu người tăng từ 263 USD năm
2000 lên 365 USD năm 2004. Trong đó sự tăng trưởng :
- Ngành nông lâm thuỷ sản đạt mức tăng trưởng bình quân 7,12%. Trong
đó : nông lâm nghiệp tăng 6,4%, thuỷ sản tăng bình quân 10,5%.
- Ngành công nghiệp – xây dựng từng bước xác định được hướng tập
trung ưu tiên phát triển đạt được những kết quả khá. Nhịp độ tăng trưởng
bình quân 29,4%, trong đó : công nghiệp tăng 20,1%, xây dựng tăng 60,5%.
- Khu vực dịch vụ đạt nhịp độ tăng bình quân 16,6%, chủ yếu tăng trưởng
cao ở các ngành vận tải, thông tin liên lạc (28,2%); tài chính tín dụng (15,9%),
thương nghiệp (16,2%). Hoạt động khách sạn, nhà hàng tốc độ tăng trưởng
(12,0%). Các hoạt động dịch vụ phi kinh tế tăng bình quân 14,4%.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế :
Trong 5 năm 2000 – 2004 có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, giảm dần
tỷ trọng nông lâm nghiệp và tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ.
- Tỷ trọng ngành nông lâm thuỷ sản trong cơ cấu GDP của tỉnh giảm
xuống rất nhanh từ 46,38% năm 2000 xuống còn 39,73% năm 2004. Trong đó :
ngành nông nghiệp từ 66,18% năm 2000 xuống còn 60,74% năm 2004; ngành
thuỷ sản từ 31,64% lên 37,38%; ngành lâm nghiệp từ 2,18% năm 2000 giảm
xuống còn 1,88% năm 2005.
- Ngành công nghiệp – xây dựng có sự dịch chuyển khá từ 22,15% năm
2000 lên 25,65% năm 2004. Riêng ngành công nghiệp tỷ trọng từ 10,1% tăng
lên 15,7%; ngành xây dựng từ 11,3% tăng lên 19,08% năm 2004.
3. Ảnh hưởng của bối cảnh quốc tế, trong nước và thị trường tới quá
trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận :
3.1. Bối cảnh quốc tế và thị trường nước ngoài :

a. Tác động do tiến bộ khoa học công nghệ :
Cuộc cánh mạng khoa học – công nghệ với làn sóng đổi mới công nghệ
nhanh chóng đã và đang tác động cơ bản trên tất cả các mặt của xã hội về kinh
tế, văn hoá, chính trị và khuynh hướng phát triển quốc tế hoá. Trong điều kiện
đó để hội nhập và cạnh tranh quốc tế yêu cầu phải : nhanh chóng tiếp thu đổi
mới công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả nền kinh tế, thu hẹp
khoảng cách tụt hậu với các tỉnh trong khu vực. Với tỉnh Bình Thuận, kết hợp
với các yếu tố đó gắn với thế mạnh về nguồn nhân lực dồi dào và sử dụng tối
đa sẽ là nguồn lực và động lực cơ bản của công cuộc công nghiệp hoá - hiện
đại hoá trong thời gian tới.
Trong bối cảnh đó, phải có chính sách và cách ứng xử thích hợp để tận dụng
những thuận lợi, khai thác các nguồn lực có hiệu quả, không rơi vào tình trạng
thụ động bị chèn ép hoặc hứng chịu những hậu quả xấu về cơ cấu kinh tế lạc
hậu, môi trường sinh thái suy giảm.
b. Tác động của vấn đề hội nhập kinh tế khu vực và thế giới :
Trong 10 năm tới bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi. Nền kinh tế thế giới sẽ
có bước phát triển mạnh mẽ theo xu hướng toàn cầu hoá vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh đan xen phức tạp, trên cơ sở cách mạng khoa học công nghệ trong
giai đoạn mới mà chủ yếu là cách mạng tin học, sinh học, vật liệu mới, năng
lượng mới, hình thành các cực và trung tâm phát triển có vai trò chi phối nền
kinh tế thế giới và khu vực.
Trong bối cảnh đó, nước ta gia nhập WTO sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt
giữa hàng hoá các nước. Vấn đề đặt ra là yêu cầu đổi mới thiết bị công nghệ,
hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phâm để tạo được thế mạnh
cho sản phẩm của mình, đây là vấn đề mang tính sống còn của sản phẩm.
c. Khả năng thu hút đầu tư nước ngoài :
- Nguồn vốn FDI : ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực tuy
đã qua được một thời gian nhưng hậu quả của nó vẫn chưa được khắ phục
hoàn toàn, cùng với môi trường đầu tư trong nước còn nhiều hạn chế, cộng với
phần lớn nguồn cung cấp FDI vào Việt Nam là từ các nước Châu á nền lượng

FDI vào Việt Nam trong thời gian qua không cao. Trong thời gian tới, dự báo
khả năng thu hút FDI sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn hơn nữa. Một mặt
theo dự báo đánh giá sự vận động của nguồn vốn FDI trên thế giới vào khu vực
Đông Nam á theo chiều hướng giảm sút, một mặt sau khủng hoảng môi
trường đầu tư trong các nước vẫn chưa được cải thiện đáng kể.
Trong tình hình trên với yêu cầu phát triển, sự cạnh tranh thu hút vốn đầu
tư FDI giữa các tỉnh trong nước sẽ diễn ra rất quyết liệt. Yêu cầu đặt ra là cải
thiện môi trường đầu tư thật thông thoáng, bao gồm đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng và ban hành các chính sách khuyến khích để cạnh tranh thu hút đầu tư
phát triển.
- Thu hút nguồn vốn ODA : trong các năm qua Việt Nam đã thu hút được
nguồn vốn ODA tài trợ khá cao, tuy nhiên theo đánh giá của các nhà tài trợ thì
mức giải ngân của Việt Nam còn chậm. Theo đánh giá của các nhà tài trợ, Việt
Nam là một nước đang tiến hành cải cách, có chính sách đúng đắn và bước đầu
đã cải cách thành công, hơn nữa Việt Nam vẫn còn nằm trong danh sách các
nước có thu nhập thấp, được ưu tiên trong việc nhận viện trợ.
Trên tình hình đó cần có sự chuẩn bị thật tốt các chương trình phát triển,
các dự án để tranh thủ tối đa các nguồn vốn ODA đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế – xã hội và xoá đói giảm nghèo. Trên cơ sở dự báo thị trường quốc
té và khả năng thu hút vốn đầu tư vào các lĩnh vực có liên quan, Bình Thuận
với lợi thế của mình từng bước phát triển hoà nhập vào kinh tế của địa bàn
kinh tế trọng điểm phía Nam và có thể có những mặt hàng xâm nhập vào thị
trường quốc tế Như : thuỷ hải sản (cá, mực, tôm), muối, nước mắm, điều, mủ
cao su, rau quả…
3.2. Bối cảnh và thị trường trong nước :
a. Bối cảnh trong nước :
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước với sự ổn định chính trị và
thành công bước đầu trong cải cách kinh tế đã được quốc tế công nhận. Nhà
nước đang từng bước tạo ra môi trường thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài.

Dự báo nhịp độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001 – 2005 từ 7,2 –
8,2%, thời kỳ 2006 – 2010 từ 7,2 – 7,8%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng trong GDP
năm 2005 là 35%, dịch vụ là 45%. Đến năm 2010 : công nghiệp – xây dựng là
40%, dịch vụ là 45%. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi cơ cấu lãnh thổ quốc gia
cũng sẽ có những biến đổi; mỗi vùng, mỗi tỉnh sẽ có những tăng trưởng cao dựa
trên cơ sở phát triển những ngành mũi nhọn, những vùng trọng điểm.
Đông Nam Bộ là vùng kinh tế phát triển sôi động, có nhịp độ tăng trưởng
cao. Trong bối cảnh đó, hoà nhập vào nhịp độ phát triển của Đông Nam Bộ,
nhất là địa bàn trọng điểm Nam Bộ, Bình Thuận với thế mạnh của mình cần
thiết và có khả năng phát triển, bắt nhịp với nhịp độ chung của vùng để tránh
tụt hậu quá xa so với các tỉnh trong vùng và cả nước.
b. Thị trường trong nước :
Trong cơ chế thị trường, theo quy luật cạnh tranh bất cứ đối tượng nào
cũng có thể cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. Trong tương lai, nền kinh tế
Bình Thuận đi theo hướng ngoại, song vẫn phải dựa chủ yếu vào thị trường
trong nước là chính.
Thị trường Việt Nam với 86 triệu dân năm 2005 và 95 triệu dân năm 2010
với đời sống ngày càng tăng, sức mua tăng 3,5 – 4 lần vào năm 2010, nhu cầu
ngày càng đa dạng. Trên cơ sở dự báo đó, nền kinh tế Bình Thuận phát triển sẽ
có những sản phẩm và lĩnh vực có điều kiện phát triển, đủ sức cạnh trạnh
chiếm lĩnh thị trường nông thôn của tỉnh, thị trường các địa phương lân cận.
Đồng thời phát triển mạng lưới dịch vụ xuất nhập khẩu của tỉnh ở các nơi
khác, trong đó có các thành phố lớn, tạo thế vươn ra thị trường các vùng khác.
Bình Thuận còn khả năng sản xuất những mặt hàng tham gia trao đổi với các
tỉnh là : các sản phẩm của công nghiệp chế biến nông – lâm sản, sản phẩm
hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm, vật liệu xây dựng … Những hoạt động
dịch vụ có thể sẽ đáp ứng được nhu cầu trong tỉnh và trong nước là dịch vụ
xuất nhập khẩu, dịch vụ sữa chữa, dịch vụ vận tải biển, dịch vụ du lịch tham
quan di tích lịch sử văn hoá, du lịch biển …

4. Những thuận lợi và hạn chế :
4.1. Thuận lợi :
- Nằm trong địa bàn trọng điểm Nam Bộ, gần Thành phố Hồ Chí Minh – có
sức hút lớn về kinh tế. Vị trí này có ảnh hưởng lớn đến Bình Thuận trong quá
trình phân bố lại sản xuất và phân công lao động; đã và sẽ hội nhập vào thị
trường khu vực thông qua các dòng trao đổi như : tiếp thu nhanh văn hoá,
khoa học kỹ thuật, được hỗ trợ về hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp. Đồng
thời, Bình Thuận có thể cung cấp cho địa bàn trọng điểm Nam Bộ và Thành
phố Hồ Chí Minh các mặt hàng nguyên liệu nông lâm sản, các mặt hàng hải
sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu rừng và biển.
- Biển Bình Thuận giàu nguồn lợi, nguồn nguyên liệu nông nghiệp và lâm
nghiệp phong phú, thế mạnh về khoáng sản và sa khoáng ven biển. Đây là lợi
thế cho phát triển công nghiệp chế biến hải sản, chế biến thực phẩm và công
nghiệp khai khoáng, sớm tạo ra khối lượng sản phẩm xuất khẩu lớn.
- Đã hình thành hệ thống đô thị, bao gồm Thành phố Phan Thiết và các thị
trấn huyện, các cụm công nghiệp và khai thác chế biến hải sản ở Phan Thiết,
Hàm Tân, Tuy Phong … cư dân có kinh nghiệm tay nghề khai thác và chế biến
hải sản, công nghiệp và dịch vụ hướng biển.
4.2. Hạn chế và thách thức :
- Hệ thống kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội : giao thông, điện, cấp thoát
nước, mạng lưới y tế, giáo dục và văn hoá bước đầu được quan tâm song so
với yêu cầu phát triển còn quá yếu kém, xuống cấp; Yếu tố này đã hạn chế sự
khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh, chưa tạo được sự hấp dẫn đối với các
nguồn lực đầu tư bên ngoài.
- Nằm bên cạnh Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu,
Bình Dương và Thành phố Nha Trang là những trung tâm phát triển kinh tế
lớn và năng động, có vị trí địa lý, kinh tế – cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng –
nguồn lao động kỹ thuật ưu thế hơn, có chính sách linh hoạt hơn. Do đó, quá
trình cạnh tranh về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về thu hút đầu tư phát triển
sẽ diễn ra gay gắt và quyết liệt - đó là thách thức và hạn chế lớn đối với Bình

Thuận cần phải vượt qua.
- Tài chính tiền tệ còn mất cân đối và thiếu hụt. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh
tế mới chỉ giải quyết mức tối thiểu nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát
triển chủ yếu phụ thuộc vào TW – thu hút đầu tư trong và ngoài nước còn
nhiều vấn đề cần tháo gỡ.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định, trình độ công nghệ lạc
hậu, khối lượng sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao còn quá ít, sức cạnh
tranh yếu nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực trong một vài
năm nữa.
- Dân số còn tăng nhanh, lao động chưa có việc làm còn nhiều, lực lượng
lao động bổ sung hàng năm ở nông thôn chủ yếu tham gia vào nông nghiệp. ở
thành phố, thị trấn thì thiếu việc làm.
- Nguồn nhân lực tại chỗ là một yếu tố quyết định cho tiến trình phát triển
trước mắt cũng như lâu dài đang bị hẫng hụt và mất cân đối về số lượng và
chất lượng, sức khỏ và trình độ, thế hệ hiện tại và thế hệ kế tiếp. Trình độ
chuyên môn, kỹ thuật, trình độ quản lý còn yếu kém.
- Trình độ dân trí, đời sống của cư dân nông nghiệp, miền núi, ngư nghiệp
còn thấp và gặp nhiều khó khăn.
II. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ TỈNH BÌNH
THUẬN THỜI KÌ 2001-2005 :
1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuạn hời
kỳ 2001 – 2005 :
Bước đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã
được khẳng định bằng những thành tựu kinh tế trong những năm gần đây,
đặc biệt là nền kinh tế luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Hoà mình cùng
với sự phát triển chung của cả nước, Bình Thuận cũng đạt được những kết quả
đáng khích lệ. Cơ cấu kinh tế của Tỉnh có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực
và thể hiện rõ nhất ở cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu kinh tế được chia theo 3
nhóm ngành lớn là: Nông nghiệp (bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp); Công nghiệp (bao gồm cả công nghiệp và xây dựng) và Dịch vụ (bao

gồm các ngành kinh tế còn lại). Trong những năm đổi mới, cơ cấu ngành kinh
tế của Tỉnh Bình Thuận đã chuyển dịch theo chiều hướng : Thực hiện nhanh
việc chuyển dịch cơ cấu từ Nông ngư lâm – Công nghiệp – Dịch vụ sang cơ cấu
Công nghiệp – Dịch vụ – Nông lâm ngư nghiệp với tỷ trọng công nghiệp chiếm
ngày càng cao trong nền kinh tế làm điều kiện cho kinh tế phát triển ổn định,
vững chắc, đồng thời chú trọng phát triển mạnh ngành dịch vụ, nhất là du lịch,
thông tin liên lạc để nâng cao tích luỹ tạo điều kiện về thông tin, thị trường,
vốn, công nghệ cho các ngành kinh tế khác phát triển. Tuy mục tiêu là giảm tỷ
trọng nông lâm ngư trong GDP toàn tỉnh nhưng vẫn tăng sản lượng lương
thực, đảm bảo an ninh lương thực cho tỉnh. Bảng số liệu dưới đây thể hiện sự
chuyển biến tích cực trong cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận trong thời
gian gần đây :
Bảng 2 : Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành
Đơn vị tính: %
Năm Nông lâm ngư Công nghiệp Dịch vụ
2000 41,96 22,61 35,43
2001 40,17 23,38 36,46
2002 39,50 24,25 36,25
2003 36,49 25,84 37,66
2004 34,19 27,78 38,03
KH 2005 32,35 28,59 39,05
Nguồn : Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận.
Dựa vào nguồn số liệu trên bảng trên có thể thấy cơ cấu kinh tế tỉnh
Bình Thuận đã có sự thay đổi rõ rệt, tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP toàn
tỉnh thay đổi đúng theo định hướng đã đề ra. Tỷ trọng ngành nông lâm ngư
giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần qua các năm. Tốc
độ tăng trưởng giữa các ngành có sự khác nhau, cao nhất vẫn thuộc về ngành
công nghiệp, tiếp theo là ngành dịch vụ và thấp nhất là ngành nông lâm ngư.
Điều đó cho thấy chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đang đi đúng
hướng và cần có những kế hoạch trong thời gian tới để đạt được hiệu quả cao

hơn nữa, hoàn thành những mục tiêu đề ra tạo tiền đề phát triển kinh tế trong
những năm tới. Tuy xuất phát điểm của Bình Thuận còn thấp so với các địa
phương khác nhưng với kết quả ban đầu sẽ tạo điều kiện cho tỉnh phát triển về
sau và theo kịp sự phát triển của các địa phương trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và của cả nước. Đạt được thành tựu cơ bản trên là nhờ vào
đường lối chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, cùng với
sự vận dụng sáng tạo của tỉnh đã phát huy được lợi thế so sánh của mình cũng
như khai thác triệt để thế mạnh của địa phương, tạo nên những thành công bước
đầu.
1.1. Nông lâm ngư nghiệp :

×