Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.11 KB, 48 trang )

Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh
doanh của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam
Hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường vô cùng khó
khăn. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng đã biết vận dụng công nghệ quản lý ngân
hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của mình một cách có hiệu quả để tồn
tại và phát triển. chương 3 này,bài viết đi sâu tìm hiểu những thành quả đạt
được cũng như những mặt tồn tại trong quản lý hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. Đồng thời,căn cứ vào nội dung của công
nghệ quản lý ngân hàng hiện đại đã được trình bày ở chương 2, bài viết đề
xuất các giải pháp thích hợp nhằm đưa hoạt động quản lý của Ngân hàng
nông nghiệp Việt nam thích ứng với thực tế và phù hợp với yêu cầu của công
nghệ quản lý mới.
3.1. ĐÔI NÉT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM.
3.1.1. Giai đoạn 1991 - 1993.[40,5-45],[58,96-125]
Theo tinh thần Nghị định 53/ HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành
ngày 26/3/1991 về đổi mới tổ chức hoạt động của ngân hàng, ngày
01/8/1991 Ngân hàng Nhà nước quyết định tách bộ phận trực tiếp kinh doanh
của mình thành các ngân hàng thương mại quốc doanh trong đó có Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước giữ lại Ngân hàng Thái bình và
Gia lai - Công tum hoạt động trực thuộc Ngân hàng Nhà nước). Khi đó Ngân
hàng nông nghiệp Việt Nam được hình thành ở Trung ương với hạt nhân lấy
từ Vụ tín dụng nông nghiệp của Ngân hàng Nhà nước trung ương cũ. Tiếp
nhận các ngân hàng cơ sở của ngân hàng nhà nước hoạt động ở khu vực nông
thôn là chủ yếu với 47 chi nhánh tỉnh, thành phố. Gần 400 chi nhánh ngân
hàng cấp huyện,thị xã,156 phòng giao dịch và cửa hàng kinh doanh vàng bạc,
với 36.000 cán bộ, nhân viên.
Khi bàn giao từ Ngân hàng Nhà nước sang, Ngân hàng nông nghiệp
quản lý số vốn 1.046 tỷ đồng, trong đó vốn vay Ngân hàng Nhà nước 353 tỷ
đồng, vốn huy động 482 tỷ đồng. Tổng dư nợ 700 tỷ đồng,với cơ cấu đầu tư
chủ yếu tập trung cho vay vốn lưu động,chỉ có 42 tỷ đồng đầu tư cho đối tượng
trung dài hạn (chiếm 6% tổng dư nợ). Việc đầu tư tập trung vào thành phần


kinh tế quốc doanh chiếm trên 90% tổng số vốn đầu tư của ngân hàng.
Ngân hàng nông nghiệp Việt nam thời kỳ này tuy hình thành với toàn
bộ cơ cấu tổ chức từ Trung ương đến cơ sở với địa bàn rộng khắp trải rộng cả
nước, nhưng cơ chế vận hành lại chủ yếu theo mệnh lệnh hành chính. Các
qui chế hoạt động theo cơ chế thị trường chưa có hoặc có nhưng không
hoạt động đúng theo yêu cầu. Các ngân hàng cơ sở liên hệ với ngân hàng
trung ương qua mạng lưới bưu điện. Một nhiệm vụ đặc biệt cần thiết trong
hoạt động ngân hàng đó là việc điều hòa vốn giữa các ngân hàng cơ sở với
Ngân hàng trung ương được tiến hành "nhanh nhất" là chuyển tiền bằng "liên
hàng" cầm tay. Bảng cân đối của ngân hàng cơ sở phải vài tháng sau Ngân
hàng nông nghiệp trung ương mới tập trung được. Công cụ hoạt động chính
của ngân hàng là lãi suất lại lệ thuộc hoàn toàn vào quyết định của Hội
đồng bộ trưởng hoặc Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Tuy mới hình thành, còn thiếu hầu như tất cả nhưng Ngân hàng nông
nghiệp Việt Nam vẫn đứng vững và phát triển. Ngân hàng nông nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn này từng bước soát xét lại tổ chức, thay đổi phương thức
kinh doanh, thay đổi nhận thức cho cán bộ, thay đổi cơ cấu nguồn vốn và sử
dụng vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư cho các thành phần kinh tế. Đến cuối giai
đoạn này, Ngân hàng nông nghiệp Việt nam thực sự tồn tại để tạo tiền đề cho
các bước phát triển tiếp theo. Giai đoạn này được xem như giai đoạn tập sự
cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Đứng trước một nhiệm vụ to lớn, một nền tảng chưa vững chắc, một
hệ thống tổ chức chắp vá chưa đồng bộ, một đội ngũ cán bộ nhiều nhưng chưa
tinh,Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đã làm được nhiều hơn điều mong ước
đó là đứng vững được trước những khó khăn tưởng chừng như khó vượt qua.
Để làm được điều đó, một trong những nguyên nhân chính là ngân hàng đã xác
định được nhiệm vụ, nội dung và hướng đi của mình.
3.1.2. Giai đoạn 1994 - 1998.[16,5-8],[22],[56]
Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam ra đời từ năm 1991 nhưng chưa
hoàn chỉnh cả về nội dung và hình thức hoạt động, chưa thực sự có đầy đủ cơ

sở pháp lý trong hoạt động kinh doanh của mình. Phải đến 14/11/1993 Ngân
hàng nông nghiệp Việt Nam mới chính thức có quyết định thành lập (số 400 -
CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng) và phải đến ngày 11/11/1995 Ngân hàng
nông nghiệp Việt Nam mới có Điều lệ hoạt động của mình. Căn cứ vào quyết
định thành lập và Điều lệ hoạt động, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam được
xác định là một pháp nhân (bao gồm hội sở, các chi nhánh và văn phòng đại
diện), hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân
hàng đối với tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong và
ngoài nước. Thực hiện tín dụng tài trợ chủ yếu cho nông nghiệp và nông thôn.
Được Nhà nước cấp lần đầu 200 tỷ đồng vốn điều lệ (tương đương 30 triệu
USD), tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, ngân hàng
có tên chính thức là Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng
Nông nghiệp). Tên giao dịch quốc tế là Viet nam Bank for Agriculture (viết tắt
là VBA). Ngân hàng Nông nghiệp nhận bàn giao từ ngân hàng cũ với 53 chi
nhánh tỉnh, thành phố,447 chi nhánh ngân hàng huyện, thị xã, 193 phòng giao
dịch, 78 của hàng kinh doanh vàng bạc với gần 32.000 cán bộ, nhân viên. Khi
bàn giao Ngân hàng nông nghiệp quản lý số vốn 4.200 tỷ đồng trong đó vay
Ngân hàng Nhà nước: 2068 tỷ đồng và được Ngân hàng Nhà nước khấu trừ
vào các khoản nợ đọng, các khoản lỗ 1000 tỷ đồng, Ngân hàng nông nghiệp chỉ
phải trả lãi tiền vay Ngân hàng Nhà nước số vốn vay 1068 tỷ đồng. Vốn huy
động: 1.500 tỷ đồng. Với cơ cấu đầu tư chủ yếu cho vốn lưu động chiếm 93%
tổng số vốn tín dụng đầu tư. Quốc doanh chiếm 80% vốn đầu tư.
Giai đoạn này, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thực hiện phương
châm: "Đi vay để cho vay" tập trung việc huy động vốn trong dân cư để cho vay
phát triển nền kinh tế. Đến cuối năm 1993, vốn huy động mới được 1079 tỷ
đồng, nhưng chỉ 5 năm sau số vốn huy động đã tăng hơn 10 lần và số dư nợ
cho vay cũng tăng lên tương ứng. Đặc biệt thực hiện đường lối đổi mới trong
kinh tế: không phân biệt giữa các thành phần kinh tế, Ngân hàng Nông nghiệp
từng bước đổi mới cơ cấu vốn đầu tư, nếu cuối năm 1994 vốn đầu tư cho các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh của ngân hàng nông nghiệp chỉ


20%
đến năm 1998 con số này đã là

55%. Ngân hàng không còn bắt buộc phải
cho các xí nghiệp quốc doanh vay bằng mọi giá như trước đây nữa mà chỉ đầu
tư cho các xí nghiệp quốc doanh đã được tổ chức, sắp xếp lại (lưu ý các xí
nghiệp đó có thể vẫn chưa hội đủ các yêu cầu của điều kiện thực hiện tín
dụng). Về tổ chức nội bộ được Ngân hàng Nông nghiệp kiện toàn lại một bước,
sắp xếp lại lao động, tinh giảm biên chế. Đến cuối năm 1998, số lao động chỉ
còn 22.000 cán bộ. Hướng tổ chức bộ máy hoạt động là giảm bớt trung gian,
cầu cấp. Từng bước hiện đại hóa ngân hàng. Với kết quả đạt được trong kinh
doanh của Ngân hàng Nông nghiệp luôn có lãi, năm sau cao hơn năm trước.
Tuy đạt nhiều kết quả trong giai đoạn này, nhưng Ngân hàng Nông
nghiệp Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm cần tiếp tục khắc phục, sửa đổi
trong giai đoạn tiếp theo. Nếu có thể đánh giá tổng quan hoạt động của Ngân
hàng Nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn này là sự vươn lên mạnh mẽ để
khẳng định sự tồn tại cần thiết khách quan của mình đối với sự nghiệp phát
triển nền kinh tế đất nước.
3.1.3. Giai đoạn 1999 đến nay.[17,5-8],[58]
Do yêu cầu của sự nghiệp phát triển nền kinh tế đất nước và khả năng
thực hiện nhiệm vụ của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Nhà nước thấy cần
phải giao thêm cho Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam những chức năng mới
đó chính là cơ sở cho việc Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam được xác định lại
cả tên gọi và chức năng theo Quyết định số 280/ QĐ - NH 5 ngày 15/10/1999
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo quyết địnhh này Ngân hàng Nông
nghiệp Việt Nam được đổi tên thành: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng Nông nghiệp). Tên giao dịch quốc tế
bằng tiến Anh là: Vietnam BanK for Agriculture and Rural Development, gọi tắt
là Agri Bank, viết tắt là: VBARD.

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động
theo Điều lệ ban hành theo quyết định số 39/ 2000/ QĐ - NHNN 5 ngày
22/11/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo Điều lệ
này,Ngân hàng Nông nghiệp là một doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt,
hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng, đầu tư phát
triển nông thôn và các dịch vụ liên quan đến hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân
hàng. Được phép hoạt động cả trong nước và nước ngoài. Có nhiệm vụ thực
hiện tín dụng tài trợ vì mục tiêu kinh tế xã hội, phát triển cơ sở hạ tầng chủ yếu
cho nông nghiệp và nông thôn.
Được giao nhiệm vụ mới và xác định được vai trò của mình,trong một
thời gian ngắn Ngân hàng nông nghiệp đã phát triển với tốc độ nhanh chóng.
Đến cuối năm 2000 tổng dư nợ đã đạt 22.500 tỷ đồng (gấp 1,7 lần năm 1998).
Phục vụ tốt việc cung cấp vốn cho nông thôn. Đặc biệt khả năng đầu tư phát
triển cũng đạt kết quả khả quan, vốn đầu tư trung dài hạn chiếm tới trên 28%
tổng dư nợ (năm 1993 chỉ 7%,năm1998 là 24%). Thực hiện đầu tư tập trung
cho nhiều dự án, kể cả các dự án đầu tư phát triển kinh tế hạ tầng của nông
thôn.
Hoàn thiện dần bộ máy điều hành theo hướng tập trung, gọn nhẹ. Từng
bước đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Tích cực chuẩn bị và phát triển kỹ
thuật mới cho hoạt động của ngân hàng.
Nhìn lại lịch sử ra đời và phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam trong 10 năm qua, với thời gian chưa phải là nhiều nhưng Ngân hàng
Nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng. Sự tồn tại và phát
triển của nó thực sự vững chắc. Theo đánh giá của công nghệ quản lý ngân
hàng hiện đại thì sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp đã làm
được nhiều điều phù hợp với nội dung của công nghệ quản lý mới. Tuy nhiên,
muốn cho hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam được phát triển
hơn, vững chắc hơn, ổn định hơn,cần nghiên cứu hoạt động của Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua trên cơ sở căn cứ vào nội dung của
công nghệ quản lý mới, để từ đó thấy được vai trò đích thực của công cụ quản

lý này trong thực tiễn. Làm cho mọi quyết định của lãnh đạo đều có căn cứ phù
hợp với thực tế và khả năng thành công của quyết định đó.
3.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM.
Dưới đây, bài viết tập trung phân tích các hoạt động quản lý của Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (viết gọn là Ngân hàng
nông nghiệp) theo các nội dung cơ bản của công nghệ quản lý ngân hàng hiện
đại (viết gọn là công nghệ quản lý) từ đó đánh giá sự phù hợp và khả năng vận
dụng sáng tạo chúng trong hoạt động thực tiễn.
3.3. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ
QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
[22],[40],[58]
Do yêu cầu của bài viết với kết cấu nội dung cần phân tích, trong phần
này, bài viết căn cứ vào nội dung của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại để
phân tích những việc Ngân hàng nông nghiệp đã làm phù hợp hay chưa phù
hợp với nội dung của công nghệ quản lý. Đồng thời,đưa ra các giải pháp thích
hợp để đưa hoạt động quản lý của Ngân hàng nông nghiệp phù hợp với yêu
cầu của công nghệ quản lý mới.
3.3.1.NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUẢN LÝ HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP THỜI GIAN QUA.
3.3.1.1. Về quản lý hoạt động nghiên cứu thị trường.
Thứ nhất : Ngân hàng nông nghiệp đã quan tâm xây dựng hệ thống
thống kê, kế toán.
Ngân hàng Nông nghiệp ngay từ khi mới thành lập đã quan tâm đến
việc tập trung xây dựng được hệ thống thống kê, kế toán từ ngân hàng cơ sở
đến trung tâm điều hành. Hệ thống này theo dõi chặt chẽ mọi lĩnh vực liên
quan đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp. Có thể lấy bất cứ
thông tin nào về các yếu tố kinh doanh của ngân hàng khi cần thiết dù trong
phạm vi toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp hay ở từng ngân hàng cơ sở.

Đã bước đầu coi trọng việc phân tích hoạt động kinh doanh để từ đó có những
kết luận chung nhất cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp.
Tuy nhiên, việc làn đó mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát chưa đi sâu phân
tích do đó các kết luận mới chỉ lại ở dạng số lớn chưa thực sự cho ngân hàng
những kết luận một cách khoa học, khách quan và độ tin cậy chưa cao.
Thứ hai : Ngân hàng Nông nghiệp tổ chức việc thu thập thông tin
từ thị trường khá tốt bằng việc tập trung báo cáo từ cơ sở theo từng tuần kỳ
định trước (báo cáo 10 ngày, 15 ngày, báo cáo tháng...). Những vấn đề nổi lên
liên quan đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp đều được các
ngân hàng cơ sở nắm bắt và báo cáo lên cấp trên để có biện pháp xử lý kịp
thời. Các phương tiện dùng để báo cáo cũng đã có sự linh hoạt theo yêu cầu
của công việc không nhất thiết phải báo cáo bằng văn bản để đảm bảo tính
thời sự của thông tin.Việc khai thác thông tin đã sử dụng nhiều biện pháp khác
nhau như tổ chức hòm thư góp ý tại tất cả các trụ sở giao dịch,thu thập từ
sách báo...
Việc tiếp dân cũng được các đồng chí lãnh đạo quan tâm và có lịch tiếp
dân cụ thể để nghe khách hàng truyền đạt nguyện vọng và xử lý kịp thời các
vướng mắc với khách hàng.
Thứ ba : Ngân hàng Nông nghiệp đã xác định được thị phần chủ
yếu cho hoạt động của mình.
Ngay từ khi mới thành lập Ngân hàng Nông nghiệp đã tìm được thị
phần đối với đối tượng khách hàng riêng có của mình đó là địa bàn thị trường
nông nghiệp và nông thôn. Khách hàng chính là các hộ nông dân hiện đang
chiếm bộ phận lớn cả về số lượng cũng như tỷ trọng vốn đầu tư tín dụng của
Ngân hàng Nông nghiệp. Đây thực sự là một nguyên nhân chính, nguyên nhân
cốt lõi cho mọi thành công của Ngân hàng Nông nghiệp trong thời gian qua.
Do xác định rõ được địa bàn, đối tượng phục vụ,cho nên trong mọi lĩnh vực
hoạt động Ngân hàng Nông nghiệp đều cố gắng vận động để phục vụ tốt được
thị phần mà mình đã lựa chọn. Từ việc tăng cường huy động vốn, kiện toàn bộ
máy tổ chức, tăng cường các công tác tiếp cận cho vay đến hộ sản xuất nông

nghiệp... thực sự là kết quả tất yếu của thành công trong việc lựa chọn đúng
đắn được thị phần chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông
nghiệp Việt nam.
Thứ tư : Ngân hàng Nông nghiệp tích cực phát triển cho vay theo
dự án.
Việc đầu tư cho vay theo các dự án thực ra là cho vay theo các thị phần
riêng có. Ngân hàng Nông nghiệp làm tốt được việc này thực chất là ngân
hàng đã nhận thấy vai trò quan trọng của việc phân đoạn thị trường đối với
hoạt động kinh doanh của mình. Nếu coi các thị phần đó là thích hợp (sau khi
nghiên cứu) thì Ngân hàng Nông nghiệp thực sự đã tìm ra được một cách tiếp
cận thị trường an toàn và hiệu quả. Việc đẩy mạnh thực hiện dịch vụ theo dự
án là một hướng đi đúng của Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam cần phát huy
hơn nữa trong thời gian tới.
Thứ năm : Ngân hàng Nông nghiệp đã xác định được dịch vụ cho
thị phần đã lựa chọn.
Mỗi một ngân hàng đều có những mục tiêu và đối tượng phục vụ riêng
của mình. Ngân hàng Nông nghiệp trong thời gian qua đã xác định rõ được đối
tượng phục vụ và các dịch vụ phục vụ cho đối tượng đó. Ngân hàng Nông
nghiệp không chỉ chú trọng đến việc cung cấp tín dụng cho nông dân mà còn
thấy rõ được nhiệm vụ đầu tư phát triển của mình để định vị cho dịch vụ của
Ngân hàng Nông ngiệp là đầu tư phát triển nông thôn. Bộ phận dịch vụ này
được tăng cường trong thời gian qua khá mạnh mẽ (số liệu đã nêu ở trên).
Đặc biệt Ngân hàng Nông nghiệp đang tiếp tục nghiên cứu đầu tư thí điểm để
phát triển cơ sở hạ tầng cho nông thôn như chương trình cho vay: tôn nền làm
nhà trên cọc, năm 2000 Ngân hàng nông nghiệp đã cho vay 200 ngàn hộ với số
tiền 767 tỉ đồng. Hay một số các dự án khác như cho vay sinh hoạt (4 tỉnh) 50
tỷ đồng, cho vay làm nước sạch (Hà Nam) 10 tỷ đồng; dự án cải tạo sửa chữa
nhà 52 tỷ đồng[56]. Ngân hàng Nông nghiệp đi từ mục tiêu đến thí điểm hoạt
động để rút ra kinh nghiệm và lớn hơn là khẳng định được nội dung hoạt động
của mình. Trên cơ sở đó,thu hút được khả năng mở rộng nguồn vốn đầu tư vì

các dự án này phần lớn có được từ các nguồn tài trợ của các tổ chức và của
Nhà nước. Từng bước khẳng định được đầu tư phát triển nông thôn là một
loại dịch vụ quan trọng của Ngân hàng Nông nghiệp. Hay nói một cách khác là
Ngân hàng Nông nghiệp đã định vị được dịch vụ này cho hoạt động của mình.
Thứ sáu : Phần lớn các dịch vụ của Ngân hàng Nông nghiệp phù
hợp với chiến lược phát triển chung của ngân hàng.
Hiện nay Ngân hàng Nông nghiệp thực hiện khá nhiều dịch vụ, việc lựa
chọn các thị phần hoạt động của chúng đều tương đối phù hợp với chiến lược
phát triển chung của ngân hàng. Từ việc tích cực huy động vốn để cho vay đến
việc phát triển các dịch vụ kinh doanh khác không hề làm yếu đi khả năng đầu
tư phục vụ cho nông nghiệp và nông thôn thậm chí việc phát triển các dịch vụ
khác nhau lại làm lớn mạnh hơn khả năng phục vụ của Ngân hàng Nông
nghiệp với "trận địa" chính của mình. Lấy ví dụ việc tích cực huy động vốn về
thực chất là huy động ở các vùng có nhiều khả năng có vốn để đưa về các vùng
nông thôn đầu tư cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn.
3.3.1.2.Về quản lý dịch vụ ngân hàng.
Chính sách dịch vụ luôn là vấn đề cốt lõi của hoạt động ngân hàng. Có
nhận thức đúng đắn về dịch vụ, lựa chọn đúng dịch vụ với từng loại thị trường
và kiểm soát được nó trong thực tiễn chính là sự thắng lợi cho hoạt động quản
lý chính sách dịch vụ của ngân hàng.
Thứ nhất : Ngân hàng Nông nghiệp đã bước đầu quan tâm đến thị
trường.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã có sự phát
triển mạnh mẽ. Từ thị trường rộng khắp của nông thôn Việt Nam, ngân hàng
nông nghiệp từng bước xâm nhập và phục vụ tốt các đối tượng khách hàng
của mình. Có thể nêu ra rất nhiều ví dụ để thấy được hoạt động này của ngân
hàng nông nghiệp như việc đầu tư phục vụ thu mua lúa vụ Đông Xuân năm
2001 bảo đảm cho các xí nghiệp chế biến mua được lúa của nông dân hơn 1,2
triệu tấn mà vẫn giữ được giá sàn cho sản phẩm. Hay việc huy động vốn để cho
vay khắc phục thiệt hại cơn bão số 5 năm 2000 đều được thực hiện bằng việc

nghiên cứu thị trường để có được các quyết sách đúng đắn kịp thời cho hoạt
động thực hiện dịch vụ của ngân hàng.
Thứ hai : Ngân hàng Nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ số lượng
và khối lượng dịch vụ ngân hàng.
Từ khi thành lập đến nay được gần 10 năm, Ngân hàng Nông nghiệp có
số dư nợ tăng từ 700 tỷ động lên 22.500 tỷ đồng có nghĩa là tăng hơn 30 lần.
Ngoài khối lượng dịch vụ tăng lên như vậy thì số lượng dịch vụ cũng được
phát triển, nếu như trước kia chỉ thuần thuý huy động và cho vay cộng với
nghiệp vụ thanh toán thì nay đã phát triển nhiều loại dịch vụ mới như kinh
doanh vàng bạc, ngoại tệ, tín dụng thuê mua, đầu tư tín phiếu, trái phiếu kho
bạc... Ngay trong việc huy động vốn thì trước đây cũng chủ yếu là huy động
tiền gửi các tổ chức kinh tế (dạng bắt buộc) và tiền gửi tiết kiệm của dân cư
thì nay đã phát triển với nhiều hình thức huy động khác như kỳ phiếu hay tiền
tài trợ của các tổ chức kinh tế... Nếu ngân hàng nông nghiệp giữ được nhịp độ
phát triển này trong thời gian tới thì Ngân hàng Nông nghiệp thực sự là một
ngân hàng có vị thế quan trọng trong hệ thống tài chính - ngân hàng ở Việt
Nam, góp phần mạnh mẽ vào chiến lược phát triển nền kinh tế đất nước.
Thứ ba : Ngân hàng Nông nghiệp tăng cường quản lý hình ảnh của
ngân hàng.
Điều đáng trân trọng nhất ngoài việc phát triển mạnh mẽ khối lượng
và số lượng dịch vụ là Ngân hàng Nông nghiệp đã quan tâm nhiều đến việc giữ
gìn uy tín của mình. Ngân hàng Nông nghiệp trong suốt quá trình tồn tại của
mình luôn đảm bảo được khả năng thanh toán trong một tình huống. Bởi lẽ chỉ
một khiếm khuyết dù nhỏ của lĩnh vực này cũng có thể gây ra những hậu quả
không thể lường trước được. Để làm được và duy trì tốt việc này không phải là
điều đơn giảm mà đây có thể được coi là thành tích cần được biết đến nhất
của Ngân hàng Nông nghiệp trong thời gian qua. Đây là một vấn đề rất quan
trọng,thậm chí có thể coi là khâu mấu chốt cho mọi thành công của ngân
hàng. Từ khi thành lập đến nay, qua rất nhiều biến động của nền kinh tế, xã
hội. Việc vừa đáp ứng được vốn cho sự phát triển, vừa đảm bảo tiết kiệm vốn,

không để vốn "chết", mà hơn cả là việc đảm bảo khả năng thanh toán thông
suốt toàn hệ thống thực sự là một thành quả đáng trân trọng của Ngân hàng
Nông nghiệp Việt Nam. Tình trạng khất hoãn vốn thanh toán trong bất cứ tình
huống nào chưa xảy ra ở Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, chính điều đó đã
gây được lòng tin, tăng cường uy tín tạo tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng
của Ngân hàng Nông nghiệp.
Để làm tốt được việc đó, ngay từ khi bắt đầu những bước đi đầu tiên
trong việc kinh doanh theo cơ chế thị trường, Ngân hàng Nông nghiệp đã quan
tâm đặc biệt đến vấn đề này, từ việc sắp xếp đội ngũ cán bộ có năng lực, có
nghiệp vụ chuyên môn cao làm việc ở bộ phận cân đối vốn đến các vấn đề liên
quan như cải tiến phương thức điều hòa vốn hay việc cung cấp thông tin
nhanh giúp cho bộ phận cân đối có cơ sở thực hiện tốt công việc của mình cũng
được Ngân hàng Nông nghiệp đặc biệt quan tâm do vậy đã đảm bảo khả năng
thông vốn cho toàn bộ hệ thống. Việc điều hòa vốn đã thực sự đem lại kết quả
như mong muốn.
Thứ tư : Ngân hàng Nông nghiệp tăng cường giảm thấp những
khó khăn cho khách hàng khi thực hiện dịch vụ.
Để vay được vốn của ngân hàng phải có đủ điều kiện và các thủ tục
nhất định. Điều này là điều kiện cần và đủ để vay được vốn ở ngân hàng. Trước
đây đã có người thống kê việc cho vay của ngân hàng,ngoài việc đủ điều kiện
tín dụng phải có 15 văn bản và hơn thế số con dấu các loại. Ngân hàng Nông
nghiệp thấy rõ được vấn đề này, từng bước nghiên cứu và đề ra các thủ tục
cho vay ngày càng đơn giản cho khách hàng nhưng vẫn đảm bảo an toàn
khoản tiền vay của ngân hàng. Thủ tục cho vay của Ngân hàng Nông nghiệp
hiện nay đã đơn giản nhiều chỉ còn: đơn xin vay, giấy chứng nhận tài sản thế
chấp, khế ước vay tiền, là người dân đã có thể có tiền để phục vụ nhu cầu sản
xuất, kinh doanh của mình. Ngoài ra, điều kiện tín dụng cũng được giản tiện
nhiều so với trước, như các đối tượng vay thường xuyên được cấp sổ tín dụng
để vay nhiều lần,các yêu cầu khác chỉ phải làm một lần cho nhiều lần vay tiền.
Hay với những hộ vay những món nhỏ dưới 5 triệu không cần phải có tài sản

thế chấp... Việc giản tiện các thủ tục và điều kiện cho vay không có nghĩa là
Ngân hàng Nông nghiệp buông lỏng quản lý,mà xuất phát từ sự chuyển biến
nhận thức về hoạt động của ngân hàng trong cơ chế thị trường và sự phù hợp
của dịch vụ với việc nghiên cứu thực tế để Ngân hàng Nông nghiệp để đề ra các
chủ trương đó. Việc giản tiện thủ tục và điều kiện vay vốn nhưng không làm
tăng nợ quá hạn hay khả năng mất vốn là thắng lợi thực sự của việc cải cách
thủ tục hành chính trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp
trong thời gian vừa qua.
Một ngân hàng có sự tăng trưởng nhanh, một ngân hàng giữ được uy
tín với khách hàng, một ngân hàng không gây phiền hà khi giao dịch, một ngân
hàng luôn coi trọng việc bổ xung và hoàn thiện dịch vụ của mình đó chính là
bức tranh khái quát về hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam trong
thời gian vừa qua.
Thứ năm : Ngân hàng Nông nghiệp đã bước đầu thành công trong
việc khai thác đặc điểm về dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam với vị thế là một ngân hàng lớn của
Việt Nam, Trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh của mình đã có sự
nghiên cứu các đặc điểm của dịch vụ ngân hàng để từ đó có các đối sách thích
hợp.
Với đặc điểm dịch vụ ngân hàng dễ bị bắt chước.
Ngân hàng Nông nghiệp đã biết sử dụng lợi thế về mạng lưới rộng
khắp của mình để biến cái có thể dễ bị mất độc quyền trên thị trường thành
dịch vụ độc quyền trên các vùng mà chỉ có Ngân hàng Nông nghiệp tiếp cận để
thực hiện dịch vụ. Hay để làm giảm khả năng bắt chước dịch vụ, Ngân hàng
Nông nghiệp cũng đã tiến hành thực hiện dịch vụ theo từng chiến dịch, từng
đợt như cho vay thu mua, huy động kỳ phiếu... Nói chung với đặc điểm này của
dịch vụ ngân hàng, Ngân hàng Nông nghiệp đã có những bài thuốc hữu hiệu để
làm cho dịch vụ của mình trở nên "khoẻ mạnh" và phát huy tốt tác dụng của
chúng trong hoạt động kinh doanh.
Với đặc điểm dịch vụ mới được khai thác từ dịch vụ cũ

Với đặc điểm này của dịch vụ, Ngân hàng Nông nghiệp cũng đã quan
tâm và có các đối sách thích hợp. Ở Trung tâm điều hành cũng đã có những bộ
phận nghiên cứu của các dịch vụ mới trên thị trường tài chínhViệt Nam chưa
thực sự có như kinh doanh chứng khoán hoặc trên thị trường có nhưng còn
khá tản mát và chưa thực sự phát triển như tín dụng thuê mua, để từ đó
nhanh chóng tiếp cận và chờ thời cơ, trước hết là xây dựng các tiền đề về cơ sở
vật chất, kỹ thuật đón bắt kịp thời trước khi thời cơ đến.Còn nhiều đặc điểm
khác cũng được Ngân hàng Nông nghiệp quan tâm và thực hiện tương đối tốt
Thứ sáu : Về cơ bản Ngân hàng Nông nghiệp đã làm tốt việc tổ
chức dịch vụ.
Với mỗi một loại dịch vụ nhất định, Ngân hàng Nông nghiệp đều có sự
cân nhắc thực hiện. Quá trình hình thành và thực hiện dịch vụ đều được tính
toán cẩn thận, có sự nghiên cứu và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc và
sáng tạo. Ngay trong các dịch vụ truyền thống như tín dụng, huy động vốn,
thanh toán đều được nghiên cứu rõ về thị trường để từ đó có chính sách thích
hợp. Việc hoàn chỉnh các thể chế của ngân hàng trong thời gian qua đều đã tập
chung giải quyết việc nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng, trong đó yếu
tố kỹ thuật ngày càng được coi trọng. Việc tăng cường công tác để nâng cao
được hình ảnh của ngân hàng cũng được ngân hàng nông nghiệp quan tâm.
Chính vì vậy những dịch vụ truyền thống của Ngân hàng Nông nghiệp đã phát
triển tốt cả về số lượng và chất lượng.
Với những dịch vụ mới cũng đã bước đầu được tổ chức thực hiện, từ việc
tổ chức bộ phận nghiên cứu về thị trường và những vấn đề về kỹ thuật nghiệp
vụ. Ở trung tâm điều hành có bộ phận theo dõi riêng về các nghiệp vụ như: thị
trường chứng khoán, tín dụng thuê mua... Tuy nhiên việc mở rộng dịch vụ với
thị trường mới còn khó khăn,mới chỉ là sự thăm dò làm thí điểm. Ngân hàng
Nông nghiệp cũng đã thực hiện được một số việc để mở rộng thị trường hoạt
động thông qua việc liên doanh với ngân hàng nước ngoài, mở các đại lý ở
nước ngoài. Mục tiêu thì có nhưng cần làm điểm,khi chắc chắn mới tổ chức
thực hiện,đó cũng chính là phương hướng thực hiện việc phát triển hoạt động

kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp Việt nam.
Thứ bảy : Ngân hàng Nông nghiệp tăng cường công tác kiểm tra
dịch vụ
Tăng cường hoạt động quản lý với việc tích cực kiểm tra giám sát các
hoạt đông kinh doanh được Ngân hàng Nông nghiệp đặc biệt quan tâm. Hệ
thống kiểm soát được xây dựng từ trung tâm điều hành đến các ngân hàng cơ
sở. Trong từng nghiệp vụ,hoạt động kiểm tra,kiểm soát luôn được quan tâm
đúng mức.Ví dụ trong nghiệp vụ tín dụng công tác kiểm tra ở cả ba khâu: kiểm
tra trước, kiểm tra trong và sau khi vay luôn được đề cao. Việc tăng cường
kiểm tra này đã làm giảm dược khả năng phát sinh nợ nợ quá hạn của toàn
ngân hàng. Theo số liệu báo cáo thống kê các năm số nợ quá hạn của ngân
hàng nông nghiệp ngày càng có xu hướng giảm (năm 1993 :47%,năm
2000:5,1%).
Tuy nhiên việc kiểm tra kiểm soát của từng dịch vụ mới ở dạng vụ việc
với từng dịch vụ đơn lẻ.
3.3.1.3. Về quản lý hoạt động xúc tiến, khuyếch trương.
Thứ nhất : Ngân hàng nông nghiệp đã bước đầu quan tâm đến
quảng cáo.
Nói bước đầu vì hoạt động quảng cáo của Ngân hàng Nông nghiệp mới
chỉ có từ vài năm gần đây với một nhận thức và cách làm có dự kiến và tổ
chức thực hiện một cách bài bản. Hoạt động quảng cáo trước năm 1995 chưa
thực sự có, hoặc có quảng cáo thường là quảng cáo tự nhiên thông qua các
phóng sự, các cuộc hội thảo v.v... Mấy năm trở lại đây công tác này đang trên
đà phát triển, chi phí cho hoạt động quảng cáo ngày một tăng lên, phương tiện
cũng được mở rộng bằng nhiều hình thức.Việc quảng cáo qua các phương tiện
thông tin như vô tuyến, đài, báo với thời lượng ngày một nhiều hơn. Nếu trước
kia chỉ làm một vài đợt trong năm thì nay Ngân hàng Nông nghiệp luôn có các
hoạt động quảng cáo bằng nhiều hình thức khác nhau. Ngoài việc quảng cáo
để giới thiệu dịch vụ của mình,Ngân hàng Nông nghiệp cũng đã bước đầu
quan tâm tới việc quảng cáo để phát triển hình ảnh của ngân hàng. Hoạt động

quảng cáo đã bước đầu thu được các kết quả đáng khích lệ. Điều dễ nhận thấy
nhất là hoạt động quảng cáo của Ngân hàng Nông nghiệp đã bước đầu đi vào
nề nếp. Tuy chưa có một sự đánh giá một cách bài bản xem tác động của quảng
cáo tới kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp trong thời
gian vừa qua. Nhưng có thể kết luận chắc chắn rằng trong kết quả đó có một
phần đóng góp không nhỏ là do quảng cáo mà có. Hơn thế quảng cáo còn ghi
được dấu ấn của mình vào khách hàng của ngân hàng đặc biệt là khách hàng
tiềm tàng.
Thứ hai : Những kết quả bước đầu của Ngân hàng Nông nghiệp
trong việc xúc tiến khuyếch trương qua giao tiếp bán hàng.
Việc tiếp nhận thông tin và truyền thông tin đến khách hàng đã được
Ngân hàng Nông nghiệp quan tâm qua việc thông báo cụ thể các dịch vụ của
ngân hàng đến với khách hàng tại các quầy giao dịch. Các nơi giao dịch đều có
hòm thư góp ý. Ngân hàng cũng đã thông qua nghiệp vụ tín dụng để tìm hiểu
các thông tin về khách hàng và truyền đạt các thông tin cần thiết khác của
ngân hàng đến với khách hàng.
3.3.1.4. Về quản lý giá dịch vụ
Thứ nhất : Ngân hàng nông nghiệp đã quan tâm đến việc định giá
cho từng loại dịch vụ của mình.
Căn cứ vào khung lãi suất hoặc trên lãi suất do Ngân hàng Nhà nước
quy định, trên cơ sở phân tích nhu cầu của thị trường, Ngân hàng Nông nghiệp
đã mạnh dạn tổ chức mở rộng tín dụng ngay cả khi các ngân hàng khác đang
gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Ví dụ vào các tháng đầu năm
1999,hệ thống ngân hàng Việt Nam có dư hàng chục nghìn tỷ đồng không cho
vay ra được những Ngân hàng Nông nghiệp bằng sự nhạy bén và khả năng
phân tích tốt thị trường,đã tiến hành đi vay các ngân hàng khác để tập chung
cho vay hộ sản xuất, cho vay thu mua và cho vay các đối tượng khác hàng
nghìn tỷ đồng.
Thứ hai : Ngân hàng Nông nghiệp đã bước đầu sử dụng kỹ thuật
nghiệp vụ vào việc định giá cho dịch vụ của mình.

Kỹ thuật nghiệp vụ trong việc định giá cho dịch vụ đã được các ngân
hàng trên thế giới sử dụng từ lâu, nếu không muốn nói nó gắn liền với sự hình
thành hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, một thời gian dài hoạt động trong
cơ chế bao cấp nên việc ngân hàng sử dụng trở lại các kỹ thuật này trong việc
định giá cũng có nhiều ý kiến khác nhau,thậm trí đến nay Ngân hàng Nông
nghiệp Việt Nam vẫn chưa được thực hiện đầy đủ quyền định giá cho dịch vụ
của mình (sẽ nêu rõ dưới đây). Tuy nhiên,trong việc định giá đã có những
chuyển biến nhất định. Nếu trước kia chỉ có một kiểu duy nhất định giá là lãi
suất / thới gian thì nay đã có nhiều kiểu định giá khác nhau. Có dịch vụ được
định giá theo kiểu cũ, có loại dịch vụ được định giá khác đi như kỳ phiếu có
nhiều kỳ hạn với các mức lãi suất khác nhau (dùng kỹ thuật nghiệp vụ để gắn
lãi suất với thời gian) hoặc có loại được trả lãi suất trước (đây có thể được coi
là dùng kỹ thuật nghiệp vụ vào kỹ thuật định giá lãi suất ngân hàng.) Như vậy
việc định giá của Ngân hàng Nông nghiệp đã có những bước thay đổi đáng kể.
3.3.1.5. Về quản lý hoạt động phân phối dịch vụ.
Thứ nhất : Ngân hàng Nông nghiệp có hệ thống phân phối rộng
khắp.
Ngay từ khi mới thành lập, Ngân hàng Nông nghiệp đã khẳng định
được thế mạnh của mình là có một mạng lưới phân phối rộng khắp. Tính đến
tháng 12/2000 Ngân hàng Nông nghiệp có tới 1258 chi nhánh các loại ,trong
đó ngân hàng loại 1 : 5 chi nhánh ; ngân hàng loại 2: 63 ; ngân hàng loại 3 :
527 ; ngân hàng loại 4 : 534 ; điểm hoạt động lưu động :129 [56]. Với mạng
lưới đó, Ngân hàng Nông nghiệp đã có mặt ở hầu hết các địa bàn ở trong nước
đặc biệt là địa bàn nông nghiệp và nông thôn. Từ đồng bằng đến miền núi, từ
biên giới đến hải đảo, từ thành thị đến nông thôn, chỗ nào cũng có sự hiện diện
của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
Với mạng lưới như vậy,việc mở rộng hoạt động của Ngân hàng Nông
nghiệp gặp khá nhiều thuận lợi. Với các ngân hàng thương mại khác đã có lúc
tạm thời thừa vốn không cho vay ra được, Ngân hàng Nông nghiệp vẫn thiếu
vốn trầm trọng để có thể đáp ứng được cho thị trường rộng khắp của

mình.Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nông nghiệp đã từng phải đi vay các ngân
hàng thương mại khác, huy động kỳ phiếu với lãi suất cao hơn so với giá thị
trường lúc đó để cho vay phát triển phục vụ thị trường rộng khắp của mình.
Thứ hai : Ngân hàng Nông nghiệp tiếp tục vươn rộng để phát
triển.
Nếu việc phát triển mạng lưới của mình ở trong nước đã là một thành
tựu to lớn của Ngân hàng Nông nghiệp thì việc mở các hoạt động kinh doanh
đối ngoại cũng là một thành công đáng kể của Ngân hàng Nông nghiệp. Nhìn
vào lịch sử phát triển của Ngân hàng Nông nghiệp, chỉ với thời gian chưa đầy
10 năm từ chỗ chưa thực hiện nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại đến nay Ngân
hàng nông nghiệp có 24 chi nhánh tham gia thanh toán quốc tế. Số lượng
thanh toán quốc tế ngày càng tăng nhanh, riêng năm 2000 tăng so với 1999

×