Tải bản đầy đủ (.doc) (154 trang)

329 VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652 KB, 154 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi hoạt động theo
cơ chế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Với chính sách mở cửa
có nguyên tắc và đường lối phát triển nền kinh tế xã hội theo cấu trúc 5 thành
phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, đã và đang tạo ra những điều kiện tiền
đề rất cơ bản cho quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế đất nước.
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (1989) đến nay,trong hơn một
thập kỷ thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế đất nước, nền kinh tế nước ta đã
đạt được nhiều thành quả rất quan trọng và cơ bản. Tuy nhiên, nghiêm túc mà
nói thành quả đạt được chưa thật vững chắc. Hoạt động của nền kinh tế đã
bắt đầu bộc lộ một số vấn đề khá cơ bản cần bàn, nghiên cứu và tìm hướng
khắc phục. Nổi bật là vấn đề quản lý kinh tế. Quá trình đổi mới nền kinh tế về
thực chất là quá trình thay đổi cơ chế quản lý. Là quá trình chuyển đổi từ cơ
chế quản lý hành chính, kế hoạch hóa tập trung và bao cấp sang hoạt động
theo cơ chế quản lý kinh tế hiện đại, vận động theo cơ chế thị trường, lấy thị
trường làm tiêu điểm cho các hoạt động của các doanh nghiệp. Việc chậm
đưa công nghệ quản lý kinh tế hiện đại vào hoạt động thực tiễn chính là
nguyên nhân cơ bản làm giảm thành quả đạt được trong thời gian qua, làm
chậm quá trình đổi mới và phát triến nền kinh tế đất nước.
Hoạt động của ngành Ngân hàng Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh
chung của nền kinh tế, hiện cũng đang vấp phải những vấn đề bức xúc của
quá trình phát triển mà nguyên nhân của nó cũng không ngoài vấn đề chậm
đưa công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của
mình. Điều đó đã hạn chế phần lớn đến kết quả đạt được cũng như định
hướng hoạt động trong thời gian tới của toàn ngành Ngân hàng Việt Nam.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, viết gọn là
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (viết tắt là NHNOVN) là một ngân hàng
lớn trong hệ thống ngân hàng quốc doanh ở Việt Nam, cũng nằm trong tình
trạng chung trên đây của toàn ngành ngân hàng và của nền kinh tế đất nước.
Như vậy, công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại thực sự là một vấn đề


lớn, cấp thiết cần được nghiên cứu và vận dụng vào hoạt động thực tiễn ở các
ngân hàng thương mại Việt Nam.
Xuất phát từ cách đặt vấn đề trên, tác giả đã chọn và triển khai nghiên
cứu đề tài: "VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN
ĐẠI VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY".
2. Mục đích nghiên cứu:
Một là: Luận giải công nghệ quản lý kinh tế hiện đại là một quá trình
quản lý mang tính xã hội và vai trò của nó đối với việc phát triển nền kinh tế
đất nước.Từ đó thấy được vai trò của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại
đối với yêu cầu đổi mới hệ thống Ngân hàng Việt Nam.
Hai là: Từ nội dung công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại đối chiếu
với hoạt động thực tiễn quản lý của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, từ đó
rút ra những mặt làm được và chưa làm được so với yêu cầu của công nghệ
quản lý ngân hàng hiện đại.
Ba là :Đề xuất một số giải pháp vận dụng công nghệ quản lý ngân
hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
 Đối tượng: Công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại
 Phạm vi nghiên cứu:Công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và
 Công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại.
 Phạm vi vận dụng: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam.
 Thời gian: Từ nay đến những năm đầu của thế kỷ 21
 Giới hạn:
 * Công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và công nghệ quản lý ngân
 hàng hiện đại vận dụng cho các doanh nghiệp và ngân hàng
 thương mại.
 Khi nghiên cứu công nghệ quản lý hiện đại không nghiên cứu
về mặt kỹ thuật như vi tính, thông tin... coi đó như là các yếu tố

vật chất tự nhiên cần và có trong quá trình nghiên cứu.
 Chỉ nghiên cứu trong phạm vi nội dung công nghệ quản lý,còn
các kỹ thuật chi tiết của công nghệ quản lý không thuộc phạm
vi nghiên cứu của đề tài.
4. Phương pháp nghiên cứu:
 Duy vật biện chứng.
 Duy vật lịch sử.
 Tư duy logic.
 Phân tích thống kê.
 Phân tích kinh tế.
 Xử lý hệ thống...
5. Đề và kết cấu của bài viết:
 Đề của bài viết:
"Vận dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay".
 Kết cấu của bài viết bao gồm:
 PHẦN MỞ ĐẦU.
 Ba chương:
Chương 1: QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ
KINH TẾ HIỆN ĐẠI
Chương 2: NỘI DUNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG
HIỆN ĐẠI
Chương 3: VẬN DỤNG CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG
HIỆN ĐẠI VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
 PHẦN KẾT LUẬN.
Chương 1
QUẢN LÝ KINH TẾ VÀ CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ KINH TẾ HIỆN ĐẠI

Sự ra đời và phát triển của khoa học quản lý kinh tế gắn liền với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới và sự phát triển của xã hội loài người.
Chính vai trò to lớn của quản lý kinh tế là cơ sở để tác giả lựa chọn đề tài
nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này đó là: công nghệ quản lý ngân hàng
hiện đại. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là một ngành
kinh tế đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ.Ngành Ngân hàng là một
trong nhiều ngành kinh tế quan trọng của toàn bộ hoạt động nền kinh tế đất
nước. Chính vì vậy, trước khi tìm hiểu nội dung của công nghệ quản lý ngân
hàng hiện đại và vận dụng chúng trong thực tiễn cần phải tìm hiểu về quản lý
kinh tế, đặc biệt là những vấn đề cơ bản của công nghệ quản lý kinh tế hiện
đại có liên quan đến công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại. Đó là nội dung
chính cần làm rõ ở chương này.
1.1. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG.[9,9-21]
1.1.1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ.
Có nhiều dạng quản lý, nói cụ thể là có nhiều đối tượng cần quản lý.
Từ quản lý giới vô sinh đến giới hữu sinh, từ quản lý kinh tế đến quản lý xã
hội. Bài viết này chỉ quan tâm đến lĩnh vực quản lý kinh tế.
Quản lý kinh tế có các đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Quản lý kinh tế được phân chia thành hệ thống quản lý và
hệ thống bị quản lý (sự phân chia này chỉ là tương đối và trong những điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể nó có thể thay đổi vị trí cho nhau).
Thứ hai: Quản lý phải có khả năng thích ứng với môi trường hoạt
động.
Thứ ba: Quản lý luôn liên quan đến vấn đề trao đổi thông tin giữa hệ
thống này với hệ thống khác và trong nội bộ mỗi hệ thống.
Thứ tư: Quản lý có mối quan hệ hai chiều trong lĩnh vực thông tin,có
nghĩa là trong bất kỳ một hệ thống quản lý nào khi truyền đạt thông tin đi thì
nó sẽ phải thu được thông tin phản hồi. Nếu mất thông tin phản hồi thì hệ

thống quản lý đó coi như không còn giá trị.
SƠ ĐỒ CHUNG CỦA QUẢN LÝ
(Theo quan điểm điều khiển học)
Chủ thể quản lý phát ra mệnh lệnh quản lý dưới dạng thông tin, đối
tượng quản lý tiếp nhận thông tin và có thông tin phản hồi cho chủ thể quản
lý biết được các yêu cầu cần thiết từ việc xử lý thông tin đến để có thông tin
phản hồi.
Từ các đặc trưng cơ bản của quản lý nêu trên,có rất nhiều cách khác
nhau định nghĩa về quản lý kinh tế. Tuy nhiên, định nghĩa sau đây thường
được dùng hơn cả: Quản lý kinh tế là sự tác động liên tục, có tổ chức, có
Thông tin
Thông tin
bên ngoài
Chủ thể quản

Đối tượng
quản lý
Thông tin phản hồi
hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm duy trì sự phát
triển của hệ thống kinh tế. Sử dụng một cách hiệu quả nhất các tiềm năng
cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ hội của hệ thống kinh tế để đưa hệ thống đến mục
tiêu dự định một cách tốt nhất trong sự biến động không ngừng của môi
trường hoạt động kinh tế.
Quản lý diễn ra trước hết như là một quá trình tác động qua lại giữa
chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Tuy nhiên,việc phân biệt giữa chủ thể
quản lý và đối tượng quản lý chỉ là ước lệ vì nhiều khi chủ thể quản lý lại trở
thành đối tượng quản lý và ngược lại. Muốn xác định chủ thể quản lý phải đặt
chúng vào từng môi trường hoàn cảnh cụ thể. Mối quan hệ giữa chủ thể quản
lý và đối tượng quản lý được xây dựng theo qui tắc mối liên hệ qua lại. Điều
đó có nghĩa là: Đối tượng quản lý không chỉ chịu sự tác động có hướng đích

của chủ thể quản lý, mà nó còn vận động và phát triển theo những qui tắc vốn
có của nó và từ đó tác động lại chủ thể quản lý. Tùy theo nội dung, hình thức
và phương pháp quản lý sẽ dẫn đến kết quả quản lý nhất định. Tóm lại, hiệu
quả của quản lý do tính chất của mối quan hệ qua lại giữa chủ thể quản lý
và đối tượng quản lý quyết định.
Quản lý có thể được xem xét về phương diện tĩnh là cơ cấu quản lý
hay về phương diện động là quá trình quản lý.
- Cơ cấu quản lý là các bộ phận của hoạt động quản lý.
- Quá trình quản lý là quá trình hoạt động của cơ cấu quản lý.
Khi xem xét quá trình quản lý có thể phân tích trên nhiều mặt như về
nội dung: Làm gì ? Về tổ chức: Ai làm, làm theo trình tự nào ? Và về công
nghệ: Làm như thế nào ?.
Điều cần lưu ý khi nghiên cứu về quản lý là: quản lý kinh tế vừa có
tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Quản lý đã có từ lâu trong lịch sử tồn
tại và phát triển của loài người. Nhưng trước đây người ta thường phủ nhận
tính khoa học của quản lý kinh tế và đặc biệt là tính nghệ thuật của nó.Người
ta cho rằng yếu tố quyết định trong thắng lợi của quản lý đó là tài năng của
người quản lý.Vậy tính khoa học của quản lý được thể hiện ở chỗ nào ?
Trong quản lý có những nguyên tắc ổn định và bền vững mà chủ thể
quản lý cần nắm bắt, nghiên cứu và vận dụng chúng cho thích hợp với điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp. Ngoài ra quản lý kinh tế luôn liên
quan đến hoạt động của con người có ý thức, có nhận thức về hành động của
mình trong sự tồn tại vói cộng đồng xã hội. Tính khoa học của quản lý đòi hỏi
việc quản lý kinh tế phải dựa trên sự hiểu biết sâu sắc các qui luật khách
quan, không chỉ các qui luật về kinh tế mà còn cả các qui luật xã hội,qui luật
tự nhiên... chứ không phải chỉ dựa trên kinh nghiệm hay trực giác của chủ thể
quản lý. Mặc dù kinh nghiệm có được cũng chính là kết quả của quá trình
nhận thức qui luật khách quan mà có.
Muốn quản lý kinh tế một cách khoa học đòi hỏi phải có tầm nhìn
toàn diện và đồng bộ các hoạt động của doanh nghiệp. Quản lý kinh tế không

chỉ giới hạn về những vấn đề liên quan đến kinh tế mà cả những vấn đề liên
quan khác như về tâm sinh lý con người, các qui luật xã hội, qui luật tự
nhiên... Cả về công nghệ, kỹ thuật và môi trường.
Tính khoa học của quản lý còn được hỗ trợ bởi các kỹ thuật và công
nghệ hiện đại mà con người sáng tạo và phát minh ra. Từ các công cụ này,
chủ thể quản lý có thể khẳng định các quyết định quản lý của mình là có căn
cứ khoa học.
Tính nghệ thuật của quản lý có thể tìm được những nguyên tắc
chung,thường là qui ước và mang tính kinh nghiệm chủ nghĩa. Nghệ thuật
trong quản lý kinh tế là "biết làm thế nào" để đạt được một kết quả cụ thể.
Nghệ thuật quản lý kinh tế liên quan mật thiết đến các quyết định riêng có
của chủ thể quản lý nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong cùng một điều
kiện nhất định có nhiều giải pháp đúc kết và rút ra từ qui luật. Chẳng hạn
trong quản lý kinh tế, việc khuyến khích bằng lợi ích vật chất là quan trọng
(điều này có tính qui luật). Tuy nhiên, chủ thể quản lý vận dụng yếu tố này
vào thời điểm nào, mức độ bao nhiêu và bằng phương pháp nào để tạo nên
kết quả mong muốn lại mang tính nghệ thuật. Có thể thưởng trực tiếp cho
nhân viên 100.000đ, hay nhân dịp sinh nhật của người nhân viên "tặng" cho
họ số tiền được thể hiện bằng một kỷ vật nào đó thì người nhân viên rất khó
quên và năng lực làm việc, mức độ trung thành với doanh nghiệp đạt được
nhiều khi vượt xa so với mức độ thưởng trực tiếp.
Điều cần nhấn mạnh là để có tính nghệ thuật trong quản lý kinh tế thì
chủ thể quản lý phải nắm bắt được tính khoa học của quản lý, cũng có nghĩa
là tính nghệ thuật của quản lý được bắt nguồn từ tính khoa học của quản lý
nhưng nó "linh diệu" hơn, nâng quản lý lên thành mức "nghệ thuật", "nghệ
thuật" đến mức nhiều người đều biết nhưng chỉ có chủ thể quản lý đó ra được
quyết định hành động như vậy mà thôi. Có những qui luật nhiều người cùng
nhận thấy, nhưng nghệ thuật quản lý đòi hỏi chủ thể quản lý cần phải nắm bắt
được những qui luật "ẩn" không chỉ thuộc qui luật kinh tế và vận dụng chúng
cho linh hoạt. Như ví dụ trên, việc tặng quà sinh nhật của chủ thể quản lý

không phải là hành động ngẫu nhiên mà có chủ định,ngoài việc vận dụng qui
luật trong kinh tế còn tính toán dựa vào qui luật tâm sinh lý của con người.
Như vậy có thể khẳng định: nghệ thuật quản lý kinh tế là sự phát triển của
tính khoa học trong quản lý. Điều đó cũng có nghĩa là nghệ thuật quản lý
không hoàn toàn là chủ nghĩa kinh nghiệm trong quản lý kinh tế.
1.1.2. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ KINH TẾ ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG.
Quản lý kinh tế là một phạm trù liên quan trực tiếp đến sự ra đời của
quá trình hợp tác và phân công lao động xã hội. Quản lý là kết quả tất yếu của
quá trình kết hợp nhiều lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một
quá trình lao động xã hội được phối kết hợp lại. C.Mác cho rằng: "Bất cứ lao
động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên một qui mô khá lớn,
đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân. Sự
chỉ đạo đó phải làm chức năng chung, tức là những chức năng phát sinh từ
sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với những vận
động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một
nhạc sĩ độc tấu thì tự mình điều khiển lấy mình, nhưng một giàn nhạc thì cần
phải có một nhạc trưởng"[9,9]. Như vậy chức năng quản lý là sự kết hợp một
cách hợp lý các yếu tố cơ bản của sản xuất, là việc tạo lập một quá trình ăn
khớp giữa những cá thể lao động riêng biệt. Rõ ràng hoạt động quản lý không
thực hiện thì quá trình sản xuất, quá trình hợp tác không thể diễn ra được.
Những nhân tố sau đây làm tăng vai trò của quản lý kinh tế:
Nhân tố thứ nhất: Tính chất và qui mô của sản xuất.
Chừng nào qui mô của hoạt động hợp tác sản xuất kinh doanh chưa
lớn lắm thì quản lý chưa cần phải có những yêu cầu đặc biệt. Qui mô sản xuất
kinh doanh càng mở rộng và phát triển thì chức năng quản lý càng trở nên
phức tạp và vai trò của nó càng trở nên rõ nét trong hoạt động của doanh
nghiệp. Điều này đặc biệt đúng trong nền kinh tế hiện đại ngày nay.
Nhân tố thứ hai: Vai trò của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.

Ngày nay, khoa học kỹ thuật đã bảo đảm cho sự phát triển của nhân loại
những nguồn lợi to lớn về vật chất. Từ đổi mới kỹ thuật đến đổi mới công nghệ
và việc áp dụng những thành tựu mới của kỹ thuật cho phép đạt được hiệu quả
kinh tế cao hơn.Nhưng điều đó có được trước hết nhờ đổi mới công nghệ quản
lý, chính công nghệ quản lý tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ thuật
mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu không có tầm nhìn, tính khoa học
sáng tạo trong quản lý thì kỹ thuật mới, công nghệ mới chỉ là sự phát triển trên
giấy mà thôi. Công nghệ quản lý kinh tế thực sự là điều kiện mở đường cho
khoa học kỹ thuật phát triển, trở thành hiện thực trong các quyết định về kinh
tế và là nhân tố quyết định sự tồn tại, phát triển của các doanh nghiệp.
Nhân tố thứ ba: Nhân tố về chính trị, xã hội.
Quản lý làm cho sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho đời sống của
nhân dân được cải thiện và nâng cao. Mà "dân giầu, nước mạnh" đó là qui
luật tất yếu, những tiêu cực trong cuộc sống được giảm thấp, xã hội ngày một
văn minh hơn. Chính quản lý là tiền đề cho việc thúc đẩy xã hội tiến lên.
Quản lý có vai trò to lớn đối với sự phát triển nền kinh tế, nhưng vai
trò của nó trong các doanh nghiệp còn quan trọng hơn nhiều. Người ta không
thể xác định chính xác được mức độ tác động cụ thể của quản lý đối với thành
công hay thất bại của doanh nghiệp. Nhiều người cho rằng không cần xác
định mức độ cụ thể vì không có quản lý hoặc quản lý yếu kém thì sự tồn tại
của doanh nghiệp đó xét theo giác độ thời gian chỉ còn là tạm thời mà thôi.
Vậy quản lý có vai trò như thế nào trong sự tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp ?
Thứ nhất: Quản lý vạch ra định hướng kinh doanh.
Lĩnh vực kinh doanh cũng giống như người đi đường, nếu không đi
đúng hướng thì không tới đích. Quản lý có vai trò to lớn đối với các doanh
nghiệp trước hết ở chỗ xác định hướng đi cho doanh nghiệp. Việc xác định
hướng kinh doanh đúng giúp cho doanh nghiệp gặp thuận lợi ngay từ bước
khởi đầu.Hơn thế, làm cho doanh nghiệp tự tin hơn trong bước đường kinh
doanh của mình.

Thứ hai: Quản lý tạo ra sự tiết kiện chi phí, tăng lợi nhuận.
Là nhà kinh doanh ai cũng muốn tiết kiệm để tạo ra nhiều lợi nhuận
cho đơn vị. Nhưng để làm điều đó bằng cách nào ? Quản lý tốt chính là công
cụ để thực hiện mục tiêu đó. Vì quản lý tốt cho phép giảm bớt những thất
thoát vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra quản lý tốt còn
có khả năng làm giảm bớt những lãng phí vô hình, không cần thiết trong quá
trình kinh doanh. Đó là sự kết hợp một cách khoa học các bộ phận trong dây
chuyền sản xuất kinh doanh sao cho chúng ăn khớp với nhau tránh lãng phí
thời gian cũng như những lãng phí vô hình khác của doanh nghiệp.
Thứ ba: Quản lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển ổn định
và vững chắc.
Ngày nay cách mạng khoa học kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên việc đưa khoa học kỹ thuật vào
thực tế luôn đòi hỏi một sự sàng lọc, tính toán chặt chẽ nhằm đảm bảo không
để xảy ra sự hao mòn vô hình quá nhanh,mặt khác cũng không được vượt quá
mức khả năng tài chính cho phép của doanh nghiệp. Những yêu cầu này được
giải quyết thông qua công tác quản lý.
Không thể kể hết lợi ích mà quản lý đem lại cho doanh nghiệp. Chính
vì quản lý có vai trò quan trọng như vậy, nên thông qua việc nghiên cứu về
quản lý để từ đó xác định được cách thức quản lý tối ưu là điều kiện tiên
quyết cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nói chung và các
ngân hàng thương mại nói riêng hoạt động trong nền kinh tế thị trường.
Ngân hàng là một ngành kinh tế,cho nên hoạt động quản lý của ngân
hàng cũng không thoát ly được các vấn đề cơ bản của quản lý kinh tế nêu
trên. Việc nghiên cứu công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại dưới đây cũng
phải dựa vào những vấn đề cơ bản đó để luận giải các vấn đề liên quan.
1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ.[47, 7-
43]
1.2.1. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC
QUẢN LÝ.

Trước thế kỷ 16, việc sản xuất kinh doanh chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự
cung tự cấp là phổ biến nên vấn đề quản lý chưa được quan tâm nghiên cứu
và áp dụng. Phải đến cuối thế kỷ 16, khi các hoạt động thương mại, đặc biệt ở
khu vực Địa Trung Hải được mở rộng thì sản xuất kinh doanh mới bắt đầu
phát triển,cùng với nó là sự đòi hỏi phải nâng cao trình độ quản lý sản xuất
kinh doanh và việc nghiên cứu về quản lý mới được đặt ra.
Nhưng phải tới thế kỷ 18 với nhiều phát minh và sáng chế mới được
con người tạo ra trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là việc phát minh ra động
cơ hơi nước đưa đến cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất ở Châu
Âu. Nền sản xuất kinh doanh được phát triển cả về phạm vi và qui mô hoạt
động thì vấn đề về quản lý mới thực sự là một đòi hỏi của thực tiễn.
Tuy nhiên phải tới những năm cuối của thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19,các tư
tưởng về quản lý mới được sắp xếp thành hệ thống và được nghiên cứu một
cách khoa học. Và phải tới cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 mới bắt đầu xuất
hiện các trường phái nghiên cứu về khoa học quản lý.
Trong thế kỷ 20 là giai đoạn bùng nổ các trường phái nghiên cứu về
quản lý. Có rất nhiều trường phái khác nhau nhưng tựu trung có một số các
trường phái chủ yếu sau:
- Trường phái cổ điển.
- Trường phái tác phong.
- Trường phái hệ thống.
- Trường phái định lượng.
- Các trường phái quản lý hiện đại.
Từ cuối thế kỷ 18 đến nay khoa học quản lý đã trải qua 3 giai đoạn
chủ yếu sau:
Giai đoạn 1: Cuối thế kỷ 18 đến những năm 30 thế kỷ XX.
Phương pháp: đơn lẻ, bất kể miễn đạt lợi nhuận.
Chủ yếu nghiên cứu có tính kinh nghiệm
chưa thực sự khoa học.
Cơ sở kinh tế: xuất phát là nền tảng cá nhân về sở hữu

kinh tế.
Giai đoạn 2: Từ năm 1930 - 1960.
Phương pháp: nghiên cứu có hệ thống, khoa học.
Mỗi hệ thống chỉ trọng tâm vào một vấn đề
=> tạo ra trường phái riêng => có nhiều
trường phái.
Cơ sở kinh tế : là các công ty tư bản (có tính tập thể).
Giai đoạn 3: Từ năm 1960 đến nay.
Xu hướng nghiên cứu: phương pháp kết hợp.
Lấy thị trường là tiêu điểm của nghiên cứu và ứng dụng
khoa học quản lý.
SƠ ĐỒ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC QUẢN LÝ
Giai đoạn 3:
Từ 1960
đến nay
Nền tảng xã hội
Giai đoạn 2:
Từ 1930 - 1960
Thị trường chấp nhận đó
là sản phẩm tốt
Nền tảng tập thể
Giai đoạn 1:
Cuối TK 18-1930
Cái gì tốt cho công ty
tôi thì sẽ tốt cho xã hội
Nền tảng cá nhân
Quan điểm: Cái gì tốt
cho tôi thì sẽ tốt cho XH
1.2.2. MỘT SỐ TRƯỜNG PHÁI KHOA HỌC QUẢN LÝ CHỦ
YẾU:

1.2.2.1. Một số trường phái khoa học quản lý tiền hiện đại
Trường phái cổ điển : Từ cuối thế kỷ XIX đến 1930
Trường phái này bao gồm 2 nhánh chính :
Nhánh thứ nhất : Học thuyết quản lý theo khoa học do Frederick
Winslow Taylor (Mỹ) chủ xướng
Nhánh thứ hai : Học thuyết quản lý tổng quát hay học thuyết tổ chức
cổ điển do Henri Fayol (châu Âu) đề xướng
Với Học thuyết quản lý theo khoa học, họ đưa ra 4 nguyên tắc cơ bản
để quản lý theo khoa học đó là:
Thứ nhất: Khám phá những nhân tố cơ bản tạo ra tác dụng trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Điều này khác với trước đó chủ
yếu dùng chủ nghĩa kinh nghiệm.
Thứ hai: Xác định chức năng định hướng kinh doanh là của chủ thể
quản lý. Việc này khác với trước là hoạt động của đơn vị
kinh
tế hoàn toàn tự phát.
Thứ ba: Đào tạo và chọn lựa lao động một cách tỷ mỷ, khuyến khích
hợp tác trong lao động thay vì mặc ai lấy làm.
Thứ tư: Phân chia rõ chức năng quản lý và chức năng thừa hành trong
sản xuất.
Học thuyết này đã đóng góp đáng kể cho khoa học quản lý, nó đưa
việc nghiên cứu quản lý trở thành một đối tượng của nghiên cứu khoa học.
Đồng thời vạch ra được những vấn đề cơ bản trong quản lý như phân chia
được chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, chỉ rõ quản lý là sự phối kết hợp
một cách tốt nhất các nhân tố trong sản xuất.
Tuy nhiên học thuyết này cũng có những nhược điểm sau:
Thứ nhất: Thiếu tính nhân bản, coi lao động (người lao động) chỉ là
một bộ phận trong guồng máy sản xuất và tìm mọi cách tận
dụng nó (tăng cường bóc lột người thợ).
Thứ hai: Việc nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở mức độ cụ thể.

Thứ ba: Nghiên cứu ở tầm chi tiết, cơ sở.
Cùng trong học thuyết này còn có Hersry L Gantt (1861 - 1919) đóng
góp được 2 điều:
- Bổ sung hệ thống trả lương theo sản phẩm bằng hệ thống tiền thưởng.
- Biểu đồ Gantt dễ hiểu và có nhiều tác dụng đối với các ngành kỹ
thuật.
Học thuyết hành chính tổng quát.
Henri Fayol (1841 - 1925) là tác giả chính của học thuyết này, ông đưa
ra 5 chức năng của quản lý bao gồm: hoạch định, tổ chức, điều khiển, phối
hợp và kiểm soát. Ngoài ra ông cũng đưa ra 14 nguyên tắc quản lý sau:
- Chuyên môn hóa lao động.
- Quan hệ quyền hành trong hệ thống quản lý.
- Kỷ luật lao động.
- Thống nhất chỉ huy (thống nhất mệnh lệnh).
- Thống nhất lãnh đạo.
- Lợi ích cá nhân được đảm bảo dựa trên lợi ích chung.
- Thù lao tương ứng giữa các cấp.
- Tập trung thẩm quyền.
- Nguyên tắc trật tự.
- Nguyên tắc phối hợp.
- Nguyên tắc công bằng.
- Ổn định công việc.
- Khuyến khích sáng kiến.
- Tinh thần đồng đội tạo sự thống nhất trong quản lý.
Trong học thuyết này có Max Weber (1861 - 1920) và Cliester
Barnard (1886 - 1961).Đưa tổ chức theo hình chóp nón, tạo sự thống nhất
trong điều khiển hoạt động.
Tuy nhiên học thuyết này cũng có nhược điểm sau:
- Không chú trọng đến yếu tố con người và xã hội, mang sắc thái quan
liêu mệnh lệnh.

Nói chung trường phái cổ điển đã phác thảo những vấn đề cơ bản ban
đầu cho việc nghiên cứu khoa học quản lý dù mới chỉ dừng lại ở bước khởi
đầu tựa như hệ thống các kinh nghiệm được đúng kết ra từ cuộc sống, nhưng
nó lại là nhưng tiền đề cần thiết để chúng ta tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng
trong thực tiễn sau này.
Trường phái tác phong:
Trường phái này cho rằng quản lý là công việc tiến hành thông qua
con người. Ngoài ra trường phái này cũng nhấn mạnh: Năng suất lao động
không chỉ do yếu tố vật chất quyết định mà còn do nhu cầu tâm lý xã hội
quyết định.
Các đại diện chủ yếu của trường phái này là: Lislian Gilbrreth, Hugo
Munsterberg, Mary Parker Follef.
Trường phái tác phong cho rằng doanh nghiệp cũng là một hệ thống
xã hội.Việc động viên, khuyến khích trong sản xuất cho người lao động
không chỉ bằng yếu tố vật chất mà còn phải hài hòa với yếu tố tinh thần của
người lao động. Họ cũng chỉ ra rằng tập thể có ảnh hưởng lớn đến cá nhân cả
về tác phong, kỷ luật, tâm lý... Người lãnh đạo ngoài nhiệm vụ tổ chức sản
xuất phải quan tâm cả đến vấn đề tâm lý của người lao động.
Tuy nhiên trường phái tác phong chỉ như một trường phái bổ xung
cho trường phái cổ điển và vai trò của con người được trường phái nêu ra mới
dừng lại ở sự khép kín trong quan hệ nội bộ chưa tính đến sự tác động của
môi trường xã hội.
Trường phái hệ thống:
Phương pháp hệ thống đã được nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin sử
dụng từ lâu. Chính C. Mác đã sử dụng phương pháp này để nghiên cứu hệ
thống các quan hệ kinh tế tư bản trong bộ Tư bản nổi tiếng của ông. Từ giữa
thập kỷ 30 ÷ 40 của thế kỷ XX,các nhà nghiên cứu khoa học phương Tây
đánh giá rất cao giá trị của phương pháp này. Trong lĩnh vực khoa học quản
lý, trường phái hệ thống tìm cách phân tích tổ chức quản lý thông qua phương
pháp tiếp cận hệ thống. Hệ thống được hiểu là tập hợp các thành phần trực

thuộc và tương tác với nhau để tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Thay vì
việc nghiên cứu riêng lẻ các thành phần khác nhau của tổ chức, người quản lý
cần xem xét toàn bộ tổ chức như một chỉnh thể nằm trong một môi trường cụ
thể với các nhân tố tác động lên tổ chức này. Lý thuyết hệ thống cho rằng
hoạt động của bất kỳ thành phần nào của hệ thống đều tác động và ảnh hưởng
đến các thành phần khác của toàn hệ thống.
Trường phái hệ thống chú trọng đến tính năng động và tác động giữa
các bộ phận trong hệ thống. Từ đó nó cho phép nhà quản lý một đề cương để
soạn thảo các chương trình hành động của mình. Ngoài ra phương pháp phân
tích hệ thống còn giúp nhà quản lý duy trì sự cân đối giữa các bộ phận trong
hệ thống,giữa đầu vào và đầu ra của toàn hệ thống.
SƠ ĐỒ HỆ THỐNG SẢN XUẤT KINH DOANH
Các
yếu tố
sản
xuất
Đầu vào
(in put)
Môi trường
quá trình
SXKD
Môi trường
Đầu ra
(Output)
sản phẩm
dịch vụ
Trường phái định lượng.
Chủ trương của lý thuyết định lượng thể hiện trong câu: quản lý là
làm quyết định. Việc áp dụng các tiến bộ của ngành điện toán để giải bài toán
mô hình phức tạp là phương tiện để đưa ra các quyết định với kết quả tối ưu.

Điều cần lưu ý là quan điểm định lượng không đưa ra các quyết định trong
quản lý mà nó đưa ra cơ sở định lượng để giúp cho nhà quản lý ra quyết
định.
Thực ra trường phái định lượng là sự nối tiếp của trường phái cổ điển
nhưng dựa vào các công cụ toán học để lượng hóa các yếu tố sản xuất làm
căn cứ ra các quyết định mà thôi.
Trường phái định lượng không chú trọng đến yếu tố con người trong
tổ chức quản lý. Và kỹ thuật để sử dụng nhiều khi quá phức tạp vượt ra ngoài
khả năng quản lý trong việc đưa ra các quyết định nhanh.
Tóm lại, các trường phái về khoa học quản lý nêu trên đều đang được
các công ty ngày nay sử dụng trong quản lý, nó được phối hợp một cách hài
hòa trong hoạt động quản lý của các doanh nghiệp. Tuỳ từng hoàn cảnh mà
doanh nghiệp sử dụng phương pháp này hay phương pháp khác,nhưng đều
không thoát ly được các kỹ thuật mà các lý luận gia của các trường phái quản
lý tiền hiện đại nêu ra. Tuy nhiên tất cả các trường phái này vẫn có một điểm
chung là xem xét hoạt động của doanh nghiệp dựa vào hoạt động của chính
nó, chưa thực sự coi hoạt động của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn bởi sự
điều tiết tích cực của môi trường,đặc biệt là các doanh nghiệp đang hoạt động
trong cơ chế thị trường với nhiều tác động ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Một số trường phái khoa học quản lý hiện đại
Có nhiều trường phái nghiên cứu khoa học quản lý khác nhau. Mỗi
trường phải đều có những ưu nhược điểm riêng có của mình và đều có những
đóng góp đáng kể vào sự phát triển của khoa học quản lý nói riêng và với sự
phát triển của nhân loại nói chung. Chính những khiếm khuyết của các trường
phái trước đây sẽ được bù đắp ở trong lý thuyết của các trường phái quản lý
kinh tế hiện đại. Và ngược lại, tất cả các cống hiến của các trường phái đó
đều được lưu lại như là một bộ phận cấu thành đương nhiên của khoa học
quản lý hiện đại. Chính vì vậy, các trường phái khoa học quản lý kinh tế hiện
đại được đề cập đến sau đây chính là sự kế thừa và phát triển khoa học quản

lý của nhân loại.
Trường phái - Tiến trình quản lý:
Trường phái này được xây dựng từ 1960, với tác giả chính là Harold
Koontz và các cộng sự đã tổng hợp các lý thuyết quản lý của các trường phái
trước đó, đặc biệt dựa vào nền tảng lý thuyết của Henri Fayol (trường phái cổ
điển - hành chính tổng quát). Nếu các trường phái tiền hiện đại cũng đã nêu
ra được các yếu tố của quản lý nhưng rời rạc, thì ngược lại Học thuyết này lại
đặc biệt quan tâm đến sự phối kết hợp các yếu tố của quản lý: hoạch định, tổ
chức, bố trí nhân sự, lãnh đạo, kiểm soát. Ngoài ra tác giả của học thuyết đặc
biệt chú ý đến vấn đề thực hành để từ đó có căn cứ tạo ra các lý thuyết kết
hợp các yếu tố cần quản lý. Nói tóm lại tinh thần của học thuyết chính là sự
xem xét quản lý trong một thể thống nhất của các yếu tố quản lý. Sự tác động
qua lại giữa các yếu tố cấu thành chính là sự hoàn thiện của quản lý, phải
xem xét quản lý trong trạng thái động và biến đổi không ngừng.
Trường phái - Tình huống ngẫu nhiên:
Fiedler là tác giả đại diện cho trường phái này còn gọi là trường phái
quản lý theo điều kiện ngẫu nhiên. Đây là trường phái được nhiều nhà quản lý
hiện đại quan tâm. Trường phái này cho rằng muốn quản lý hiệu quả phải
căn cứ vào từng tình huống cụ thể. Cơ sở của nhận thức trong quản lý của
trường phái này rất phù hợp với thực tiễn,bởi trong thực tiễn có rất nhiều tình
huống khác nhau, hình thức có thể giống nhau nhưng không thể có một khuôn
mẫu quản lý cố định. Dựa trên cơ sở những vấn đề cơ bản của quản lý để vận
dụng trong thực tế sao cho phù hợp với từng tình huống, hoàn cảnh cụ thể.
Đây thực sự là một bước đột phá trong tư tưởng và cần được các nhà quản lý
hiện đại tiếp nhận để vận dụng một cách khoa học trong thực tiễn.
Thuyết Z và kỹ thuật quản lý của Nhật Bản.[2,5-19]
Với tác phẩm "Thuyết Z: làm thế nào để các doanh nghiệp Mỹ đáp
ứng được sự thách đố của Nhật" xuất bản năm 1981. William Ouchi đã xây
dựng lý thuyết của mình trên cơ sở hợp nhất hai mặt của một doanh nghiệp đó
là: Vừa tổ chức hoạt động kinh doanh có khả năng tạo ra lợi nhuận, vừa là

cộng đồng sinh hoạt đảm bảo cuộc sống cho mọi thành viên của doanh
nghiệp. Chính vì vậy cần phải chú trọng đến việc tạo mọi điều kiện cho các
thành viên các quyền lợi có thể. Thuyết Z đặc biệt quan tâm đến quan hệ xã
hội và yếu tố con người trong tổ chức. Cộng với yếu tố cải tiến trong hoạt
động coi đó là chìa khóa cho mọi thành công của doanh nghiệp.
Tóm lại : các trường phái khoa học quản lý hiện đại đã đưa ra được
nhiều luận điển xác đáng và thiết thực cho việc vận dụng chúng vào hoạt
động thực tế.Công nghệ quản lý kinh tế hiện đại và công nghệ quản lý ngân
hàng hiện đại được nghiên cứu dưới đây cũng dựa vào những tinh thần cơ bản
của các trường phái khoa học quản lý hiện đại để thể hiện nội dung cần
nghiên cứu.Những tinh thần cơ bản của các trường phái khoa học quản lý
hiện đại cần được lưu ý đó là :
Thứ nhất : Cần xem xét quản lý trong một thể thống nhất của các yếu
tố quản lý.
Thứ hai : Cần phải xem xét quản lý trong trạng thái động và biến đổi
không ngừng.
Thứ ba : Quản lý hiệu quả phải căn cứ vào từng tình huống cụ thể
trong thực tế.
Thứ tư : Cần quan tâm đến yếu tố con người trong thực tế quản lý.
Thứ năm : Đặc biệt cần quan tâm đến tác động của môi trường, xã hội
đến hoạt động quản lý.
1.3. CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ KINH TẾ HIỆN ĐẠI [9,21],
[39,80-82],[48,12-29]
1.3.1.KHÁI NIỆM CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ KINH TẾ HIÊN ĐẠI.
Trong quản lý kinh tế có nhiều vấn đề như : về nội dung được hiểu là
làm gì ? Về tổ chức: trả lời câu hỏi: ai làm, làm theo trình tự nào ? Về công
nghệ được hiểu là: làm như thế nào ? [9,21]Trong các vấn đề đó công nghệ
quản lý là vấn đề quan trọng nhất vì thông qua việc nghiên cứu công nghệ sẽ
cho ta thấy được tinh thần cơ bản của khoa học quản lý.Thông qua công
nghệ quản lý kinh tế mà chức năng, nhiệm vụ của quản lý được thực hiện

trong thực tiễn cuộc sống.
Công nghệ nói chung được hiểu là cách thức để con người tạo ra sản
phẩm phục vụ cho lợi ích của mình. Trong quản lý kinh tế,công nghệ quản lý
kinh tế là cách thức mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động vào đối tượng
quản lý trong quá trình sản xuất kinh doanh cuả các doanh nghiệp để thực
hiện các mục tiêu kinh tế được đề ra.
Công nghệ quản lý kinh tế luôn tác động đến con người, phản ánh mối
quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể và quan hệ giữa tập thể
với xã hội. Những quan hệ này rất sinh động với tất cả sự phong phú và phức
tạp của cuộc sống. Công nghệ quản lý kinh tế trực tiếp khơi dậy các động lực,
kích thích tính năng động sáng tạo của cá nhân và tập thể người lao động.
Công nghệ quản lý còn thể hiện được sự uyển chuyển, linh hoạt, biết thay đổi
trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, phù hợp với năng lực và kinh nghiệm
quản lý của chủ thể quản lý. Công nghệ quản lý thể hiện được qui luật,
nguyên tắc quản lý. Việc sử dụng công nghệ quản lý kinh tế là quá trình thực
hiện và sử dụng các nguyên tắc trong quản lý. Điều cần nhấn mạnh là: việc sử
dụng phải sáng tạo tránh máy móc, dập khuôn, cứng nhắc. Trong thực tế quản
lý, việc vận dụng sáng tạo công nghệ quản lý kinh tế chính là nhằm nâng cao
giá trị của công nghệ quản lý. Trong nhiều tình huống, hoàn cảnh cụ thể, việc
vận dụng sáng tạo công nghệ quản lý có tác dụng quyết định tới sự thành
công hay thất bại của chủ thể quản lý. Trong hoạt động thực tiễn, bên cạnh
những yếu tố tích cực, phù hợp với nội dung dự kiến của chủ thể quản lý
thường xuất hiện các hiện tượng, sự việc nằm ngoài dự kiến ban đầu của chủ
thể quản lý. Đòi hỏi phải sử dụng công nghệ quản lý một cách linh hoạt,nhằm
giảm thiểu các sự cố đó.Nói cách khác đi là các sự cố bất thường phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh phải trở thành một vấn đề đơn giản được
trù liệu trước trong hoạt động của chủ thể quản lý.
Sự phát triển của hoạt động kinh tế trên thế giới đã khách quan đòi hỏi
sự thay đổi cơ bản nội dung của công nghệ quản lý. Điều đó có nghĩa là hoạt
động của quản lý kinh tế không chỉ dừng lại ở việc tăng cường quản lý nội bộ

mà công nghệ quản lý kinh tế hiện đại yêu cầu lấy thị trường làm khâu trung
tâm quan trọng nhất của quá trình quản lý các hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Như vậy, công nghệ quản lý kinh tế hiện đại được
bắt đầu từ nhu cầu của thị trường, từ nhu cầu đó được nhà kinh doanh nắm
bắt để nghiên cứu, tổ chức sản xuất, phân phối hàng hoá và bán nó trên thị
trường nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Như vậy, công nghệ quản lý hiện
đại cho rằng: Hãy tổ chức quản lý các hoạt động của doanh nghiệp để cung
cấp những sản phẩm, dịch vụ mà thị trường cần chứ không phải bán những
sản phẩm mà mình đang có. Giai đoạn này, công nghệ quản lý đã thay đổi về
chất trong nội dung của nó. Tổng hợp lại công nghệ quản lý kinh tế hiện đại
chính là cách thức quản lý về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp,
từ việc phát hiện và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực
sự về một loại sản phẩm hàng hóa naò đó,nhằm mục đích cao nhất là làm
cho doanh nghiệp đạt được lợi nhuận tối đa. Hay nói một cách khác, công
nghệ quản lý kinh tế hiện đại là quá trình quản lý mang tính xã hội nhờ đó
mà doanh nghiệp có được những gì họ cần và mong muốn đạt được thông
qua việc tạo ra, chào bán và thực hiện sản phẩm trên thương trường. Như
vậy, công nghệ quản lý kinh tế hiện đại vừa là phương hướng, công cụ, vừa là
nguyện vọng của các doanh nghiệp, cho nên chúng là mối quan tâm lớn của
các nhà quản lý doanh nghiệp.
Thực ra công nghệ quản lý kinh tế hiện đại rất gần gũi với các hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp, bất cứ một doanh nghiệp nào đều đã
và đang nhận thức rõ việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho thật
ăn khớp giữa các khâu, điều phối sản xuất sao cho có kế hoạch, quảng cáo để
tiêu thụ tốt sản phẩm... Tất cả những vấn đề đó đều nằm trong nội dung của
công nghệ quản lý kinh tế hiện đại,chỉ có khác là các doanh nghiệp mới chỉ sử
dụng một phần, không đầy đủ các nội dung của chúng. Hơn nữa chưa coi hoạt
động của công nghệ quản lý kinh tế hiện đại là hoạt động tổng hợp, xuyên
suốt mọi hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt chưa thấy được chính thị
trường mới là tâm điểm của hoạt động quản lý của doanh nghiệp.Công nghệ

quản lý kinh tế hiện đại cần được xem như một thứ "triết lý" kinh doanh của
doanh nghiệp chứ không nên xem nó như là một chức năng độc lập, riêng
biệt.
1.3.2. NHỮNG NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ
KINH TẾ HIỆN ĐẠI.
Thứ nhất: Cần phải xử lý công việc theo cách nhìn của công
nghệ quản lý kinh tế hiện đại.
Có nhiều vấn đề liên quan đến công nghệ quản lý kinh tế hiện
đại. Nhưng nhận thức đầu tiên về nó là cần phải có cách nhìn theo
quan điểm mới. Nếu trước kia, bất kỳ một doanh nghiệp nào đều
muốn thực hiện được nhiều sản phẩm hiện có của mình. Trên cơ sở
đó lãnh đạo của doanh nghiệp ra các quyết định để thực hiện sản
phẩm. Họ quyết định thực hiện sản phẩm vào lúc nào, cho ai, lượng
là bao nhiêu... Như vậy doanh nghiệp đã thực hiện sản phẩm của
mình bằng con mắt của chính mình, bằng chính sản phẩm của mình,
không cần biết xem khách hàng họ mong muốn gì ở sản phẩm của
doanh nghiệp. Hay nói một cách khác là doanh nghiệp đã tiến hành
thực hiện sản phẩm theo cách nhìn sản phẩm hay cách nhìn bán
hàng. Các doanh nghiệp theo quan điểm này thường ít tính đến
những ý kiến của khách hàng. Họ tin tưởng rằng các nhân viên của

×