Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

nội dung của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đạI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.92 KB, 66 trang )

nội dung của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đạI
Kinh tế thị trường tạo ra bước nhảy vọt cho nền kinh tế xã hội.Trong
quá trình phát triển, kinh tế thị trường đã tạo ra một công nghệ quản lý kinh
tế mới, đó là công nghệ quản lý kinh tế hiện đại. Đến lượt mình, công nghệ
quản lý kinh tế hiện đại được các doanh nghiệp sử dụng tác động trở lại thị
trường làm cho hoạt động của kinh tế thị trường phát triển nhanh và mạnh
hơn trước, đưa hoạt động của nền kinh tế xã hội lên một tầm cao mới. Công
nghệ quản lý ngân hàng hiện đại kế thừa tất cả những vấn đề chung
của công nghệ quản lý kinh tế hiện đại. Tuy nhiên, ngành ngân hàng -
một ngành kinh doanh tiền tệ có những đặc điểm riêng có trong hoạt
động của chúng nên công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại mang một
số nét đặc trưng riêng có cần chú ý khi vận dụng chúng vào hoạt động
thực tiễn.
Việc nghiên cứu nội dung của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại để
có những nhận thức mới trong quản lý ngân hàng,đó là nội dung chủ yếu của
bài viết được làm rõ dưới đây.
2.1. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Nói đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nói riêng trong nền kinh tế thị
trường là nói đến sự cạnh tranh quyết liệt với vô vàn những rủi ro khó lường
trước có thể đến với họ. Nền kinh tế thị trường đúng là một trận địa đầy thách
đố đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Mỗi một
ngành kinh doanh đều có những đặc thù (đặc điểm) riêng có.Từ các đặc điểm này
có thể hiểu rõ hơn nội tại của ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế thị
trường,đồng thời cũng là cơ sở để phân tích các vấn đề liên quan đến nội dung
của bài viết. Dưới đây bài viết tập trung tìm hiểu về các đặc thù (đặc điểm) các
321hoạt động của các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
2.1.1.NHỮNG NÉT ĐẶC THÙ (ĐẶC ĐIỂM) TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Thứ nhất: Về nguyên liệu kinh doanh của ngân hàng thương mại.


Tiền là "nguyên liệu" chính trong hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng
thương mại. Khách hàng đến ngân hàng để gửi tiền, vay tiền,thanh toán... các
nghiệp vụ đó đều không thoát ly được đồng tiền. Trong khi đó, tiền là loại
"nguyên liệu" được phổ cập đại chúng. Có thể nói rằng không có người nào
trong cuộc sống của mình mà không dùng tới tiền. Cho nên, tiền được toàn xã
hội quan tâm. Đây chính là một loại hàng hóa mang tính xã hội hóa cao nhất
trong các loại hàng hóa mà con người cần thiết tiêu dùng trong cuộc sống. Nếu
các hàng hóa khác chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận nào đó của xã hội thì
ngược lại tiền lại có sức ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đến toàn bộ các hoạt
động của toàn xã hội. Nó không chỉ ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh tế mà còn lan
truyền đến cả các lĩnh vực khác như văn hóa, chính trị, xã hội. Chỉ một biến
động nhỏ có liên quan đến tiền như lãi suất, tỷ giá hay sự tăng giảm của giá trị
đồng tiền... đều có những ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh tế xã hội nói
chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nói riêng. Điều này
thấy rõ nhất trong thực tiễn khi giá cả của hàng hóa tăng lên có nghĩa là giá
trị đồng tiền giảm xuống và nếu ở mức độ lớn thường xảy ra hiện tượng số dư
tiền gửi trong ngân hàng giảm xuống do nhiều người rút tiền khỏi ngân hàng,
đi đôi với hiện tượng tăng chậm hoặc giảm số tiền có thể huy động vào ngân
hàng. Tính nhậy cảm của tiền còn gây nên một tâm lý xã hội như tin đồn thất
thiệt về kinh doanh tiền tệ như: khả năng phá giá đồng tiền, đổi tiền... đều gây
ra những đột biến các hoạt động liên quan tới tiền,đặc biệt là các hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Như cơn lốc huê hụi năm 1992 với sự mất tín
nhiệm của một vài hợp tác xã tín dụng cũng đủ làm mất đi cả một hệ thống
hợp tác xã tín dụng mà Nhà nước mất bao công sức xây dựng trong suốt mấy
chục năm.
Ngoài tầm của kinh tế, có thể lấy ví dụ về sự đổ bể tín dụng ở An-ba-ni
đầu năm 2000 dẫn đến tình hình hỗn loạn tới mức Chính phủ không thể kiểm
soát được hoạt động của xã hội,dẫn đến bạo loạn lật đổ chính quyền.
Ảnh hưởng của tiền tệ ngày nay không chỉ giới hạn ở một vùng, một
quốc gia nào đó. Ngày nay do nền kinh tế đã phát triển tới mức quốc tế hóa

hoạt động kinh tế thì biến động tiền tệ ở một nước không chỉ ảnh hưởng đến
nước đó, đến khu vực mà còn mở rộng ra phạm vi rộng lớn trên toàn thế giới.
Ví dụ như cuộc khủng khoảng tiền tệ ở Đông Nam Á năm 2000, xuất phát điểm
từ Thái Lan, lan sang các nước toàn khu vực mà Việt Nam cũng không phải
quốc gia có thể tránh được hậu quả của cuộc khủng hoảng này. Cuộc khủng
hoảng còn tiếp tục lan rộng ra các thị trường tài chính khác như Hồng Kông,
Nhật Bản, Nam Triều Tiên... Mà không phải dễ gì dập tắt được dù cho các
nước tập trung nhiều công sức với sự hỗ trợ hàng trăm tỷ đô la của Quĩ tiền tệ
Quốc tế IMF.
Thứ hai: Về dịch vụ của ngân hàng.
Nói đến hoạt động của các ngân hàng thương mại người ta nghĩ ngay
đến nguồn tín dụng, nơi cung cấp phương tiện thanh toán. Nhưng dịch vụ của
ngân hàng ngày nay đã được mở rộng ra rất nhiều từ việc tham gia mua cổ
phiếu của các công ty cổ phần, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh địa ốc, tín
dụng thuê mua, thông tin kinh tế, thông tin phòng ngừa rủi ro... Ở các ngân
hàng tiên tiến trên thế giới các dịch vụ "mới" có thể đem lại cho hoạt động
kinh doanh của họ từ 60 - 70% lợi nhuận thu được hàng năm. Như vậy sản
phẩm của ngân hàng thương mại ngày nay được hiểu là những dịch vụ
mà ngân hàng có thể tạo ra để cung cấp theo nhu cầu của khách hàng.
Cần lưu ý vấn đề này như là một phương tiện mở rộng hoạt động kinh doanh
của ngân hàng.
Một điểm cần lưu ý : dịch vụ của ngân hàng rất dễ bị bắt chước. Nếu
ngân hàng vừa tổ chức thực hiện một loại dịch vụ nào đó có hiệu quả thì rất
nhanh các ngân hàng khác có thể thực hiện ngay dịch vụ đó nếu họ muốn.
Có nhiều dich vụ của ngân hàng gắn chặt chẽ với yếu tố thời
gian. Chúng ta biết rằng với nhiều sản phẩm các ngành kinh doanh khác là
"tiền trao, cháo múc" có nghĩa là yếu tố thời gian không ảnh hưởng gì đến giá
cả của sản phẩm (chỉ có một số là có sự phân biệt nhưng không coi là một yếu
tố tăng giá). Nhưng trong nhiều dịch vụ chính của ngân hàng yếu tố thời gian
lại thực chất là yếu tố thực hiện giá trị của sản phẩm. Ngân hàng cho các

doanh nghiệp vay tiền có nghĩa là ngân hàng đã bán quyền sử dụng số lượng
tiền vay đó cho doanh nghiệp nhưng không bán quyền sở hữu chúng (các sản
phẩm khác được bán cả quyền sở hữu và quyền sử dụng). Giá cả bán quyền sử
dụng lại liên quan trực tiếp đến thời gian sử dụng sản phẩm, chính vì vậy yếu
tố thời gian thực sự là yếu tố vật chất gắn liền với việc thực hiện giá trị dịch vụ
của ngân hàng.
Ở trên chúng ta cũng đã biết dịch vụ của ngân hàng rất đa dạng và
phong phú. Tuy nhiên, với quá trình kinh doanh lâu năm,các dịch vụ của ngân
hàng trên thương trường đều đã "cũ" đi cả về nội dung lẫn kỹ thuật nghiệp vụ.
Khái niệm dịch vụ mới của ngân hàng tương đối khác so với các ngành kinh tế
khác. Dịch vụ mới không phải là dịch vụ trước đó chưa ngân hàng nào có để
cung cấp cho xã hội, mà dịch vụ mới của ngân hàng là dịch vụ mà ngân
hàng có thể lựa chọn đưa ra thị trường trước các đối thủ cạnh tranh. Ví
dụ: dịch vụ chiết khấu kỳ phiếu, đây có thể coi là dịch vụ mới với hoạt động của
các ngân hàng thương mại quốc doanh ở Việt nam,dù rằng dịch vụ này quá
“cũ” đối với hoạt động của ngân hàng.
Thứ ba: Về khách hàng của ngân hàng.
Hoạt động của ngân hàng nhiều khi bị lầm lẫn như là một dịch vụ công
cộng do hoạt động của ngân hàng thu hút được một số lượng đông đảo khách
hàng (như dịch vụ gửi tiền tiết kiệm, thanh toán...). Hoạt động “công cộng” này
càng gia tăng hơn cùng với việc hiện đại hóa ngân hàng dẫn đến hầu như mọi
người đều phải qua ngân hàng thực hiện việc gửi và rút tiền như tiền lương, tiền
bảo hiểm xã hội, thanh toán các loại dịch vụ: điện, nước... đến việc thanh toán các
khoản tiêu dùng thông qua tiền điện tử. Trong điều kiện đó, khối lượng khách
hàng của ngân hàng thương mại được tăng lên vô cùng lớn.
Khách hàng của ngân hàng đông đảo cả khách hàng mua (tín dụng,
thuê mua...) lẫn khách hàng bán (tiền gửi, thanh toán...). Do mỗi khách hàng có
nhiều nhu cầu khác nhau cần được ngân hàng phục vụ, nên rất nhiều khách
hàng là hiện thực với dịch vụ nào đó của ngân hàng lại là khách hàng tiềm ẩn
đối với loại dịch vụ khác của nó.

Thứ tư: Về tiềm lực vốn của ngân hàng.
Vấn đề tiềm lực vốn,đặc biệt là vốn điều lệ của ngân hàng phải được
đặt lên hàng đầu bởi các nguyên nhân sau:
- Tiềm lực vốn của ngân hàng tạo ra tiềm lực dịch vụ trực tiếp.
Nguồn vốn của ngân hàng phần lớn là nguồn vốn đi vay để cho vay.
Nhưng nguồn vốn huy động của ngân hàng không phải là vô hạn,bởi lẽ việc
huy động vốn của ngân hàng bị giới hạn trực tiếp bởi tiềm lực vốn, điều này có
liên quan trực tiếp đến độ an toàn tiền gửi của dân cư. Chính vì vậy, thông
thường Nhà nước thông qua các qui định của pháp luật để ấn định một mức
vốn huy động nhất định theo số vốn tự có của ngân hàng. Ví dụ: theo pháp lệnh
ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ban hành ngày 24/5/1993;
Điều 23 chương IV có qui định: "Tổ chức tín dụng không được huy động vốn
quá 20 lần tổng số vốn tự có và quĩ dự trữ"[46]. Rõ ràng tiềm lực vốn càng lớn
các ngân hàng càng có thể huy động nhiều vốn và cho vay ra để thu được nhiều
lợi nhuận hơn lên.
- Tiềm lực vốn tạo ra khách hàng.
Như trên đã nói tiềm lực vốn của ngân hàng càng lớn càng có điều kiện
tạo ra nhiều dịch vụ trực tiếp. Có nhiều nguồn vốn là cơ sở để ngân hàng có
thể thu hút được nhiều khách hàng đến với mình. Hơn thế tiềm lực vốn lớn các
ngân hàng có điều kiện hiện đại hóa ngân hàng đó cũng là điều kiện để mở
rộng hoạt động của ngân hàng, thu hút đông đảo khách hàng đến với ngân
hàng
- Tiềm lực vốn tạo ra uy tín:
Trong thực tiễn đời sống xã hội, câu nói: "Trông giỏ bỏ thóc" được thể
hiện khá rõ nét qua hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khách hàng thường
nhìn vào các ngân hàng lớn (cả về vốn kinh doanh và cơ sở vật chất cố định) để
đầu tư vốn hay thực hiện các quan hệ làm ăn với ngân hàng, nhiều vốn ngân
hàng càng thu hút được nhiều khách hàng, điều đó trở lại càng làm tăng thêm
uy tín của ngân hàng.Như vậy, tiềm lực vốn của ngân hàng không những tạo ra
dịch vụ trực tiếp cho ngân hàng, tạo ra khách hàng và tạo ra cả uy tín cho nó hoạt

động.
Thứ năm: Về môi trường kinh doanh của ngân hàng.
Nếu có thể gọi tên môi trường kinh doanh của đại đa số các doanh
nghiệp nói chung là môi trường kinh doanh “mở” thì môi trường kinh doanh
của ngân hàng là môi trường kinh doanh “đóng”, bởi vì việc kinh doanh trên
các lĩnh vực khác thông thường chỉ lệ thuộc vào pháp lý ở hai điểm: thuế, luật
doanh nghiệp và một số qui định khác về môi trường, bảo hiểm... Nhưng với
hoạt động của các ngân hàng, ngoài các qui định chung đó ra còn có hàng loạt
các qui phạm pháp luật khác qui định các giới hạn hoạt động của chúng. Từ
mức độ vốn ban đầu đến khối lượng vốn được huy động, từ dịch vụ đến lãi
suất, từ khối lượng tín dụng đến cơ cấu đầu tư... Gần như mọi hoạt động của
ngân hàng đều có những qui phạm riêng của pháp luật qui định. Cần phải nói
rằng phần lớn các qui định này nhằm hạn chế các hoạt động "tự do" của ngân
hàng. Rõ ràng hoạt động kinh doanh của ngân hàng "hẹp" hơn nhiều so với
hoạt động kinh doanh của các ngành kinh tế khác do môi trường kinh tế
"đóng" tạo ra.
Ngoài ra, ngân hàng còn nằm trong hệ thống tài chính quốc gia chung.
Do đó, nó còn bị điều tiết trong chiến lược tiền tệ chung của Nhà nước hoặc
phải thực hiện các chính sách khác của Chính phủ nhiều khi không được đặt lợi
nhuận lên trên hết như các doanh nghiệp thông thường khác mà phải đặt lợi
ích xã hội lên trên lợi ích của ngân hàng (điều này đặc biệt đúng với các ngân
hàng thương mại quốc doanh).
Thứ sáu: Về nghiệp vụ và kỹ thuật nghiệp vụ
So với các ngành kinh tế khác thì ngành ngân hàng có nghiệp vụ khá
bảo thủ. Từ vài trăm năm nay các nghiệp vụ ngân hàng gần như không thay
đổi. Vẫn là nghiệp vụ cho vay, thu nợ trong hoạt động tín dụng. Với séc, uỷ
nhiệm chi, thư tín dụng... trong thanh toán. Nhưng ngược lại, về kỹ thuật
nghiệp vụ hay còn gọi là công nghệ của ngân hàng lại luôn là vấn đề thời sự
nóng bỏng trong sự mong muốn vươn lên của các ngân hàng thương mại.
Thậm chí việc hiện đại hóa công nghệ ngân hàng được xem như là điều sống

còn của các ngân hàng thương mại trong quá trình tồn tại và phát triển. Điều
đó làm cho các ngân hàng phải có chiến lược lâu dài trong việc hiện đại hóa
công nghệ ngân hàng bởi hai lý do:
- Công nghệ tiên tiến thường xuyên thay đổi. Có nhiều kỹ thuật mới có
thể ứng dụng cùng một lúc.
- Việc thay đổi công nghệ ngân hàng thường khá tốn kém nhiều khi
vượt quá khả năng tài chính hiện có của mỗi ngân hàng thương mại.
Cho nên việc đưa công nghệ mới vào hoạt động ở các ngân hàng
thương mại phải được xem xét trong một định hướng xuyên suốt, trong một
quá trình lâu dài, tránh tình trạng tuổi thọ của công nghệ được phát huy tác
dụng ngắn, công nghệ được áp dụng chưa thực sự tiên tiến và việc đổi mới
công nghệ chưa thực sự phù hợp với khả năng tài chính của ngân hàng.
Việc nghiên cứu các đặc điểm của hoạt động ngân hàng cho phép
chúng ta có cơ sở để phân tích các vấn đề liên quan đến các hoạt động của
chúng mà trước hết là các yếu tố liên quan đến khả năng cạnh tranh cũng như
rủi ro của ngân hàng.
2.1.2. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng thương mại.
Về cảm quan bên ngoài, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại khá bình lặng, không thấy có sự cạnh tranh trực tiếp như các hoạt
động kinh doanh của các ngành kinh tế khác. Nhiều người lầm tưởng hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thương mại rất dễ chịu. Chỉ việc treo biển
huy động vốn và lãi suất được thị trường ấn định là có thể hoạt động ngân
hàng. Trong thực tế, đằng sau sự phẳng lặng đó là những đợt sóng ngầm có
thể nhấn chìm tức khắc các ngân hàng một khi họ không nhậy cảm hoặc không
có những đối sách có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh quyết liệt đó. Nếu
sự cạnh tranh của các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường mà
những qui luật hoạt động của nó được mọi người biết đến như là lẽ đương
nhiên của hoạt động trên thương trường, thì kinh doanh trong lĩnh vực ngân
hàng tính cạnh tranh còn được nhân lên gấp bội. Dưới đây là một số nhân tố

làm tăng thêm tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại.
Sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh được chi phối bởi các đặc
điểm hoạt động của các ngân hàng thương mại đã được nêu lên ở phần trên.
Chúng ta biết rằng: "nguyên liệu" của hoạt động kinh doanh của ngân hàng là
tiền. Đó là loại "nguyên liệu" có tính xã hội hóa và tính nhậy cảm rất cao, chỉ
một biến động nhỏ của nó cũng có những ảnh hưởng vô cùng to lớn đến hoạt
động của toàn xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
nói riêng. Từ đặc điểm này, chúng ta thấy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
càng trở lên quyết liệt. Ở các ngành kinh tế khác, nếu cùng kinh doanh một
loạt sản phẩm như nhau, giá cả của sản phẩm thuộc doanh nghiệp đang được
xã hội thừa nhận ở một mức nào đó và đang được tiêu thụ mạnh. Nếu như
doanh nghiệp khác muốn cạnh tranh bằng cách hạ thấp giá bán với doanh
nghiệp đó,thì việc hạ giá này đương nhiên có ảnh hưởng đến mức tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp nhưng không phải ngay lập tức mà phải có một thời
gian nhất định để xã hội kiểm chứng trước hết về mặt chất lượng sau đó mới
là quá trình xâm nhập dần đến thay thế sản phẩm của doanh nghiệp đã được
xã hội thừa nhận trước đó. Nhưng trong hoạt động của ngân hàng thương
mại, chỉ cần có sự thay đổi một chút về lãi suất là khách hàng có thể lập tức
thay đổi quan hệ giữa ngân hàng này chuyển qua ngân hàng khác.
Nếu "nguyên liệu" của ngân hàng làm tăng tính cạnh tranh trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng thì đặc điểm về dịch vụ của nó cũng làm cho
tính cạnh tranh giữa các ngân hàng càng được thể hiện rõ nét hơn. Nếu các
ngành kinh tế khác nói chung tạo ra được một sản phẩm mà xã hội thừa nhận
đương nhiên họ có một khoảng thời gian tương đối dài để khai thác nó tạo ra
một khoản lợi nhuận cho mình. Ngược lại hoạt động của ngân hàng không
được như vậy, nếu có một ngân hàng thương mại nào đó tạo ra được một dịch
vụ được xã hội ưa chuộng,thì gần như ngay lập tức trong một khoảng thời
gian rất ngắn các ngân hàng khác có thể thực hiện dịch vụ đó,làm phân tán
mức độ ưu chuộng của xã hội với dịch vụ, đồng thời với quá trình đó là việc

phân tán lợi nhuận của ngân hàng. Sự cạnh tranh này khá phổ biến và xảy ra
thường xuyên giữa các ngân hàng thương mại do đặc điểm: dịch vụ của ngân
hàng rất dễ bị bắt chước tạo nên.
Rõ ràng là tính nhậy cảm của "nguyên liệu", tính dễ bị bắt chước của
dịch vụ ngân hàng đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự cạnh tranh của hoạt động
ngân hàng.
Nếu các đặc điểm trên tạo nên tính cạnh tranh cao của ngân hàng có
thể được coi là các yếu tố bên ngoài thì đặc điểm về môi trường kinh doanh và
công nghệ của ngân hàng có thể được coi là những đặc điểm mang tính nội tại
làm tăng thêm mức độ cạnh tranh của ngân hàng. Chúng ta biết rằng ngân
hàng kinh doanh trong môi trường kinh tế “đóng”. Nó bị hạn chế nhiều so với
các ngành kinh doanh khác. Nhiều ngân hàng phải nản lòng trước các qui định
chặt chẽ của khuôn khổ pháp luật. Nếu các ngành kinh doanh khác được kinh
doanh khá thoải mái bởi hành lang hoạt động tương đối rộng, trong khi đó các
hoạt động của ngân hàng bị giới hạn đến mức nếu ngân hàng không khéo xoay
sở thì sẽ rất khó thực hiện công việc kinh doanh của mình. Trong một không
gian “hẹp” đó các ngân hàng cùng phải hoạt động, vươn lên để tồn tại và phát
triển thì sự cạnh tranh càng mang tính sống còn.
Công nghệ ngân hàng hiện đại đòi hỏi phải được đặt lên hàng
đầu trong sự cạnh tranh khốc liệt trong hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng nhưng nó còn căng thẳng hơn khi biết rằng việc đổi mới công
nghệ đòi hỏi một lượng vốn lớn đầu tư cho nó. Việc thúc đẩy của xã hội với việc
đổi mới kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng trong một khả năng tài chính căng
thẳng càng làm cho sự cạnh tranh trong kinh doanh của các ngân hàng được
nhân lên gấp bội.
Tất cả những vấn đề nêu trên cho chúng ta một cái nhìn tổng
quan về hoạt động của ngân hàng: đó là một ngành kinh doanh có hoạt
động cạnh tranh mãnh liệt ngoài những cạnh tranh thuần thuý như các
ngành kinh doanh khác.
2.1.3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng

thương mại.
Rủi ro trong kinh doanh tồn tại trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Tuy
nhiên, rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngành ngân hàng có nhiều điểm khác
biệt với các ngành kinh doanh khác cả về nguyên nhân cũng như về mức độ.
Rủi ro trong kinh doanh được hiểu là những thiệt hại trong kinh
doanh có thể có nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh.
Từ khái niệm trên, chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Không được coi tất cả các thiệt hại trong kinh doanh là rủi
ro trong kinh doanh. Chỉ có những thiệt hại nằm ngoài khả năng kiểm soát
trong quá trình kinh doanh mới có thể được coi là rủi ro trong kinh doanh. Có
nhiều người trong thực tiễn rất hay đánh đồng khái niệm này với khái niệm
thất thoát trong kinh doanh. Cần nhớ rằng hai khái niệm này hoàn toàn khác
nhau nhưng có thể cộng hai khái niệm này thành khái niệm về thiệt hại trong
kinh doanh có nghĩa là:
Thiệt hại trong KD = Rủi ro trong KD + Thất thoát trong KD
Thứ hai: Mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý thực có
của đơn vị. Không thể coi rủi ro là những hoạt động bất khả kháng, coi rủi ro là
điều không thể tránh khỏi và để nó tự vận động. Cũng có nghĩa là rủi ro không
nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh. Rủi ro có thể hạn chế khi
tăng cường khả năng kiểm soát của đơn vị mà điều này lại phụ thuộc chủ yếu
vào trình độ quản lý của đơn vị kinh doanh.
Thứ ba: Rủi ro có nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, có
rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên,, nhưng dù là loại rủi ro nào đều có khả
năng phòng ngừa, tuy phương pháp có thể khác nhau.
Ngoài các rủi ro giống như các ngành kinh doanh khác gặp phải như :
Thiên tai, địch họa, mất mát, nhầm lẫn... Do các đặc điểm riêng có của mình
ngân hàng thường gặp các rủi ro sau đây:
Rủi ro về hoạt động kinh doanh tín dụng:
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó thường
chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả về khối

lượng công việc cũng như về mức độ tạo doanh lợi. Tỷ lệ thuận với nó là mức
độ rủi ro trong nghiệp vụ này chiếm phần lớn trong tổng mức rủi ro hoạt động
kinh doanh của ngân hàng vì các lý do sau đây:
Thứ nhất: Ngoài các rủi ro như các ngành kinh tế khác. Ngân hàng còn
bị rủi ro ngay cả khi đơn vị kinh tế có quan hệ tín dụng với ngân hàng bị rủi ro.
Khi các đơn vị kinh tế vay vốn của ngân hàng gặp rủi ro dẫn đến làm ăn thua
lỗ và không có khả năng trả nợ vốn vay cho ngân hàng. Như vậy ngân hàng đã
gặp rủi ro khi khách hàng của mình bị rủi ro. Rõ ràng khả năng gặp rủi ro của
ngân hàng đã được nhân lên gấp đôi.
Thứ hai: Khi đầu tư tín dụng (cho vay) có nghĩa là ngân hàng đã trao
quyền sử dụng tiền cho khách hàng. Mà khả năng kiểm soát quá trình sử dụng
tiền của ngân hàng là rất khó khăn bởi tính phức tạp của việc sử dụng tiền vay.
Lúc này hoạt động của ngân hàng như: "đem con bỏ chợ". Tiền ở trong "túi"
mình còn có thể gặp rủi ro nữa là nó đã ra khỏi tay của mình. Sự kiểm soát của
ngân hàng chỉ có giới hạn nên yếu tố rủi ro luôn thường trực đối với nghiệp vụ
này.
Thứ ba: Tiền là sản phẩm của ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ tín
dụng nhưng nó lại là mục đích của người vay khi đến ngân hàng vay vốn. Một
số doanh nghiệp làm ăn không đúng đắn khi vay được vốn là đã thực hiện
được mục tiêu của mình, họ không những chỉ muốn sở hữu quyền sử dụng
đồng tiền của ngân hàng giao cho mà còn muốn chiếm đoạt luôn quyền sở hữu
chúng. Với loại doanh nghiệp này rủi ro phát sinh ngay từ khi ngân hàng bắt
đầu thực hiện nghiệp vụ tín dụng đối với họ.
Rủi ro về lãi suất:
Rủi ro về lãi suất là loại rủi ro mang tính xã hội. Không chỉ có ngân
hàng mới gặp phải loại rủi ro này. Lãi suất trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng được xem như là loại giá cả của hàng hóa - tiền. Cũng như mọi loại
hàng hóa khác loại rủi ro về giá cả lên xuống bất thường trong việc kinh doanh
theo cơ chế thị trường là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, rủi ro về lãi suất - giá
cả trong hoạt động kinh doanh ngân hàng lại có nguy cơ sâu sắc hơn cả về

mức độ và khả năng phòng ngừa bởi các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Do đặc điểm hoạt động kinh doanh của ngân hàng lấy tiền
làm "nguyên liệu" chính và tiền cũng là sản phẩm chính của ngân hàng. Tiền tệ
là loại hàng hóa mang tính xã hội hóa rất cao - mà giá cả của hàng hóa tiền tệ
của ngân hàng được thể hiện qua lãi suất. Nếu đồng tiền mất giá thông
thường lãi suất ngân hàng cả vốn huy động và cho vay ra đều được ấn định ở
mức cao và khi nền kinh tế ổn định hay nói cách khác là đồng tiền ổn định thì
lãi suất được ấn định ở mức thấp. Chính yếu tố xã hội hóa cao của loại "nguyên
liệu"- tiền của ngân hàng làm tăng mức độ rủi ro của ngân hàng vì rất khó
kiểm soát được biến động lãi suất của dịch vụ ngân hàng.
Thứ hai: Với các sản phẩm của ngành kinh doanh khác, việc tìm ra qui
luật về biến động giá cả của hàng hóa tương đối dễ. Còn trong lĩnh vực kinh
doanh của ngân hàng không phải lúc nào cũng tìm ra được qui luật biến động
giá cả của dịch vụ ngân hàng. Điều đó làm cho rất khó quyết định mức giá cho
phù hợp với hoạt động kinh doanh.
Thứ ba: Thông thường các ngành kinh tế có thời gian thực hiện sản
phẩm tương đối ngắn nên yếu tố biến động giá có thể điều chỉnh được ngay.
Với dịch vụ của ngân hàng thì thời gian thực hiện thường là rất dài. Việc ấn
định giá lại được thực hiện ngay từ đầu quá trình thực hiện dịch vụ. Do thời
gian thực hiện dịch vụ ngân hàng kéo dài nên trong thời gian đó việc biến động
giá là điều rất dễ xảy ra và nguy cơ về rủi ro cũng được nhân lên cùng với thời
gian thực hiện dịch vụ.
Rủi ro tỷ giá:
Giống như rủi ro lãi suất, rủi ro về tỷ giá cũng thuộc loại rủi ro mang
tính xã hội hóa cao. Thậm chí còn cao hơn cả loại rủi ro về lãi suất. Bởi lẽ, phần
lớn nguyên ngân gây nên rủi ro về lãi suất thường mang tính "nội bộ" trong
nước. Rủi ro về tỷ giá có nguyên nhân trong phạm vi rộng hơn, mức độ ảnh
hưởng lớn hơn.
Ngày nay không ai phủ nhận quan hệ quốc tế trong hoạt động kinh tế.
Việc sử dụng đồng tiền nước ngoài trong quan hệ thanh toán quốc tế đã trở

thành phổ biến, rộng khắp. Chính nguyên nhân kinh tế đã làm thay đổi giá trị
đồng tiền của mỗi nước và là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ giá giữa các đồng
tiền bị thay đổi. Đặc biệt các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng
trước sau đó mới lan truyền sang các ngành kinh tế khác. Trên hết là sự ảnh
hưởng của tỷ giá tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng,vì ngân hàng là
trung tâm thanh toán của toàn xã hội.Với một đơn vị kinh doanh bị rủi ro về tỷ
giá đã là rất lớn trong khi ngân hàng thực hiện thanh toán cho rất nhiều đơn
vị do vậy mức độ rủi ro của ngân hàng cao hơn rất nhiều. Ngoài rủi ro về tỷ giá
trong thanh toán ngân hàng còn chịu rủi ro về tỷ giá do một lượng vốn lớn của
ngân hàng được dự trữ hoặc cho vay bằng ngoại tệ.
Rõ ràng rủi ro về tỷ giá là rất lớn, khó lường và hậu quả cũng là rất
lớn. Muốn hạn chế loại rủi ro này không có cách nào khác là phải mở rộng tầm
hiểu biết trong kinh doanh quốc tế, phân tích chính xác, nhanh nhạy các biến
động trên thị trường tài chính quốc tế để có khả năng nhận rõ được xu hướng
vận động của tỷ giá mới có khả năng hạn chế được loại rủi ro này.
Rủi ro về thừa, thiếu vốn thanh toán trong kinh doanh:
a) Rủi ro do thừa vốn thanh toán:
Đối với các ngành kinh doanh khác thì việc thừa vốn thật dễ chịu, vốn
của các doanh nghiệp thường là vốn tự có hoặc vốn vay. Nếu thừa vốn tự có thì
chuyển qua tích luỹ vì đó là vốn của bản thân của chủ sở hữu doanh nghiệp.
Nếu thừa vốn mà doanh nghiệp đang vay thì đem trả người cho vay. Vấn đề về
rủi ro do thừa vốn đối với các doanh nghiệp ngoài ngân hàng thường khó xảy
ra. Đối với các ngân hàng, vốn của ngân hàng chủ yếu là vốn đi vay để cho vay,
việc huy động vốn nhiều mới tạo ra được quĩ cho vay lớn. Nếu ngân hàng
không cho vay ra được thì tồn quĩ nghiệp vụ tăng lên, trong khi ngân hàng vẫn
phải trả lãi tiền gửi của khách hàng cả số tiền ở quĩ nghiệp vụ không cho vay
ra được, dẫn đến thiệt hại trong kinh doanh. Rõ ràng rủi ro loại này có nguyên
nhân chủ quan của ngân hàng trong việc kế hoạch hóa hoạt động kinh doanh
của mình. Xử lý vấn đề này không còn cách nào khác là phải tăng cường công
tác kế hoạch hóa của ngân hàng. Phối kết hợp tốt giữa khâu huy động vốn và

sử dụng vốn luôn đảm bảo cân đối mới mong hạn chế được loại rủi ro này.
b) Rủi ro do thiếu vốn thanh toán:
Thừa vốn đã gây khó khăn cho ngân hàng thì việc thiếu vốn còn tệ hại
hơn nhiều. Rủi ro thiếu vốn không thể lường hết mức độ do nó gây ra. Bởi vì,
vốn của ngân hàng phần lớn là vốn huy động (vay) của xã hội để cho vay ra.
Nếu thiếu vốn trong thanh toán,ngân hàng không thể thanh toán cho khách
hàng khi họ có nhu cầu rút tiền. Nếu với các ngành kinh tế khác thì việc thanh
toán chỉ là một phần vốn của đơn vị không khó khăn lắm trong việc khất nợ
với khách hàng (dù rằng không nên kéo dài và thường xuyên). Nhưng với hoạt
động ngân hàng, khi một khách hàng bị khất nợ sẽ kéo theo hàng loạt khách
hàng đổ xô đến ngân hàng để rút tiền. Điều gì sẽ xảy ra khi đó mà khả năng cao
nhất có thể xảy ra đó là tuyên bố mất khả năng thanh toán và phá sản. Như
vậy loại rủi ro này rất nguy hiểm, khó lường hết được hậu quả. Loại rủi ro này
thậm chí còn nguy hiểm hơn cả loại rủi ro bất khả kháng do thiên tai, địch họa
gây ra bởi lẽ với các loại rủi ro đó ngân hàng vẫn còn khả năng phục hồi, còn
với loại rủi ro do thiếu vốn thanh toán thì khả năng xấu nhất của một doanh
nghiệp có thể xảy ra.
Để hạn chế loại rủi ro này không thể bằng cách huy động vốn rồi để ở
quĩ thanh toán nhiều cho an toàn, cũng giống như loại rủi ro do thừa vốn, rủi
ro do thiếu vốn cần phải đưa công tác kế hoạch hóa nguồn vốn và sử dụng vốn
lên một bước. Việc cân đối vốn phải được thực hiện thường xuyên mới hạn chế
được loại rủi ro này.
Trên đây là những loại rủi ro chính thường hay gặp và chiếm phần lớn
trong tổng mức rủi ro của ngân hàng. Ngoài ra, còn có nhiều loại rủi ro khác
gắn liền với mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Những vấn đề nêu trên cho thấy những khó khăn to lớn mà ngân hàng
cần phải tìm cách vượt qua. Chính công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại là
công cụ hữu hiệu để các ngân hàng vượt qua những khó khăn và phát triển
hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
2.2.CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI QUA CÁC GIAI

ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG.[1,5-30],[48,32-33]
Việc áp dụng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh
doanh của ngân hàng có chậm hơn việc áp dụng vào các ngành kinh tế khác.
Phải tới những năm cuối của thập niên 60 thế kỷ này công nghệ quản lý ngân
hàng hiện đại mới bắt đầu được ứng dụng ở các ngân hàng Châu Âu. Khi đó
các ngân hàng nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ và phải tuân theo qui định gắt
gao của Nhà nước. Ngân hàng Trung ương qui định phạm vi hoạt động của các
ngân hàng thương mại trong những giới hạn chật hẹp.
Thời gian trôi qua, ngân hàng trung ương ở một số nước bắt đầu có
biện pháp khuyến khích các ngân hàng thương mại kinh doanh nhằm cố gắng
nâng cao hiệu quả của thị trường tài chính trong nước. Những thay đổi này
được đưa ra vào những thời điểm khác nhau dựa trên cơ sở luật lệ khác nhau
ở mỗi quốc gia. Những thay đổi này ngày càng sâu sắc hơn khi các quốc gia
Châu Âu thực hiện việc tự do hóa tư bản trong thị trường chung Châu Âu.
Hàng loạt các hoạt động tài trợ cho các tổ chức tài chính được mở rộng nhằm
thúc đẩy cạnh tranh phát triển các ngân hàng. Cũng vào thời kỳ này, các ngân
hàng trung ương các quốc gia Châu Âu nhanh chóng tạo ra các "luật chơi" cho
các ngân hàng tham gia vào thị trường tài chính. Do tất cả các biện pháp đó
cùng với việc tiếp thu các công nghệ mới. Hệ thống ngân hàng Châu Âu đã có
những thay đổi liên tục trong suốt mấy chục năm qua.
Việc ứng dụng công nghệ quản lý mới vào hoạt động kinh doanh của
ngân hàng ở các nước Châu Á còn chậm hơn các ngân hàng Châu Âu hàng
thập kỷ. Phải tới những năm 70, công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại mới đi
những bước đầu tiên ở các ngân hàng Châu Á, nhưng cũng chỉ tập trung ở một
số các ngân hàng lớn ở Hồng Kông, Nhật Bản... Việc ứng dụng công nghệ quản
lý ngân hàng hiện đại một cách rộng rãi ở phần lớn các ngân hàng cũng phải
tới những năm 80 mới được thực hiện.
Bốn mươi năm qua, hoạt động tài chính - ngân hàng ngày càng trở thành
một nhân tố quyết định đối với sự phát triển nền kinh tế mỗi nước và yêu cầu về
dịch vụ ngân hàng của xã hội ngày một đòi hỏi cao hơn cả về số lượng và chất

lượng. Trong bối cảnh đó, việc sử dụng công nghệ quản lý mới vào hoạt động
ngân hàng đã trở thành một nhu cầu bức xúc.
Giai đoạn đầu tiên của đổi mới công nghệ kỹ thuật là vào những năm
70 với sự xuất hiện của máy rút tiền tự động. Việc này đã thu hút một khối
lượng lớn khách hàng và tăng cường khả năng phục vụ của ngân hàng.
Giai đoạn 2 của việc đổi mới kỹ thuật trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng diễn ra trong toàn bộ thập kỷ 80, với đặc trưng là việc ứng dụng
công nghệ mới vào khu vực trực tiếp kinh doanh và tăng cường quan hệ với
khách hàng thông qua hệ thống thông tin quản lý hiện đại.Việc truyền dữ liệu
và cách thức quản lý được cải tiến giúp cho hoạt động của ngân hàng được dễ
dàng hơn. Trong thập kỷ 90 này, sự phát triển vũ bão của công nghệ mới càng
làm cho sự tiếp cận của ngân hàng tới khách hàng được mở rộng và cùng với
nó là quá trình phát triển mạnh mẽ hoạt động ngân hàng. Đồng thời với quá
trình phát triển của hoạt động ngân hàng thì công nghệ quản lý ngân hàng
hiện đại ngày càng được các ngân hàng quan tâm sử dụng như một công cụ
không thể thiếu trong quá trình phát triển của mình.
Các ngân hàng nhận ra tầm quan trọng của công nghệ quản lý ngân
hàng hiện đại khi nền kinh tế ngày càng phát triển. Các ngân hàng phải tự
hoàn thiện mình để ngày càng phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Cuộc
cải cách trong kinh doanh của ngân hàng cũng đang dần dần được thực hiện
như là nguyên tắc quản lý mới đang được tiếp nhận. Để thấy được những thay
đổi trong quá trình tư duy và ứng dụng của công nghệ quản lý ngân hàng hiện
đại vào hoạt động của ngân hàng chúng ta có thể chia lịch sử phát triển của
chúng thành 5 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Trong những năm 60, ngân hàng bước đi những bước đầu
tiên theo hướng thị trường. Ở giai đoạn này, công nghệ quản lý ngân hàng
hiện đại hướng vào việc tăng cường quản lý quảng cáo và khuyến mại.
Nhiệm vụ chính của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại trong giai đoạn này
là kích thích tăng trưởng số lượng khách hàng và làm tăng lượng tiền gửi. Để
thực hiện được yêu cầu này, các ngân hàng đã thực sự chú ý đến việc chọn địa

điểm thuận lợi để mở chi nhánh. Tuy ở giai đoạn này mới chỉ áp dụng những
vấn đề sơ khởi của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại công nghệ quản lý
ngân hàng hiện đại nhưng đã cho phép các ngân hàng tăng được một lượng
lớn khách hàng và nguồn vốn kinh doanh. Điều đó đã khẳng định vị thế của
công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại trong hoạt động ngân hàng. Từ đó đòi
hỏi phải tiếp tục hoàn thiện và mở rộng hoạt động chúng.
Giai đoạn 2: Vào những năm 70, ngân hàng bắt đầu sử dụng tác động
của quảng cáo không chỉ nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thu hút khách hàng
mà cần phải gây được ấn tượng tốt đẹp, đáng tin cậy của ngân hàng với khách
hàng. Trong giai đoạn này công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại bắt
đầu mở rộng hoạt động của nó chuyển từ tập trung quản lý quảng cáo,
tiếp thị sang tập trung quản lý hoạt động của ngân hàng sao cho có kế
hoạch và chú trọng đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đặc biệt là việc tìm kiếm
các hoạt động nhằm tăng cường quan hệ giao tiếp và thiết lập nhiều hơn nữa
quan hệ trực tiếp với khách hàng.
Giai đoạn 3: Bắt đầu từ những năm đầu của thập kỷ 80.Trong giai đoạn
này, hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Thị
trường cũ đã được khai thác triệt để dẫn đến cạn kiệt nguồn tài chính cung cấp
cho các ngân hàng, tạo ra quá trình cạnh tranh ngân hàng gay gắt giữa các ngân
hàng hoạt động trong cùng một địa bàn. Công nghệ quản lý ngân hàng hiện
đại trong giai đoạn này hướng ngân hàng vào việc cải tiến các hoạt động
cũ, phát triển các hoạt động mới đặc biệt quan tâm đến việc mở rộng thị
trường tiềm tàng. Trong đó việc mở rộng mạng lưới chi nhánh sang các thị
trường chưa được khai thác đầy đủ được các ngân hàng thực hiện khá phổ biến.
Giai đoạn 4: Vào cuối thập kỷ 80, hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng ngày càng trở lên nhộn nhịp với rất nhiều dịch vụ mà ngân hàng có thể
cung cấp cho khách hàng. Trong các thời kỳ trước đó việc cung cấp các dịch vụ
ngân hàng cho khách hàng thông thường theo những nhu cầu trực tiếp của
khách hàng một cách đơn thuần mang dáng dấp của thói quen, lịch sử. Trong
giai đoạn này,công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại đã bắt đầu hướng

các hoạt động của ngân hàng vào nề nếp và rất coi trọng việc cung cấp
dịch vụ ra thị trường được nghiên cứu có tính hệ thống và các ngân
hàng xác định rõ thế mạnh của mình để tạo ra những dịch vụ chủ yếu
khi phục vụ xã hội. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt đó, khách hàng
không chỉ xem xét riêng một chuẩn mực trong quan hệ với ngân hàng là giá cả
dịch vụ mà còn phần lớn tính đến cả cách thức phục vụ. Trong tình hình đó
ngân hàng buộc phải xem xét lại hoạt động của mình, tăng cường quản lý
nội bộ và chấp nhận phân quyền. Sự thay đổi cơ cấu hoạt động của ngân
hàng đạt được nhờ việc vận dụng chức năng quản lý nội bộ của công nghệ
quản lý ngân hàng hiện đại. Điều cần lưu ý là công nghệ quản lý ngân hàng
hiện đại thực hiện chức năng quản lý tuy mang tính xã hội nhưng nội
năng của nó lại là quản lý nội bộ cho nên công nghệ quản lý ngân hàng hiện
đại trong giai đoạn này đã được hoàn thiện một bước đáng kể trong việc ứng
dụng chúng trong thực tế phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Giai đoạn 5: Từ đầu những năm 90.Giai đoạn mà công nghệ quản lý
ngân hàng hiện đại đã trở thành một công cụ đắc lực để các ngân hàng
sử dụng nhằm tăng tối đa hiệu quả trong việc thực hiện chiến lược kinh
doanh. Chúng thực sự trở thành công cụ quan trọng trong việc xác lập
chiến lập chiến lược kinh doanh và xác định vị thế của ngân hàng trên
thị trường. Chức năng của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại không chỉ là
cầu nối giữa ngân hàng với thị trường mà nó còn là công cụ để tăng cường
liên lạc nội bộ, giữa các cấp, các bộ phận khác nhau của ngân hàng. Khi theo
đuổi yêu cầu khắt khe của thị trường, ngân hàng buộc phải đương đầu với
những yêu cầu phải kết hợp một số hoạt động trong thời gian ngắn. Điều đó
được thể hiện qua chức năng ngắn hạn của công nghệ quản lý ngân hàng hiện
đại.
Hiện nay, công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vẫn chưa được sử
dụng một cách triệt để trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thậm chí
kể cả ở một số ngân hàng lớn, điều đó càng rõ nét hơn ở các ngân hàng nhỏ và
đặc biệt là trong hệ thống các ngân hàng quốc doanh ở Việt Nam. Trở ngại

chính cho việc vận dụng đầy đủ nội dung công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại
vào hoạt động ngân hàng chính là lối tư duy cũ, bảo thủ trong thực tiễn của
hoạt động ngân hàng cho rằng công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại cũng
mang tính độc quyền cả về nội dung và hình thức giống như chính hoạt động
của nó mà không thấy rằng chính thị trường mới là yếu tố quyết định
hoạt động của ngân hàng. Cơ sở của thành công trong việc sử dụng công
nghệ quản lý ngân hàng hiện đại vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng
chính là việc coi công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại là hoạt động tổng
hợp trong toàn bộ tổ chức của ngân hàng nhằm mục đích thích ứng với
thị trường, phục vụ thị trường để từ đó tạo ra lợi nhuận tối đa cho đơn
vị và thu nhập cao của người lao động.
2.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHỆ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG
HIỆN ĐẠI.[1,5-90],[5,5-15],[11,5-207],[48,7-42],[52,5-15]
Công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại thể hiện nội dung hoạt động của
mình thông qua các hoạt động của ngân hàng thương mại.Các hoạt động của
ngân hàng thương mại rất đa dạng và phong phú, nhưng tựu trung lại ở 5 vấn
đề chính : Nghiên cứu thị trường, dịch vụ ngân hàng, giá của dịch vụ ngân
hàng, hoạt động xúc tiến khuếch trương và hoạt động phân phối dịch vụ của
ngân hàng.Dưới đây, bài viết tập trung nghiên cứu nội dung của công nghệ
quản lý ngân hàng hiện đại với từng vấn đề chính của hoạt động ngân hàng.
2.3.1. Quản lý việc tổ chức nghiên cứu thị trường
Quản lý việc nghiên cứu thị trường là một trong những nội dung cơ
bản nhất của lý thuyết công nghệ quản lý kinh tế hiện đại. Thị trường là một
khái niệm rộng lớn. Thị trường mà ngân hàng có khả năng xâm nhập và phục
vụ chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong thị trường tổng thể mà thôi. Nếu xét từ
mục tiêu của công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại thì việc xác định đúng thị
trường mà ngân hàng có khả năng phục vụ với những mục tiêu phù hợp có ý
nghĩa to lớn đối với sự phát triển hoạt động ngân hàng.
Lý thuyết nghiên cứu thị trường hết sức đơn giản nhưng nó lại là nền
tảng hoạt động của công nghệ quản lý ngân hàng hiên đại. Thông thường, có

rất nhiều nhu cầu, sở thích khác nhau về các đòi hỏi được phục vụ từ ngân
hàng, nhưng công nghệ quản lý ngân hàng hiên đại chỉ thành công khi chúng
ta xác định đúng được thị hiếu đó và tổ chức thực hiện nó với nỗ lực cao nhất.
Xã hội ai cũng cần tiền nhưng ngân hàng chọn loại khách hàng nào đây ? Giầu
hay nghèo, sản xuất hay tiêu dùng, đồng bằng hay miền núi, thành thị hay nông
thôn... Xác định đúng những vấn đề đó phù hợp với khả năng và định hướng
kinh doanh của mình thì ngân hàng đã chiến thắng coi như một nửa trước khi
hành động cụ thể. Nếu ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu của một nhóm
khách hàng nào đó thì có thể nói đó chính là thị phần có hiệu quả của ngân
hàng đó.
Thị phần của ngân hàng được hiểu như là một quá trình phân
chia thị trường thành nhiều nhóm khách hàng khác nhau có những đặc
điểm riêng có khác nhau và từ đó chọn được nhóm khách hàng cho phù
hợp với khả năng phục vụ của ngân hàng.
Quá trình nghiên cứu thị trường ngân hàng diễn ra 6 bước theo sơ đồ sau đây:
Căn cứ 6 bước nghiên cứu thị trường nêu trên, công nghệ quản lý ngân
hàng hiện đại tiến hành quản lý quá trình nghiên cứu thị trường ngân hàng
như sau:
Xác định vị thế của ngân h ngà
Xác định nhu cầu của thị trường
Phân chia thị trường th nh các thà ị phần một cách thích hợp
xác định dịch vụ ngân h ng à

Xác định chính sách phân đoạn thị trường
Thiết kế chiến lược chung của ngân h ngà
2.3.1.1. Xác định vị thế của ngân hàng.
Với các ngân hàng mới hoạt động, việc xác định vị thế của ngân hàng
trong hoạt động của mình là điều đương nhiên phải làm. Nhưng với các ngân
hàng hoạt động ổn định với số lượng khách hàng và thị phần nào đó thì việc
tiến hành thường xuyên nhằm xác định vị thế của ngân hàng chưa được quan

tâm đúng mức. Tuy nhiên đây lại là một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất trong
công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại,bởi như ông cha ta đã dạy: "Biết mình,
biết người, trăm trận, trăm thắng". Xác định vị thế của ngân hàng trước hết
chúng ta phải tìm cách để "biết mình" như thế nào ? Thoạt nhìn vào câu hỏi
này xem ra như thừa, nhưng trong thực tiễn lại là một việc khó khăn, rất dễ bị
các cảm giác đánh lừa hoặc các thành quả đạt được "ru ngủ". Để giải quyết
vấn đề này, cần giải đáp câu hỏi: Tiềm lực, khả năng thực tế của ngân hàng
hiện tại như thế nào ? Khả năng phát triển và mở rộng ra sao ?
Việc xác định cái hiện có của ngân hàng xem ra là đơn giản hơn cả. Chỉ
cần ngân hàng tổ chức tốt hoạt động nội bộ của mình sao cho có được các số
liệu thống kê, kế toán đầy đủ thì vấn đề này coi như đã được giải quyết. Sao
cho bất cứ lúc nào chúng ta đều có thể lấy được các số liệu minh họa khả năng
thực tế của ngân hàng về vốn, lao động, tài sản khác... Cái khó là việc xác
định tiềm lực (dạng mở của năng lực) của ngân hàng. Với những cái hiện
có làm thế nào để chúng ta có thể xác định được các yếu tố sắp có, sẽ có của
ngân hàng điều đó không phải là việc làm đơn giản. Thông thường bộ phận
nghiệp vụ quản lý vấn đề này cần phân chia hoạt động của ngân hàng thành
các yếu tố của quá trình kinh doanh để phân tích như về: vốn, trụ sở, kho tàng,
lao động, thiết bị... Trong mỗi một yếu tố lại phân chia làm nhiều loại khác
nhau để phân tích được bản chất của yếu tố đó. Việc xác định tiềm lực của
ngân hàng phải được đặt ra trong việc xem xét đánh giá với khả năng nội tại
của chúng để tìm hướng khai thác, phát triển hay mở rộng. Như vậy nhiệm vụ
quản lý trong lĩnh vực này là phải phân tích chính xác tình hình hiện tại về các
yếu tố trong kinh doanh, từ đó thấy được khả năng sử dụng, khai thác các yếu
tố đó đến đâu: thừa, thiếu, mức độ sử dụng, mức độ hoàn thiện, khả năng loại
bỏ, mức độ tăng trưởng và phát triển...
Nếu với phần đầu của yêu cầu là xác định số thực có về các yếu tố kinh
doanh của ngân hàng thì các ngân hàng thường làm tốt và tỏ ra là những nhà
quản lý dày dạn và đầy năng lực. Nhưng với yêu cầu thứ hai là xác định tiềm
lực của ngân hàng thì không phải lúc nào ngân hàng cũng có điều kiện để kết

luận đúng được. Để làm tốt yêu cầu này, công nghệ quản lý ngân hàng hiện đại
cho rằng việc hạch toán, kế toán là cần thiết, không thể thiếu nhưng khả năng
phân tích của bộ phận tổng hợp của ngân hàng lại đặc biệt quan trọng. Chính
bộ phận này mới có khả năng giúp các nhà quản lý ngân hàng xác định chính
xác được yêu cầu đầu tiên của việc xác định vị thế ngân hàng trên thương
trường.
Trong việc xác định vị thế của ngân hàng, ngoài việc biết rõ được khả
năng của mình còn phải biết được tiềm lực của các đối thủ cạnh tranh. Chính
các đối thủ này là thước đo thế năng của ngân hàng trên thương trường. Nếu
phần trên chúng ta đi tìm câu trả lời để "biết mình" thì việc xác định các khả
năng của đối thủ cạnh tranh chính là chúng ta tìm cách để "biết người" trong
các trận chiến trên thương trường với mong muốn giành chiến thắng. Để giải
quyết vấn đề này cần giải đáp cầu hỏi: các đối thủ cạnh tranh với ngân hàng là
ai ? Tiềm lực của họ như thế nào ? Khả năng xâm nhập thị trường của ngân
hàng đó ra sao ?
Để làm được điều này, các ngân hàng luôn phải tổ chức việc thu thập
thông tin có liên quan đến các ngân hàng là đối thủ cạnh tranh. Các thông tin
có được bằng các nguồn chính thức: qua báo cáo thường niên, tài liệu công bố
trên các phương tiện thông tin... Và kể cả việc thu thập thông tin 1 cách không
chính thức. Thông thường về các số liệu lịch sử, số liệu thực hiện được công bố
thường chỉ cho ta thấy được đại thể về hoạt động của họ,còn về những dự
định, khả năng thâm nhập và mở rộng hoạt động của các đối thủ cạnh tranh,
ngân hàng chỉ có được từ 2 nguồn:
Thứ nhất: Phân tích tình hình chung gắn với các thông tin đã biết về
đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai: Thông qua tin tình báo kinh tế.
Căn cứ vào việc phân tích để thấy rõ được "Mình" và "Người", ngân
hàng thực sự có khả năng thấy được những tiềm năng, nội lực của mình. Để
quản lý tốt hoạt động này, ngân hàng phải tổ chức tốt việc hạch toán, kế toán
nội bộ đồng thời phải có bộ phận thu thập, phân tích các thông tin đó ;ngoài ra

phải tổ chức tốt bộ phận theo dõi, phân tích các đối thủ cạnh tranh. Việc làm
này rất cần thiết và phải được làm thường xuyên, có hệ thống, không phải
hàng năm mới tổng kết rút kinh nghiệm mà phải coi nó như là một đòi hỏi
thường xuyên, thực sự trong mọi lúc của ngân hàng. Bởi vì chúng ta biết rõ
được "mình" và "người" chúng ta sẽ chiến thắng trong cuộc cạnh tranh quyết
liệt trên thương trường.
2.3.1.2. Xác định nhu cầu của thị trường ngân hàng.
Muốn xác định được thị phần phù hợp với mục tiêu kinh doanh của
ngân hàng, trước hết ngân hàng phải hiểu rõ được thị trường. Để làm tốt điều
này cần phải có những thông tin chính xác về chúng. Muốn có được các thông
tin về thị trường cần phải tổ chức bộ phận tập trung theo dõi, phân tích và
nghiên cứu thị trường.Đây chỉ là bộ phận đầu mối, thông tin có được từ thị
trường phần lớn không phải do bộ phận này nắm bắt.
Thông tin từ thị trường thường được cung cấp từ các nguồn sau:
Thứ nhất: Do khách hàng cung cấp, thông qua:
- Bộ phận giao dịch của ngân hàng với khách hàng.
- Thông qua hòm thư góp ý.
Thứ hai: Do bộ phận thu nhập và xử lý thông tin có được, thông qua:

×