Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ở CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.96 KB, 14 trang )

CÁC BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ở CHI
NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH
I. CÁC BIỆN PHÁP MANG TÍNH KỸ THUẬT PHÂN TÍCH.
Kĩ thuật phân tích không làm thay đổi được tình hình kinh doanh của
các ngân hàng thương mại.Tuy nhiên với phương pháp phân tích đúng đắn,có
căn cứ khoa học...có thể giúp nhà quản trị đánh giá đúng thực trạng kinh
doanh của đơn vị mình, nhận diện đươc mặt mạnh, điểm yếu của tổ chức để có
những biện pháp đúng đắn, kịp thời, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng
công tác quản trị ngân hàng.
1. Xếp loại tài sản có và lập quỹ dự phòng tổn thất trong kinh
doanh.
Sức bền của một ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng tài sản
có và tình hình lập quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng đó. Tài sản có của ngân
hàng phần lớn là các khoản cho vayvà ứng trước. Do đó, việc đánh giá chất
lượng tín dụng và xem xét tác động của nó đối với các yếu tố tài chính là việc
làm quan trọng.Kinh nghiệm cho thấy một trong những nguyên nhân cơ bản
đưa đến sự thất bại của ngân hàng xuất phát từ tài sản có gặp khó khăn khi
thu hồi. Các ngân hàng hoạt động yếu thường không ước tính được các tổn
thất có thể sảy ra và không lập quỹ phòng ngừa cho các rủi ro này. Chính vì vậy
nên xếp loại chúng:
a. Xếp loại tài sản có.
Xếp loại tài sản có là việc phân chia tài sản có thành nhiều loại tương
xứng với độ rủi ro có thể xảy ra trong tương lai của tài sản có. Xếp loại tài sản
có nên áp dụng cho tất cả các khoản tín dụng trực tiếp, gián tiếp như:các
khoản cho vay, đầu tư, hùn vốn liên doanh, khoản phải thu, khoản tạm ứng ...
* Tiêu chuẩn xếp loại tài sản có.
Để tiến hành xếp loại tài sản có, các nhà ngân hàng thường áp dụng các
tiêu chuẩn sau:
- Thời gian quá hạn của khoản nợ: Nợ quá hạn là một trong những dấu
hiệu đầu tiên đối với các khoản nợ. Tuy nhiên, trong thực tế có những khoản
nợ dù chưa đến hạn nhưng có các dấu hiệu báo hiệu về sự khó khăn khi thu


hồi, các nhà quản trị cũng nên quan tâm và có biện pháp đối phó. Ngược lại,
ngoại lệ cũng có những khoản nợ quá hạn song vẫn hiệu quả, cán bộ tín dụng
nên có cách sử lý khéo léo như: gia hạn nợ, đảo nợ ... để giúp khách hàng giải
quyết khó khăn vế tài chính đồng thời giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.
- Khả năng trả nợ của người vay. Đây là yếu tố quan trọng khi xét cho
vay. Trong quá trình sử dụng vốn vay, khả năng thanh toán của người vay luôn
thay đổi theo hai chiều hướng. Tạo thuận lợi hoặc gây khó khăn cho việc thu
hồi vốn của ngân hàng. Chính vì vậy, trong qua trình cho vay, cán bộ tín dụng
luôn theo dõi, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay và tình hình tài chính của
doanh nghiệp để kịp thời phát hiện các khó khăn mà có biện pháp đối phó. Đối
với các khách hàng bị thua lỗ, phá sản, chết, bỏ trốn... thì các khoản tín dụng
cấp cho họ là những khoản nợ có độ tổn thất rất cao.
- Tình trạng thế chấp của người vay. Một yếu tố không thể thiếu khi xếp
loại các khoản cho vay là tình trạng của tài sản thế chấp. Đối vơí các khoản vay
có tài sản thế chấp đang bị tranh chấp không đủ trang trải khoản nợ, khoản
vay không có tài sản thế chấp...là các tài sản đang gặp khó khăn để đánh giá
chất lượng tài sản có một cách chính xác, hiệu quả... nhà quản trị ngân hàng
cần áp dụng sáng tạo, linh hoạt các tiêu chuẩn trên đồng thời quan tâm đến
yếu tố khác, chẳng hạn: Tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật, sự tăng
trưởng của nền kinh tế, khả năng trình độ của cán bộ ngân hàng...
? Phân loại tài sản có.
- Tài sản đủ tiêu chuẩn: Các tài sản trong loại này là các tài sản được
đảm bảo an toàn về gốc lẫn lãi như các chứng chỉ tiền gửi (CDs), trái phiếu
Chính phủ...
- Tài sản kém tiêu chuẩn: là loại tài sản không đảm bảo đủ giá trị hiện
hành hoặc khả năng thanh toán của người vay không đủ chi trả những khoản
nợ đúng hạn, khoản vay được bù đắp cho những khoản thiếu vốn... Nói chung
nguồn trả nợ chính của người vay không đảm bảo, buộc ngân hàng phải trông
chờ vào nguồn chi trả thứ hai là tài sản thế chấp. Tài sản kém tiêu chuẩn bộc lộ
nhược điểm về mặt tín dụng . Tài sản này có độ rủi ro cao hơn tài sản bình

thường. Các tài sản bị xếp loại này thường có nợ quá hạn hơn 90 ngày.
- Tài sản có nghi ngờ: Loại tài sản này có đầy đủ nhược điểm của tài sản
kém tiêu chuẩn, nhưng nó còn có thêm đặc trưng quan trọng là tài sản thế
chấp không đủ trả nợ. Nhược điểm này làm cho việc thu hồi nợ trở lên có vấn
đề và khó thực hiện, khả năng bị tổn thất tài sản ở mức độ cao. Tuy nhiên, vì
loại này còn có khả năng khắc phục nên chưa được xếp vào loại tài sản bi mất
trắng. Thông thường tài sản bị xếp vào loại này khi nó quá hạn hơn 180 ngày
và món nợ phải được xử lý bằng pháp luật, hoặc bằng tài sản thế chấp hoặc
bằng cam kết nào đó.
- Tài sản bị mất trắng: Tài sản bị xếp vào loại này được xem là không
còn khả năng thu nợ, không còn giá trị và không được xem là tài sản của ngân
hàng. Ngân hàng nên tích cực thanh lý món nợ này nhằm hạn chế tác hại của
nó. Một vấn đề cần quan tâm khi xếp loại tài sản có là tiền lãi của các khoản nợ
nghi ngờ và mất trắng. Bởi vì, các loại tài sản đó là các tài sản đọng, do đó,
phần lãi của nó không được tính vào lãi gộp, mà phải ghi vào tài sản lãi treo.
Nếu sau này, ngân hàng thu hồi được các khoản nợ, số tiền nhận được phải trừ
vào gốc, phần còn lại mới ghi vào lãi. Ngân hàng không nên cho vay nợ mới để
trả nợ cũ đã quá hạn vì việc làm này có thể làm ngân hàng sa lầy, dính chặt vào
khó khăn khách hàng và chịu sự rủi ro cao.
Khi tiến hành sắp xếp loại tài sản có, các nhà quản trị nên quan tâm các
yếu tố khác như: mức tăng tưởng tín dụng; kinh nghiệm tổn thất của kỳ trước;
khả năng thu nợ, chất lượng quản lý món nợ; tính hợp lý của chính sách, thủ
tục tín dụng và các biến động của nền kinh tế.
b. Lập quỹ dự phòng các tổn thất cho vay.
? Quỹ dự phòng.
Hoạt động tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro nhất. Do đó, việc
dự phòng không những tổn thất có thể xẩy ra nhằm bảo vệ người gửi tiền,
người cho vay, giữ lòng tin của công chúng là việc làm cần thiết của mỗi ngân
hàng thương mại. Dự phòng còn giúp ngân hàng thương mại bảo toàn vốn
kinh doanh, tạo nền tảng vững mạnh cho ngân hàng trong lĩnh vực tiền tệ.

Luật pháp mỗi nước đều quy định một mức vốn tối thiểu, phải có cho các
ngân hàng thương mại. Về cơ bản, mức vốn tối thiếu được xem như định mức
ban đầu, làm điểm tự để tính lượng vốn cần thiết cho ngân hàng. Ngân hàng có
rủi ro cao, khả năng bị tổn thất lớn buộc phải lập quỹ dự phòng nhiều và
ngược lại yếu tố quan trọng trong việc quyết định rủi ro đó có trở thành khoản
tổn thất thật sự hay không ? Các ngân hàng có Ban giám đốc thiếu kinh
nghiệm trong việc theo dõi, kiểm soát rủi ro phải duy trì mức vốn cao hơn ngân
hàng có Ban quản lý giỏi. Như vậy, Ngân hàng là yếu tố quyết định quỹ dự
phòng của từng ngân hàng. Nếu quỹ dự phòng không đủ chứng tỏ vốn của
ngân hàng đỡ bị thiếu hụt.
Mục đích sử dụng quỹ dự phòng là bù đắp các rủi ro phát sinh trong kinh
doanh tiền tệ. Bởi vì rủi ro, tổn thất tài sản là điều khó tránh khỏi trên con
đường tìm kiếm lợi nhuận ở các ngành sản xuất kinh doanh như nông, công,
thương, ngư nghiệp... các tổn thất này được tính vào chi phí kinh doanh. Tiền
tệ là ngành kinh doanh có độ rủi ro cao nhất, lẽ nào lại bị loại khỏi quy luật
trên ? Ngân hàng Nhà nước cũng với Bộ Tài chính nên cho phép các ngân hàng
thương mại . Các khoản rủi ro trung hạn mức sẽ được tính vào chi phí, khoản
vượt hạn mức sẽ được bù đắp từ lợi nhuận để lại. Việc làm này sẽ mang lại
nhiều lợi ích cụ thể.
- Do được tính khoản tổn thất trong kinh doanh vào chi phí, Ban giám
đốc ngân hàng thương mại sẽ yên tâm và trung thực hơn khi hạch toán rủi ro,
kiểm soát rủi ro và do đó có các biện pháp xử lý kịp thời đối với các khoản nợ
có vấn đề. Đồng thời, trên cơ sở nhận diện các tài sản rủi ro, ngân hàng tính
toán và lập quỹ dự phòng đẩy đủ tạo điều kiện bảo toàn vốn ngân hàng, tránh
tình trạng lãi giả lỗ thật.
- Việc xem rủi ro là một tất yếu không thể tránh khỏi được trong kinh
doanh, cho phép ngân hàng tính khoản này vào chi phí giúp ngân hàng nhà
nước có cơ sở kiểm tra rủi ro thực ở ngân hàng, đánh giá thực trạng tài chính
của ngân hàng. Giúp ngân hàng tự giác hơn trong việc bảo toàn vốn của mình.
Ngoài ra, ngân hàng còn nhận được sự cạnh tranh công bằng. Bởi vì, khi tính

rủi ro vào chi phí kinh doanh, thì nâng cao được tỷ xuất lợi nhuận làm tăng độ
an toàn của vốn ngân hàng. Do đó, chấp nhận rủi ro để quản lý, kiểm soát nó là
việc làm sáng suốt và có khoa học của những người lãnh đạo ngân hàng.
? Cách tính quỹ dự phòng.
Theo pháp lệnh, quỹ dự trữ đặc biệt nhằm bù đăp rủi ro, do đó, quy mô
của nó phải được quyết định bởi mức rủi ro của tài sản và khả năng quản lý
rủi ro của Ban giám đốc. Tại các nước có hệ thống pháp luật chưa phát triển
như nước ta, việc thu hồi nợ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Do đó, việc trích dự
phòng cũng cao hơn, chẳng hạn.
Quỹ dự phòng = Dự phòng 10 - 20% đối với tài sản có kém tiêu chuẩn.
+ Dự phòng 50% đối với tài sản có nghi ngờ.
+ Dự phòng 100% đối với các khoản cho vay mất trắng.
+ Và dự phòng 1% đối với các khoản cho vay bình thường.
Việc lựa chọn quỹ dự phòng lớn hay nhỏ phụ thuộc vào mức độ rủi ro
thấp hay cao.
Về phương tiện kế toán, định kỳ kế toán kết hợp với bộ phận tín dụng
tính toán quỹ dự phòng cần lập, đồng thời hạch toán.
Nợ: Tài khoản theo dõi chi phí dự phòng.
Có : Tài khoản quỹ dự phòng.

×