Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.61 KB, 38 trang )

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
I. KHÁI NIỆM VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Thế nào là một Ngân hàng thương mại ?.
Khi nghiên cứu về Ngân hàng thương mại, các nhà kinh tế học đều nhất
trí với nhau về vị trí, chức năng của ngân hàng trong nền kinh tế; nhưng khi
định nghĩa “ Thế nào là một Ngân hàng thương mại ?” thì lại không thống
nhất. Có ý kiến cho rằng: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính nhận
tiền gửi và cho vay”. Một số ý kiến khác lại nhận định: “ Ngân hàng thương mại
là trung gian tài chính có giấy phép kinh doanh của chính phủ để cho vay tiền
và mở tài khoản tiền gửi kể cả các tài khoản tiền gửi có thể dùng séc”...Sở dĩ có
nhiều định nghĩa là do hoạt động Ngân hàng thương mại rất đa dạng, các thao
tác trong từng nghiệp vụ ngân hàng lại phức tạp và các vấn đề này lại luôn
biến động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt khác, do tập quán, luật
pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau đã dẫn đến quan niệm về Ngân
hàng thương mại không đồng nhất giữa các khu vực trên thế giới.
Theo pháp lệnh “ Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính”
ban hành ngày 24 tháng 05 năm 1990: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực
hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Như vậy, Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các nguồn vốn để cho vay,
đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ tài chính khác. Ngân hàng thương mại một
khi được thành lập phải có đầy đủ các điều kiện sau:
- Có nhu cầu dịch vụ ngân hàng, tài chính theo yêu cầu phát triển kinh tế;
- Có nguồn vốn cần thiết và phương thức huy động nguồn vốn đó;
- Có khả năng thu lợi nhuận;
- Có trụ sở phù hợp với hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng;
- Người điều hành có năng lực quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn
về tiền tệ, tín dụng;


- Các hình thức hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng hợp pháp;
Và hồ sơ xin cấp giấy phép hoạt động phải gửi đến Ngân Hàng Nhà
Nước bao gồm:
- Đơn xin cấp giấy phép hoạt động ngân hàng;
- Phương án hoạt động nêu rõ lợi ích kinh tế - tài chính của hoạt động
kinh doanh tiền tệ, tín dụng;
- Điều lệ của tổ chức tín dụng;
- Hồ sơ lý lịch và các văn bản chứng minh năng lực của các thành viên
hội đồng quản trị và người điều hành;
- Những tài liệu khác mà Ngân Hàng Nhà Nước yêu cầu làm rõ một số
vấn đề liên quan đến các văn bản nói trên.
2. Chức năng của Ngân hàng thương mại.
Vai trò quan trọng của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế được
thể hiện thông qua các chức năng sau:
a. Chức năng trung gian tài chính.
Trong nền kinh tế, chu chuyển tiền tệ của các cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh
doanh không giống nhau. Tại một thời điểm nào đó, có những doanh nghiệp
thiếu vốn trong khi đó lại có những doanh nghiệp thừa vốn. Ngân hàng thương
mại với tư cách là một trung gian tài chính sẽ là cầu nối giữa người có vốn tạm
thời chưa sử dụng với chủ thể đang cần vốn để kinh doanh. Ngân hàng thương
mại có thể thực hiện tốt chức năng trên thông qua các nghiệp vụ cơ bản sau:
- Nghiệp vụ huy động vốn: Ngân hàng thương mại có thể thực hiện
nghiệp vụ này với tất cả các khu vực của nền kinh tế bằng cách tạo điều kiện
thuận lợi cho người gửi tiền. Người ký thác sẽ nhận được một khoản tiền lời
trên tổng số tiền gửi ở Ngân hàng thương mại với mức độ an toàn cao.
- Nghiệp vụ tín dụng: Với nguồn vốn huy động được, Ngân hàng thương
mại có thể cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, cá nhân nhằm mở rộng
sản xuất hoặc chi tiêu. Khi cung cấp tín dụng, Ngân hàng sẽ nhận về một khoản
tiền lời dưới dạng lãi cho vay nhằm bù đắp chi phí nguồn vốn, phí kinh doanh
và tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng.

- Ngân hàng thương mại còn làm trung gian giữa các đơn vị phát hành
chứng khoán với người đầu tư chứng khoán; tức là ngân hàng cung cấp dịch
vụ kinh kỷ cho khách hàng. Thông qua nghiệp vụ này ngân hàng tạo điều kiện
cho khách hàng đầu tư trực tiếp trên thị trường tài chính.
b. Chức năng tạo tiền.
Ngân hàng thương mại có khả năng tạo và huỷ tiền. Chức năng này
được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư của các Ngân
hàng thương mại trong mối quan hệ với khối dự trữ bắt buộc của Ngân Hàng
Nhà Nước. Khi Ngân hàng thương mại cung cấp vốn tín dụng cho khách hàng,
lập tức số tiền này có thể chuyển thành tiền gửi của khách hàng khác (Mở tại
một Ngân hàng thương mại bất kỳ.). Ngân hàng thương mại lại dùng nguồn
vốn này cho đối tượng khác vay. Như vậy từ một đồng vốn ký thác ban đầu, hệ
thống Ngân hàng thương mại có thể tạo ra một số vốn tín dụng lớn hơn rất
nhiều lần. Đây chính là khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại . Để kiểm
soát khả năng này, luật pháp cho phép Ngân Hàng Nhà Nước được quyền bắt
buộc các Ngân hàng thương mại phải ký gửi tại Ngân Hàng Nhà Nước một
phần của tổng số tiền huy động được từ nền kinh tế - gọi là dự trữ bắt buộc.
Theo thuyết tạo tiền, khi khối lượng tiền gửi tăng lên, khả năng cho vay
của toàn bộ hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ tăng lên nhiều lần. Ngược lại,
khi bớt đi một lượng tiền gửi, khả năng cho vay của toàn bộ hệ thống Ngân
hàng thương mại sẽ giảm đi nhiều lần. Cụ thể:
Khả năng mở rộng tiền gửi Số tiền gửi huy Hệ số nhân mở
của Ngân hàng = động ban đầu x rộng tiền tệ

Hệ số nhân mở rộng 1
tiền tệ = Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Như vậy, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì lượng tiền do toàn bộ hệ
thống Ngân hàng có thể tạo ra gấp 10 lần so với số tiền ký thác ban đầu.
c. Chức năng làm trung gian thanh toán
Khi thực hiện chức năng làm trung gian thanh toán, Ngân hàng thương

mại cung cấp cho khách hàng của mình nhiều phương tiện thanh toán trong và
ngoài nước phong phú như: Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi, séc thẻ tín dụng...Nhờ
các phương tiện thanh toán này mà các nhu cầu tiền mặt cho chi trả ngày càng
giảm, tiết kiệm được thời gian, chi phí cho xã hội. Ngày nay, với sự phát triển
của công nghệ thông tin, thì công tác thanh toán ngày được tiến hành một
cách chính xác, hiệu quả và nhanh chóng.
d. Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương.
Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc phát triển
thương mại quốc tế. Bằng các nghiệp vụ như: Mở thư tín dụng (L/C), Chấp
nhận thanh toán, Bảo lãnh xuất nhấp khẩu, Bảo lãnh dự thầu và đấu thầu
quốc tế, Nghiệp vụ nhờ thu...Ngân hàng thương mại đã giúp cho quá trình giao
dịch, ký kết thực hiện các hợp đồng trong ngoại thương một cách trôi chảy, an
toàn và nhanh chóng hơn.
e. Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác.
Ngoài các chức năng chủ yếu trên, Ngân hàng thương mại còn tham gia
vào nhiều dịch vụ khác như: Tư vấn cho khách hàng trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán, dịch vụ uỷ thác, dịch vụ bảo quản an toàn các tài sản có giá, dịch
vụ kinh doanh ngoại hối...nhằm hỗ trợ và mở rộng hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại trong thị trường tài chính.
II. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Phân tích hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là
gì ?
Phân tích hoạt động kinh tế là hệ thống hoá các kiến thức liên quan đến
việc nghiên cứu các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của các hoạt động
kinh tế dựa trên các tài liệu thông tin kinh tế nhằm đánh giá khách quan tình
hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch, vạch rõ xu hướng và quy luật của các hiện
tượng, phát hiện những khả năng tiềm tàng chưa được sử dụng. Từ đó nêu ra
các biện pháp tốt nhất cho kỳ thực hiện sau.
Đối tượng của phân tích hoạt động kinh doanh của một Ngân hàng là

kết quả kinh doanh của đơn vị đó được thể hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế. Đối
tượng phân tích có thể là kết quả kinh doanh của từng lĩnh vực hoạt động như:
Tình hình dự trữ, doanh số cho vay, số tiền huy động được hoặc là kết quả tổng
hợp của quá trình kinh doanh như lợi nhuận.
2. Tính tất yếu của việc tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh
Ngân hàng thương mại.
a. Đối với bản thân Ngân hàng thương mại.
Để quản lý tốt hoạt động kinh doanh, Ban giám đốc các Ngân hàng
thương mại không những phải biết tổ chức quá trình hoạt động, nghiên cứu
thị trường, hạch toán kế toán...mà cón phải thường xuyên phân tích hoạt động
của Ngân hàng để phát hiện kịp thời mặt mạnh, chỗ yếu của đơn vị mình trên
cơ sở đó có những biện pháp thích hợp trong việc sử dụng nguồn lực của đơn
vị góp phần hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận thực cho Ngân hàng.
Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực hoạt động có nhiều rủi ro nhất.
Trong quá trình mở rộng tín dụng, các Ngân hàng thương mại không tránh
khỏi tình trạng đầu tư vào những đơn vị hoạt động yếu kém thiếu khả năng
chi trả, thậm chí có thể phá sản. Việc phân tích cẩn thận các khoản tín dụng sẽ
giúp Ngân hàng kịp thời nhận ra những yếu kém trong cho vay và có cách xử lý
kịp thời. Kinh nghiệm cho biết rằng một Ngân hàng vững mạnh về trường vốn
nhưng có khoảng trống giữa luồng tiền vào và luồng tiền ra cũng gặp phải
tình trạng mất khả năng chi trả gây giảm uy tín và mất khả năng cạnh tranh.
Nên các nhà quản trị Ngân hàng thường xuyên xem xét, phân tích các báo cáo
tài chính để có những phản ứng hiệu quả, nhằm ổn định khả năng thanh toán
của Ngân hàng.
Phân tích, kiểm tra hoạt động Ngân hàng còn là khâu quan trọng trong
công tác quản trị Ngân hàng. Phân tích kết quả kinh doanh là xem xét đo lường
quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh. Khi một chiến lược mới được đưa
vào thực hiện, nhà quản trị cần phải kiểm tra, phân tích phát hiện những sai
lệch so với kế hoạch, xác định nguyên nhân và đề ra biện pháp xử lý. Đối với
nhà lãnh đạo Ngân hàng, việc phân tích đánh giá đúng năng lực hoạt động của

Ngân hàng giúp họ kịp thời đưa ra những quyết định cần thiết, đúng lúc có
hiệu quả. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn tạo được chỗ đứng vững chãi
cho Ngân hàng thương mại trên thị trường chỉ được xây dựng trên cơ sở phân
tích chính xác, có căn cứ khoa học. Có thể nói quản trị Ngân hàng mà thiếu
khâu kiểm tra, phân tích coi như Ngân hàng đó không có quản trị Ngân hàng.
Mỗi Ngân hàng nên xây dựng cho mình một hệ thống phân tích dựa trên các
luận cứ khoa học, toàn diện.
b. Đối với Ngân Hàng Nhà Nước.
Ngân hàng Nhà Nước là cơ quan quản lý vĩ mô trong lĩnh vực kinh
doanh tiền tệ. Ngân Hàng Nhà Nước có nhiện vụ làm lành mạnh và ổn định nền
tiền tệ quốc gia, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại cạnh tranh lành
mạnh và bình đẳng.
Tại các quốc gia hoạt động theo cơ chế thị trường, kinh doanh tiền tệ là
môi trường cạnh tranh quyết liệt nhất. Trong môi trường đó luôn có xu hướng
hình thành những Ngân hàng cực mạnh, các Ngân hàng này chèn ép các Ngân
hàng trung bình và nhỏ. Một vài Ngân hàng kết cấu với nhau tạo thành một
thế lực lớn chi phối thị trường, vô hiệu hoá nguyên tắc cạnh tranh công bằng,
lành mạnh. Hơn nữa, hoạt động Ngân hàng ngày càng được quốc tế hoá, bên
cạnh những thuận lợi, thị trường tiền tệ quốc tế cũng mang vào thị trường
tiền tệ trong nước nhiều áp lực bất lợi. Bằng con mắt quan sát của mình, Ngân
Hàng Nhà Nước có thể kịp thời nhận biết các khó khăn và nhanh chóng ban
hành những chính sách ứng phó.
Trong thị trường liên Ngân hàng, các tổ chức tín dụng có mối quan hệ về
vốn, tiền đan chéo với nhau rất đa dạng, phức tạp. Quan hệ này giống như một
dây chuyền mà mỗi mắt xích là một tổ chức tín dụng. Nếu một mắt xích thì cả
dây chuyền sẽ ngừng hoạt động. Một Ngân hàng lớn bị phá sản thường kéo
theo sự sụp đổ của nhiều Ngân hàng nhỏ và làm suy yếu hàng loạt Ngân hàng
khác gây thiệt hại to lớn cho hoạt động tài chính của khu vực, quốc gia. Với
chức năng quản lý giám sát, Ngân Hàng Nhà Nước có thể phát hiện những mắt
xích yếu nhất, cảnh giác cho cả dây chuyền và đưa ra những biện pháp nhằm

khắc phục hoặc nếu không cứu vãn được thì ít ra cũng làm giảm tác hại lan
truyền của nó. Trong trường hợp này, Ngân Hàng Nhà Nước là tấm lá chắn
bảo vệ các Ngân hàng thương mại.
Trong kinh doanh tiền tệ, các Ngân hàng thương mại nắm trong tay một
bộ phận lớn của cải của xã hội dưới dạng tiền ký thác. Ngân hàng thương mại
không có quyến sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng khối tài sản này với nhiều
điều kiện ràng buộc. Vì vậy, ngoài việc xây dựng một hệ thống văn bản pháp
quy để điều chỉnh, Ngân Hàng Nhà Nước cần phải thường xuyên giám sát,
buộc các tổ chức tín dụng phải chịu trách nhiệm vật chất đối với những người
ký gửi và phải sử dụng vốn đúng với các nguyên tắc về tín dụng, đầu tư. Ngân
Hàng Nhà Nước có thể cung cấp một số thông tinn về tình hình hoạt động của
từng Ngân hàng đến công chúng. Điều này sẽ gia tăng nhận thức của công
chúng về thực trạng của từng Ngân hàng thương mại. Qua việc giám sát, kiểm
soát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, Ngân Hàng Nhà Nước
đã góp phần tạo ra và giữ gìn “chữ tín” - sản phẩm vô giá - cho Ngân hàng
thương mại.
Mặt khác, trong hầu hết các nền kinh tế, Ngân hàng là cơ quan duy nhất
có tư cách như những người taọ ra tiền; là nơi cất trữ các khoản tài chính tiết
kiệm của xã hội; là nơi phân phối tín dụng chủ yếu và là người quản lý hệ
thống thanh toán của đất nước. Do Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế nên chính phủ luôn cố gắng áp đặt ảnh hưởng và sự kiểm soát đối
với Ngân hàng thương mại bằng cách giao cho Ngân Hàng Nhà Nước quyền
giám sát, kiểm tra thường xuyên hoạt động hoạt động của các Ngân hàng
thương mại. Ở hầu hết các nền kinh tế thị trường, việc giám sát của Ngân
Hàng Nhà Nước nhằm đảm bảo tính an toàn và đúng đắn trong hoạt động của
từng Ngân hàng thương mại. Sự quản lý yếu kém, sự gian lận và những cú sốc
từ bên ngoài dễ dàng tạo ra các tai hoạ tài chính mà kết quả cuối cùng là
Chính phủ và toàn xã hội phải gánh chịu qua việc tăng thân hụt ngân sách,
tăng thuế hoặc lạm phát. Do đó, việc kiểm tra, phân tích, đánh giá hoạt động
của từng Ngân hàng thương mại và toàn hệ thống Ngân hàng là một trong

những nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngân Hàng Nhà Nước.
c. Đối với xã hội.
Các Ngân hàng thương mại không thể tồn tại nếu không có các mối quan
hệ với các tổ chức kinh tế và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Mối quan hệ đó
có thể là hợp tác kinh doanh hoặc có thể là quan hệ giữa khách hàng với người
cung cấp vốn trong các nghiệp vụ cho vay, ký gửi. Khi đặt mối quan hệ với bất
kỳ một Ngân hàng nào; các cá nhân, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu phân
tích khả năng kinh doanh, uy tín, chất lượng dịch vụ... của Ngân hàng đó, có
như vậy mối quan hệ giữa hai bên mới lâu bền và tốt đẹp. Tại các nước kinh tế
ổn định và phát triển, các Ngân hàng thương mại buộc phải công khai các báo
cáo tài chính đã được kiểm toán của mình trên các phương tiện thông tin đại
chúng như: sách báo, sở giao dịch chứng khoán... tạo điều kiện cho các thể
nhân, pháp nhân có nhu cầu đầu tư tài chính, tìm hiểu đánh giá để “chọn mặt
gửi vàng”, tránh tình trạng lừa đảo hoặc hiểu sai do thiếu thông tin hoặc nhận
thông tin không chính xác.
Tóm lại, phân tích hoạt động kinh doanh là một việc làm tất yếu đối với
từng Ngân hàng thương mại và toàn xã hội. Phân tích giúp nhà quản trị nhận
định được mặt yếu kém của mình để có những ứng phó kịp thời đồng thời phát
hiện ra những lĩnh vực tốt có thể mang lại lợi nhuận cao mà rủi ro thấp. Phân
tích chính xác, khoa học còn là cơ sở để xây dựng một chiến lược kinh doanh
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Ngân hàng thương mại, giúp Ngân
hàng củng cố được chỗ đứng của mình trên thị trường. Trong phạm vi vĩ mô,
phân tích, đánh giá chính xác hoạt động của các Ngân hàng thương mại giúp
Ngân Hàng Nhà Nước thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia tạo điều kiện ổn
định, tăng trưởng và phát triển kinh tế.
3. Mối quan hệ giữa phân tích với công tác kế toán, kiểm toán,
hoạch định trong quản trị Ngân hàng.
Mối quan hệ giữa các yếu tố trên có thể biểu diễn qua trình tự sau:
(3) (4) (5) (1)
Kế toán Kiểm toán Phân tích Hoạch định

(2) Quá trình tổ chức, thực hiện
Mối quan hệ của các yếu tố trên là các mối quan hệ giữa các thành phần
trong quản trị Ngân hàng. Trong đó:
Kế toán được xem là một ngôn ngữ. Mục đích của mọi ngôn ngữ là cung
cấp thông tin. Thông tin kế toán được tập trung và phản ánh trên các báo cáo
tài chính. Hay nói cách khác, kế toán là việc phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp
thời toàn bộ hoạt động của các Ngân hàng thương mại trên các báo cáo tài
chính. Các số liệu kế toán là cơ sở quan trọng đặt nền móng ban đầu cho việc
phân tích.
Nếu bổn phận của kế toán là tập trung số liệu, thì nhiệm vụ chính của
kiểm toán là kiểm tra tính chính xác, trung thực của các số liệu kế toán. Nó góp
phần hoàn chỉnh công tác kế toán và giúp cho công việc quản trị Ngân hàng
đạt chất lượng cao.
Muốn tiến hành hoạt động phân tích, nhà quản trị phải có các số liệu kế
toán đã được kiểm toán để nhận xét, đánh giá hoạt động Ngân hàng tìm
nguyên nhân của những tồn tại và kiến nghị những biện pháp xử lý. Phân tích
cũng là quá trình xem xét lại mục tiêu, chiến lược kinh doanh của Ngân hàng
đã thực hiện như thế nào mà có những điều chỉnh, sửa đổi kịp thời.
Hoạch định là chức năng quan trọng của quản trị, nó đề ra mục tiêu,
chiến lược, đường lối chính sách, quy chế, chương trình hoạt động của Ngân
hàng thương mại. Trước khi hoạch định nhà quản trị phải dựa vào kết quả
phân tích để xem tính khả thi của kỳ hoạch định trước mà đề ra vấn đề mới
phù hợp hơn, hiệu quả hơn, phù hợp với từng giai đoạn kinh doanh của Ngân
hàng thương mại.
4. Mục tiêu của phân tích hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực hoạt động có độ rủi ro lớn nhất. Rủi ro là
vấn đề tất yếu không thể tránh khỏi trong hoạt động Ngân hàng. Các loại rủi ro
chủ yếu là: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi xuất, rủi ro tỷ giá hối
đoái...Các loại rủi ro này bao trùm lên tất cả các hoạt động của Ngân hàng. Các
nhà quản trị không thể loại bỏ được rủi ro mà chỉ có thể phát hiện kịp thời để

có những biện pháp chủ động xử lý. Như vậy mục tiêu đầu tiên của phân tích là
giúp Ngân hàng nhận biết và dự đoán trước các loại rủi ro và đưa ra các
phương thuốc hữu hiệu phòng ngừa, chống đỡ tác hại của nó.
Các nhà Ngân hàng tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh còn nhằm
mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Họ không chỉ quan tâm đến lợi nhuận hiện tại mà
còn để ý đến các khoản lợi nhuận trong tương lai. Vì lợi nhuận là kết quả tổng
hợp của toàn bộ quá trình kinh doanh nên nó bị chi phối bởi rất nhiều các yếu
tố. Hai yếu tố tác động trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp là các khoản
thu nhập và chi phí kinh doanh. Việc phân tích chi tiết các yếu tố này là một
trong các việc làm quan trọng góp phần nâng cao lợi nhuận của Ngân hàng.
Tóm lại, hai mục tiêu chính của phân tích hoạt động kinh doanh là phát
hiện các lĩnh vực kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận cao và hạn chế
tối thiểu các rủi ro phát sinh trong quá trình kinh doanh tiền tệ. Lợi nhuận và
rủi ro là hai yếu tố song hành. Lĩnh vực kinh doanh nào càng mang lợi nhuận
cao thì càng gặp rủi ro lớn. Do đó, các nhà Ngân hàng phải luôn sáng suất,
khách quan để lựa chọn một chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng của
mình.
5. Phương pháp phân tích.
a. Phương pháp luận.
Phân tích hoạt động kinh doanh phải lấy phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở. Điều này được thể hiện qua các diểm sau
đây:
a.1. Phải nghiên cứu,xem xét các sự kiện kinh tế ở trạng thái vận động
và phát triển.
Bản thân số liệu kế toán trong một kỳ phân tích chưa chắc đã phản ánh
đầy đủ chất lượng hoạt động, xu hướng phát triển của đơn vị. Vì vậy, khi phân
tích ta phải nghiên cứu các sự kiện kinh tế qua nhiều thời kỳ để thấy được xu
hướng phát triển và tính quy luật của hiện tượng. Trên cơ sở đó ta có thể đưa
ra những nhận định đúng đắn, có căn cứ khoa học về sự kiện, hiện tượng đó.
a.2. Khi phân tích hoạt động Ngân hàng các nhà quản trị phải nghiên

cứu hiện tượng kinh tế trong mối quan hệ hữu cơ với các hiện tượng kinh tế
khác.
Một hiện tượng kinh tế thường chịu ảnh hưởng bởi nhiều hiện tượng
kinh tế khác, các hiện tượng kinh tế này được gọi là các nhân tố ảnh hưởng.
Mặt khác, hiện tượng kinh tế đang nghiên cứu cũng có thể ảnh hưởng đến các
hiện tượng kinh tế khác. Như vậy, các hiện tượng luôn có mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Do đó, muốn đánh giá đúng đắn hiện tượng kinh tế, chỉ đúng các
nguyên nhân, xác định đúng mức tác động của các nhân tố ảnh hưởng cần
phải xem xét toàn diện các mối quan hệ kinh tế của nó. Nói cách khác, khi phân
tích hoạt động kinh tế các nhà quản trị không thể xem xét từng hiện tượng một
cách riêng rẽ, cô lập mà phải đặt chúng trong mối quan hệ với các hiện tượng
kinh tế khác.
a.3. Các nhà quản trị cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi đánh giá
các hiện tượng kinh tế.
Mọi hiện tượng kinh tế đều có quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi
qua nhiều thời kỳ. Vì vậy, muốn đánh giá bản chất của hiện tượng, khi phân
tích ta không chỉ nghiên cứu tình hình hiện tại mà còn phải quan tâm đến quá
khứ tức là phải quán triệt quan điểm lịch sử. Tuy nhiên cần phải thấy rằng
trong những thời gia khác nhau, hiện tượng kinh tế mang lại những biểu hiện,
đặc điểm khác nhau. Cùng một hiện tượng, ở cùng một mức độ như nhau
trong điều kiện này ta kết luận tốt nhưng trong điều kiện khác ta có thể nhận
định là xấu. Vì vậy, để đánh giá đúng chất lượng công tác Ngân hàng, cần chú
ý đến điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng lúc từng thời kỳ.
a.4. Một nguyên tắc không thể thiếu khi tiến hành hoạt động phân tích là
xem xét các hiện tượng kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách quan.
Phân tích hoạt động kinh tế là quá trình nhận thức và cải tạo hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng làm cho hoạt động của Ngân hàng phù hợp với
từng điều kiện cụ thể và với yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan. Muốn
nhận thức đúng thực trạng kinh doanh của Ngân hàng đòi hỏi phân tích phải
xuất phát từ thực tiễn hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, sử dụng các

phương pháp khoa học để phân tích, đánh giá. Báo cáo phân tích phải chính
xác, trung thực, tránh chủ quan, phiến diện, thoát ly thực tế.
a.5. Ngoài ra, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế , các nhà quản trị
phải chú ý phát hiện những mâu thuẫn, phân loại mâu thuẫn và đề ra các biện
pháp giải quyết mâu thuẫn.
Quá trình vận động và phát triển của các hoạt động kinh tế luôn tồn tại
các mâu thuẫn. Chính mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn là động lực thúc đẩy
các hoạt động kinh tế phát triển. Phân tích phải phát hiện được các mâu thuẫn
chủ yếu. Có như vậy, nhà quản trị mới nhận biết được khả năng tiềm tàng của
Ngân hàng và đề ra được biện pháp giải quyết mâu thuẫn hữu hiệu.
a.6. Cuối cùng, người phân tích cần phải đi sâu vào từng bộ phận cấu
thành chỉ tiêu phân tích
Bởi vì, tất cả các kết quả kinh doanh được biểu hiện trên các chỉ tiêu
phân tích đều bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Việc đi sâu nghiên cứu các bộ
phận sẽ giúp ít nhiều trong công việc xác định nguyên nhân tăng giảm của các
chỉ tiêu.
b. Phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại.
Trong những thập kỷ gần đây, cộng đồng Ngân hàng thế giới đã đưa ra
nhận định: Muốn duy trì tính lành mạnh và ổn định của một Ngân hàng
thương mại cần phải có 5 yếu tố. Các yếu tố này được tiêu thức hoá thành
phương pháp phân tích CAMEL. Đây là phương pháp phân tích được hầu hết
các nước trên thế giới áp dụng. CAMEL là chữ viết tắt của các từ tiếng Anh
sau:
- C: { Capital }: Vốn của bản thân Ngân hàng.
- A: { Asset Quality }: Chất lượng tài sản có.
- M: { Management Ability }: Năng lực quản lý.
- E: { Earnings }: Khả năng sinh lợi.
- L: { Liquidity }: Khả năng thanh khoản.
Đây là các yếu tố quan trọng mà nhà quản trị cần tập trung phân tích.

b.1. Vốn của bản thân Ngân hàng.
Vốn tự có là vốn riêng của Ngân hàng chủ yếu do các chủ sở hữu đóng
góp và một phần được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận
được giữ lại. Vốn tự có gồm hai phần: Vốn tự có cơ bản và vốn tự có bổ xung.
- Vốn tự có cơ bản bao gồm: Vốn cổ phần thường (hay vốn điều lệ), vốn
cổ phần ưu đãi vĩnh viễn, các quỹ dự trữ và dự phòng, lợi nhuận không chia và
các khoản khác.
-Vốn tự có bổ xung gồm có: Vốn cổ phần ưu đãi có thời hạn, tín phiếu
vốn, trái phiếu được chuyển đổi...Tại Mỹ, Pháp vốn tự có bổ xung chỉ được tính
tối đa là 50% so với vốn tự có cơ bản.
Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản đồng thời là yếu tố tài chính quan
trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy,
quy mô vốn tự có là yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và các quy mô
thuộc tài sản có. Vốn tự có của Ngân hàng có chức năng sau:
- Chức năng bảo vệ.
- Chức năng hoạt động.
- Chức năng điều chỉnh.
Cụ thể, vốn tự có được các nhà Ngân hàng Việt nam sử dụng vào các
mục đích sau:
- Mua sắm tài sản cố định, trang thiết bị, nhà cửa...
- Bù đắp tổn thất khi không còn nguồn trang trải.
- Là thước đo giới hạn các hoạt động kinh doanh như:
+ Huy động vốn <= 20 lần vốn tự có
+ Cho vay một khách hàng <= 10% vốn tự có.
+ Hùn vốn liên doanh mua cổ phần < 50% vốn tự có.
+ Cho vay đối tượng nội bộ < 5% vốn tự có.
Để đánh giá đúng và thực tế vốn của bản thân ngân hàng, các nhà quản
trị thường sử dụng hai chỉ số sau :

Vốn tự có

Chỉ số 1: H1= ---------------------------
Tổng số tiền huy động
Chỉ số này xác định qui mô vốn của ngân hàng đồng thời tính toán khả năng
huy động của một đồng vốn tự có.
Vốn tự có
Chỉ số 2: H2= ---------------------------
Tổng giá trị tài sản có
Chỉ số này xác định độ an toàn của vốn tự có đối với qui mô hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
5 x Lợi nhuận ròng 50 x Vốn điều lệ
Chỉ số 3: Quỹ bảo toàn vốn = ------------------------ < -----------------------
100 100
Nhằm bảo toàn vốn trong kinh doanh do chi phí cơ hội gây ra, do tốc độ lạm
phát của nền kinh tế gây ra.
10 x Lợi nhuận ròng
Chí số 4: Quỹ dự phòng rủi ro = ---------------------------
100
Nhằm dự phòng rủi ro trong kinh doanh. Quỹ này được lập cho đến khi bằng
vốn điều lệ.
b.2. Chất lượng tài sản có.
Tài sản có là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả
năng thanh toán của một Ngân hàng. Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng
hợp nhất nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lợi và
năng lực quản lý của một Ngân hàng. Tuyệt đại đa số rủi ro vốn có trong kinh
doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản có.
Tài sản có của Ngân hàng thương mại bao gồm:

×