Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.12 KB, 26 trang )

Giới thiệu về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
1.1 Tổng quan tình hình tài chính ngân hàng tại Việt Nam
1.1.1 Khái quát nền kinh tế Việt Nam trong năm vừa qua.
Trong năm vừa qua, bên cạnh những thuận lợi cơ bản do 20 năm đổi mới tạo
ra, nền kinh tế Việt Nam phải đương đầu với nhiều khó khăn về thiên tai: đầu
năm nắng hạn, giữa và cuối năm mưa lớn, lũ quét, lốc xoáy, mưa đá, bão, nhất
là ba cơn bão thế kỷ số 1, số 6 và bão số 9 tàn phá nặng nề. Dịch bệnh lở mồm
long móng đàn gia súc bùng phát trên diện rộng. Bệnh rầy nâu, vàng lùn và lùn
xoắn lá phá hại vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long gây thiệt hại nặng nề. Giá cả
một số mặt hàng như xăng dầu, phân bón, thuốc sâu trên thế giới biến động lớn.
Thị trường xuất khẩu da giày vào EU bị thu hẹp... Song, nhờ sự chỉ đạo điều
hành sát sao của Chính phủ thông qua những chính sách phù hợp và kịp thời,
cùng với sự nỗ lực cố gắng của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp nên nền
kinh tế Việt Nam năm 2006 vẫn phát triển toàn diện theo hướng bền vững.
Nền kinh tế nước ta năm 2006 vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao.
Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu do Quốc hội đề ra đều đạt và vượt kế
hoạch. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tăng gần 8,2% (kế hoạch 8%),
trong đó khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,23% (kế hoạch 3,8%),
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,46% (kế hoạch 10,2%), riêng công
nghiệp tăng 10,28% và khu vực dịch vụ tăng 8,26%, kế hoạch tăng 8%). Đáng
chú ý là tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước: quý I tăng
7,2%; quý II tăng 7,4%; quý III tăng 7,8% và quý IV ước tăng 8,4%. Cơ cấu
kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ: tỷ trọng khu vực I từ 20,89%
GDP năm 2005 giảm còn 20,37% năm 2006, khu vực II tăng từ 41,03% lên
41,56% và khu vực III từ 38,07% tăng lên 38,08% trong 2 năm tương ứng. GDP
bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng, tương đương 720 USD, tăng 80
USD so năm 2005.
Do kinh tế tăng trưởng khá nên tình hình tài chính lành mạnh. Tổng thu ngân
sách năm 2006 ước đạt trên 261,1 nghìn tỉ đồng vượt dự toán 9,8% (dự toán là
237,9 nghìn tỉ đồng), tăng 20,3% so năm 2005. Các khoản thu lớn trong nước
đều tăng khá và đạt kế hoạch đề ra. Tổng chi ngân sách ước đạt trên 315 nghìn


tỉ đồng, vượt dự toán (dự toán 294,4 nghìn tỉ đồng) và tăng 20% so với năm
2005. Các khoản chi lớn như: đầu tư phát triển, lương và bảo hiểm xã hội, phát
triển y tế, văn hóa, giáo dục, điều chỉnh lương tối thiểu, chi đột xuất hỗ trợ vùng
bị thiên tai, phòng chống dịch bệnh, sâu bệnh... đều được thực hiện kịp thời,
đúng đối tượng. Bội chi ngân sách nhà nước ước bằng 5% GDP (dự toán 5%),
trong đó trên 80% được bù đắp bằng vay trong nước, 20% vay nước ngoài.
Sản xuất nông lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng trưởng. Giá trị sản xuất khu vực
này năm 2006 ước tăng 4,15% so năm 2005, trong đó nông nghiệp tăng 3,1%,
lâm nghiệp, tăng 1,0%, thủy sản tăng 8,5%.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm sáng nổi bật nhất trong bức tranh kinh tế
Việt Nam. Năm 2006, tổng số vốn FDI đăng ký mới và đầu tư bổ sung đạt trên
10,2 tỉ USD, mức cao nhất kể từ năm 1988 (8,6 tỉ USD năm 1995). Vốn bình
quân 1 dự án 8,4 triệu USD, tăng 1,2 triệu USD năm 2005. Địa phương thu hút
nhiều dự án và vốn đầu tư là Bà Rịa - Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh; Bình
Dương. Nét mới của năm 2006 là có những dự án đầu tư mới khá lớn như Công
ty thép Posco 1126 triệu USD; Công ty TNHH Intel products VN 605 triệu
USD; công ty TNHH phát triển THT 314 triệu USD; Công ty TNHH thép
Tycoon Steel VN 556 triệu USD. Một số công ty tăng vốn nhiều như: Công ty
Intel Produce VN tăng 395 triệu USD; Công ty Bạch Mã tăng 10 triệu USD;
Công ty giày Linh Luh tăng 98 triệu USD; Công ty Canon tăng 70 triệu USD.
Một số tập đoàn kinh tế lớn đã chuyển dự án từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Tập đoàn Nike lo ngại rủi ro kinh doanh ở Trung Quốc đã tuyển dụng 50.000
lao động tại Việt Nam để mở rộng sản xuất. Tập đoàn Intel gia tăng vốn đầu tư
lên trên 1 tỉ USD tại Việt Nam trong năm 2006 là minh chứng rõ ràng.
Các đối tác đầu tư vốn lớn trong năm 2006 là: Hàn Quốc; Hồng Công, Hoa
Kỳ, Nhật Bản, quần đảo Caymen Island, quần đảo Vigines thuộc Anh, Xin-ga-
po. Sự gia tăng các dự án của những tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới, nhất là
Hoa Kỳ và Nhật Bản trong tháng 11 qua Hội nghị APEC 14 đã báo hiệu dòng
đầu tư nước ngoài mới đang dồn về Việt Nam. Chỉ trong 1 ngày, tháng 11-2006
Việt Nam đã thu hút 2 tỉ USD vốn đầu tư và kinh doanh của các doanh nghiệp

nước ngoài, đạt mức kỷ lục so với các năm trước. Cuối năm tỉnh Hà Tây đã trao
giấy phép đầu tư cho Công ty TNHH điện tử Meiko Việt Nam - Nhật Bản với
số vốn lên tới 300 triệu USD,...
Nét nổi bật trong thương mại năm 2006 có 3 sự kiện lớn: Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của WTO, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Quy chế Thương
mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam và xuất khẩu đạt 39,6 tỉ USD
vượt xa kế hoạch đầu năm, tăng 22,1% so với năm trước. Ba sự kiện đó đánh
dấu bước ngoặt trong hoạt động thương mại của Việt Nam trong quá trình hội
nhập sâu vào kinh tế thế giới.
Thị trường trong nước vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định. Tổng mức lưu
chuyển hàng hóa bán lẻ toàn xã hội năm 2006 ước tăng 20,4%, nếu loại trừ tốc
độ trượt giá cũng tăng 11%; doanh thu du lịch tăng 28,5%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12-2006 tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 6,6%
so cùng kỳ năm ngoái, đạt mục tiêu đề ra, thấp hơn tốc độ tăng GDP. Trong bối
cảnh thiên tai, dịch bệnh dồn dập trên diện rộng gây thiệt hại nặng nề nhưng thị
trường và giá cả các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống vẫn ổn định,
không có sốt giá là thắng lợi lớn của Chính phủ trong chỉ đạo vĩ mô, kiềm chế
lạm phát. Giá USD khá ổn định: tháng 12 tăng 1,2% so cùng kỳ năm 2005. Giá
vàng không ổn định và đứng ở mức cao, ước tháng 12-2006 tăng 25,1% so với
cùng kỳ năm 2005.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 40 tỉ USD, tăng 24% so năm 2005. Điều
đáng chú ý là hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng trưởng cao và
đạt kim ngạch cao. Đã có 9 mặt hàng có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD là
gạo, cao su, dầu thô, hàng dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, thủy sản, điện tử,
máy tính, hàng hóa khác... Nhiều mặt hàng trong nhóm này sẽ vượt kế hoạch
năm với khoảng cách lớn. Hai mặt hàng có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất là cao
su, than đá. Hạt tiêu cũng là mặt hàng tăng trưởng mạnh, đạt kim ngạch cao
nhất trong các năm gần đây. Mặt hàng giày dép vẫn tiếp tục có tốc độ tăng
trưởng ấn tượng trong điều kiện bị áp thuế chống bán phá giá vào thị trường
EU. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng giày dép vẫn tăng tới 21,5% so với cùng

kỳ. Tốc độ tăng trưởng trên có sự đóng góp rất lớn của thị trường châu Mỹ.
Kim ngạch nhập khẩu cả năm 2006 ước đạt 44 tỉ USD tăng 20% so năm trước.
Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nhiên liệu, nguyên liệu, phụ
liệu dệt may. Hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhập siêu năm 2006 ước đạt
4,4 tỉ USD, bằng 10,4% kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn năm 2005.
Do kinh tế tăng trưởng khá nên các mục tiêu của chiến lược phát triển xã hội
và môi trường đạt kết quả khá. Hầu hết các chỉ tiêu do Quốc hội đề ra về lĩnh
vực này đạt kế hoạch. Đã tạo việc làm mới cho 1,6 triệu lao động, giảm tỷ lệ hộ
nghèo theo chuẩn mới xuống 19%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng dưới
24%. Các lĩnh vực về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa
thông tin, dạy nghề, y tế, thể dục thể thao... cũng có chuyển biến tích cực. Đời
sống dân cư ổn định và được cải thiện đáng kể. Thu nhập của cán bộ viên chức
và người về hưu đựợc nâng lên do tăng lương tối thiểu từ 350 nghìn đồng lên
450 nghìn đồng/tháng từ ngày 1-10-2006. Bộ mặt nông thôn đổi mới, cơ sở hạ
tầng được xây dựng mới và nâng cấp. Tình trạng thiếu đói giáp hạt trong nông
thôn đã giảm so với các năm trước: số hộ giảm 58% và số khẩu giảm 58,9%, dù
cho thiên tai, dịch bệnh năm 2006 nhiều hơn các năm trước. An ninh quốc
phòng được giữ vững, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Điều
đó đã được chứng minh qua Hội nghị Cấp cao APEC 14 tại Hà Nội.
Bên cạnh thành tựu và tiến bộ, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2006
vẫn còn nhiều yếu kém và bất cập. Tốc độ tăng GDP chưa vững, chưa đều và
còn thấp so với tiềm năng. Chất lượng của sự tăng trưởng và sức cạnh tranh của
nền kinh tế còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm và không đều. Tình
trạng thất thoát nguồn lực tài chính, tài nguyên thiên nhiên và lao động còn lớn.
Tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước, ngân sách quốc gia vẫn còn nghiêm
trọng. Công tác cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu. Cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước chậm và không đạt kế hoạch. Các cân đối vĩ mô của nền kinh
tế - tài chính chưa vững chắc. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, nhất
là vùng nông thôn, miền núi. Một số vấn đề về phát triển kinh tế bền vững... còn
nhiều hạn chế. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về cơ hội và thách

thức khi Việt Nam gia nhập WTO và có PNTR còn nhiều bất cập. Nợ nước
ngoài đã chạm ngưỡng khung an toàn... Những hạn chế và bất cập đó thể hiện
rõ trong từng ngành và lĩnh vực kinh tế.
Về giá cả, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống chiếm tỷ trọng lớn nhất liên quan
đến đời sống hàng chục triệu hộ gia đình giá lại tăng liên tục trong 12 tháng với
mức trên 8%. Đáng lo ngại là giá lương thực tăng cao và liên tục, trong đó tháng
9 tăng 0,4%, tháng 10 tăng 1,3%, tháng 11 tăng 3,8% và ước tháng 12 vẫn tăng
trên 2%, chung 12 tháng tăng trên 13%. Do vậy, Chính phủ đã quyết định
ngừng xuất khẩu gạo. Nguyên nhân tăng giá lương thực là do cầu tăng nhanh,
cung tăng chậm: lúa hàng hóa vụ hè thu giảm mạnh, nhất là đồng bằng sông
Cửu Long, trong khi đó nhu cầu gạo xuất khẩu tăng cao. Tốc độ và kim ngạch
xuất khẩu năm 2006 tăng cao, nhưng chưa vững vì tỷ trọng hàng xuất là hàng
thô như dầu thô, than đá, thủy sản, cao su, cà phê, hạt tiêu, gạo... còn lớn, hàng
tinh chế chất lượng cao còn ít. Những khó khăn và yếu kém trên cần được chú ý
khắc phục trong những năm tiếp theo.
Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã ra Nghị quyết về các chỉ tiêu phát triển
kinh tế - xã hội nămt tới. Về kinh tế, Nghị quyết chỉ rõ: tốc độ tăng GDP đạt từ
5,2% - 5,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 17,4%, vốn đầu tư toàn xã hội đạt 40%
GDP... Với thế và lực mới được tạo ra trong năm 2006, dự báo triển vọng tình
hình kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2007 sẽ lạc quan. Cơ sở của dự báo đó là:
Nguồn lực, nhất là vốn cho đầu tư phát triển sẽ tăng mạnh, nhất là vốn ODA,
FDI. Với việc Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR, khả năng thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài và vốn ODA sẽ tăng mạnh ngay từ những tháng đầu năm.
Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam họp từ ngày 14 đến 15-12-2006, theo
Giám đốc WB tại Hà Nội, ông Klaus Rohland, vốn ODA cho Việt Nam năm
2007 cao hơn năm 2006 (3,74 tỉ USD). Về vốn FDI từ Mỹ, có PNTR hai quỹ
OPIC và Eximbank sẽ hoạt động tốt hơn trong việc thúc đẩy đầu tư và thương
mại của các doanh nghiệp Mỹ ở nước ngoài (Quỹ OPIC bảo đảm đầu tư còn
quỹ EXimbank bảo đảm tín dung xuất khẩu). Theo ông Michael Marine, Đại sứ
Mỹ tại Việt Nam, "đầu tư của Mỹ và Việt Nam (năm 2007) sẽ tăng gấp đôi mức

hiện nay" (4 tỉ USD). Đầu tư của các doanh nghiệp Mỹ tăng vọt sẽ thúc đẩy
doanh nghiệp các nền kinh tế lớn khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,
EU không đứng yên. Một dòng đầu tư mới vào Việt Nam sẽ chảy mạnh, tạo
nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là công nghiệp và dịch vụ tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm. Dự báo vốn FDI năm 2007 ít nhất sẽ lên tới trên 11 tỉ USD,
tăng 2 tỉ USD so năm 2006. Hoạt động xuất nhập khẩu sẽ nhộn nhịp hơn năm
2006. Về thương mại, PNTR là cơ sở để Mỹ xét lại các mức thuế ưu đãi (trước
đây là 3600 dòng, còn từ năm 2007 là 10 nghìn dòng) cho hàng nhập khẩu từ
Việt Nam. Thêm vào đó, có PNTR và Việt Nam là thành viên WTO hạn ngạch
xuất khẩu hàng dệt may, giày dép, thủy sản vào Mỹ cũng như các vấn đề về bán
phá giá cá basa, tôm, giày da..., sẽ bị bãi bỏ. Do đó, hàng hóa Việt Nam xuất
khẩu vào thị trường Mỹ sẽ tăng mạnh nhất là gạo, cà phê, cao su... Chắc chắn
quan hệ đầu tư và buôn bán giữa nền kinh tế số 1 thế giới và Việt Nam sẽ có
bước ngoặt mới, đầy triển vọng. Dự báo kim ngạch xuất nhập khẩu giữa 2 nước
sẽ đạt trên 11 tỉ USD trong năm 2007 (năm 2006 đã đạt gần 10 tỉ USD, trong đó
Việt Nam xuất khẩu gần 8 tỉ USD). Theo các nhà kinh tế Hoa Kỳ sau PNTR và
WTO, "Nền kinh tế Việt Nam sẽ thay đổi lớn trong đó cán cân thương mại sẽ
nghiêng về Việt Nam" (Nhận định của Ông Walter Blocker, Chủ tịch Phòng
Thương mại Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh). Cùng với Mỹ quan hệ thương
mại giữa Việt Nam với các thị trường khác nhất là EU, Trung Quốc, Nhật Bản
cũng sẽ có bước đột biến và tăng tốc.
Sự tăng tốc về đầu tư và xuất khẩu, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch
vụ có vốn và thị trường mới sẽ tiếp tục phát triển và tăng trưởng cao hơn năm
2006. Do đó, khả năng tăng trưởng GDP 8,5% của năm 2007 là hiện thực. Nếu
năm 2006 không có bão lũ lớn và dịch bệnh lúa đồng bằng sông Cửu Long thì
GDP cũng sẽ tăng trên 8,5% cho dù chưa có PNTR và WTO. Vậy không có lý
do gì từ nay kinh tế Việt Nam lại tăng chậm hơn năm 2006. Kinh nghiệm Trung
Quốc sau 5 năm vào WTO và có PNTR, tốc độ tăng GDP của nước này luôn đạt
trên 9%/năm và năm 2006 đã ước đạt trên 10,5%.
Để biến triển vọng thành thực tế, ngay từ đầu năm các ngành, các cấp, các

doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cần thực hiện nghiêm chỉnh sự điều
hành của Chính phủ trong việc triển khai nhiều giải pháp, tận dụng thời cơ, khắc
phục yếu kém, vượt qua thách thức nhằm thực hiện vượt mức các chỉ tiêu kế
hoạch năm 2007.
1.1.2 Tình hình tài chính ngân hàng tại Việt Nam
Các công cụ chính sách tiền tệ tiếp tục được điều hành linh hoạt nhằm giảm áp
lực tăng tổng phương tiện thanh toán, ổn định lãi suất thị trường, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Chủ động điều tiết
kịp thời thị trường tiền tệ thông qua việc cung ứng tiền mua ngoại tệ để tăng dự
trữ ngoại hối nhà nước và hút tiền về qua nghiệp vụ thị trường mở (bán tín
phiếu Ngân hàng Nhà nước - NHNN) và các kênh tái cấp vốn khác, phù hợp với
chỉ tiêu tổng lượng tiền cung ứng được phê duyệt.Giữ nguyên các mức lãi suất
chủ đạo (lãi suất cơ bản 8,25%/năm, tái cấp vốn 6,5%/năm, chiết khấu
4,5%/năm) và tỷ lệ dự trữ bắt buộc như cuối năm 2005 nhằm ổn định lãi suất thị
trường trước tác động tăng lãi suất trên thị trường quốc tế. Chủ động can thiệp
mua - bán ngoại tệ và thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát của Nhà nước
để duy trì tỷ giá VND so với USD biến động tăng ở mức độ thấp (giảm nhẹ giá
của VND so với USD). Tăng cường giám sát các tỷ lệ an toàn vốn của ngân
hàng thương mại (NHTM), khuyến khích các NHTM sử dụng vốn khả dụng
trong phạm vi tỷ lệ an toàn và đầu tư trái phiếu Chính phủ, giấy tờ có giá khác
để cung ứng vốn cho nền kinh tế và tăng tính thanh khoản. Để tạo điều kiện cho
các TCTD tiếp cận các kênh tái cấp vốn và tăng khả năng điều tiết tiền tệ,
NHNN đã mở rộng danh mục giấy tờ có giá trong các giao dịch tái cấp vốn, bao
gồm cả trái phiếu do Quỹ Hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát triển), trái
phiếu đô thị do ngân sách thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội phát hành. NHNN
thực hiện tái cấp vốn cho các TCTD chủ yếu thông qua phân bổ hạn mức chiết
khấu, hạn chế cho các TCTD vay bằng cầm cố giấy tờ có giá. Đối tượng được
NHNN tái cấp vốn không chỉ là các NHTM nhà nước như những năm trước, mà
đã có thêm nhiều NHTM cổ phần.
Thực hiện mục tiêu kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng để góp phần kiềm

chế lạm phát, đồng thời bảo đảm an toàn, hiệu quả trong hoạt động tín dụng,
năm 2006, NHNN đã tăng cường chỉ đạo các TCTD tập trung vào việc nâng cao
chất lượng tín dụng, kiểm soát tăng trưởng tài sản có rủi ro. Thống đốc NHNN
đã ban hành Chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN và nhiều văn bản khác để chỉ đạo
các TCTD tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt
động kinh doanh, nhất là việc cho vay đối với các nhu cầu vốn để kinh doanh
bất động sản, đầu tư cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
NHNN đã kịp thời chỉ đạo việc xử lý, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
và hộ gia đình vay vốn bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan như bão lụt, dịch
bệnh đối với gia súc, gia cầm và cây trồng… Mặt khác, chủ động phối hợp với
các bộ, ngành liên quan từng bước xử lý khoản nợ tồn đọng của các chương
trình cho vay theo quyết định của Chính phủ trước đây (cho vay khắc phục hậu
quả bão số 5 năm 1997, khắc phục hậu quả thiên tai 1998 - 1999, cho vay tôn
nền hoặc làm sàn nhà trên cọc, chương trình 1 triệu tấn đường, đánh bắt cá xa
bờ).Cơ chế, chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng tiếp tục
được bổ sung, hoàn thiện theo hướng phù hợp hơn, tạo thuận lợi cho hoạt động
kinh doanh của TCTD và khách hàng, như: sửa đổi Quy chế chiết khấu, tái chiết
khấu giấy tờ có giá của TCTD đối với khách hàng; sửa đổi Quy chế huy động
tiền gửi tiết kiệm, Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng
của TCTD đối với khách hàng; Quy chế thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất;
Quy chế mua bán nợ của các TCTD… NHNN cũng đã xây dựng và trình Chính
phủ Đề án đổi mới chính sách tín dụng ưu đãi đối với vùng khó khăn theo
hướng tách bạch rõ tín dụng thương mại và tín dụng chính sách.
Với các giải pháp trên, điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2006 về cơ bản,
đã đạt được mục tiêu là ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế,
đồng thời kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết
quả này thể hiện qua một số điểm:
- So với cuối năm 2005, lãi suất VND của các TCTD tăng nhẹ khoảng
0,25%/năm. Diễn biến này phù hợp với cung - cầu vốn thị trường, diễn biến
kinh tế - tiền tệ trong nước và lãi suất thị trường quốc tế.

- Tỷ giá VND so với USD tăng dưới 1,5%, phù hợp với mục tiêu khuyến khích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư, cải thiện cán cân thanh toán,
tăng dự trữ ngoại hối nhà nước. Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào, nên có thời
điểm, tỷ giá bán ra của các NHTM ở dưới mức trần cho phép. Tỷ giá trên thị
trường tự do cũng biến động theo xu hướng của tỷ giá trên thị trường chính thức
với mức chênh lệch thấp (từ 3 - 20 đ/1USD), ngoại trừ việc tăng đột biến trong
một vài ngày đầu tháng 5/2006. Tính đến ngày 31/12/2006, tỷ giá bình quân
trên thị trường liên ngân hàng tăng 1,36% so với cuối năm 2005, trong khi tỷ
giá bán ra của các NHTM tăng 0,88%.
- Dư nợ cho vay nền kinh tế đến ngày 31/12/2006 tăng 21,4% so với cuối năm
2005, tương ứng với mức tăng của năm 2005, sát với mục tiêu đề ra từ đầu năm.
Pháp lệnh Ngoại hối ra đời đã tạo cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho công
tác quản lý ngoại hối của NHNN trong điều kiện hội nhập quốc tế. Để kịp thời
cụ thể hóa các nội dung quan trọng của Pháp lệnh, NHNN đã khẩn trương xây
dựng, trình và được Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn Pháp lệnh Ngoại
hối. Đồng thời, NHNN tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa các quy định liên quan nhằm
thực hiện tự do hóa các giao dịch vãng lai, như: hướng dẫn việc ủy quyền cho
TCTD xem xét giải quyết nhu cầu mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài
của công dân Việt Nam thay cho cơ chế xem xét, cấp phép của NHNN trước
đây; huỷ bỏ việc báo cáo thu, chi ngoại tệ trong ngày đối với các ngân hàng
được phép hoạt động ngoại hối; cho phép triển khai thí điểm cơ chế mua, bán
ngoại tệ tiền mặt theo tỷ gá thỏa thuận tại các TCTD được phép hoạt động ngoại
hối.
Cùng với đổi mới các cơ chế chính sách khác, việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế,
chính sách về quản lý ngoại hối theo hướng thông thoáng, đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế đã có tác động tích cực đến đâu tư của nước ngoài vào Việt Nam
(bao gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp), kéo theo dòng chảy của các
luồng vốn và cải thiện đáng kể cung cầu ngoại tệ của Việt Nam.
Nhờ nguồn cung ngoại tệ dồi dào, nên lượng ngoại tệ NHNN mua được lớn
hơn nhiều so với lượng ngoại tệ NHNN bán ra, làm cho dự trữ ngoại hối nhà

nước tăng đều và tương đối ổn định, góp phần thực hiện tốt mục tiêu chiến lược
của ngành Ngân hàng từ nay đến năm 2010 là tăng nhanh dự trữ ngoại hối nhà
nước. Hiện nay, dự trữ ngoại hối nhà nước đã đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ
tương đương 12 tuần nhập khẩu (đạt mức tối thiểu theo thông lệ quốc tế), giúp
nâng cao khả năng thanh toán quốc tế và hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt
Nam. Khác với những năm trước, trong năm 2006, ngoài các NHTM nhà nước,
NHNN còn đáp ứng nhu cầu mua ngoại tệ của nhiều NHTM cổ phần.
Năm 2006, NHNN đã tổ chức đánh giá toàn diện mô hình tổ chức, hoạt động,
khung pháp lý, hạ tầng hỗ trợ hoạt động giám sát ngân hàng, đồng thời đánh giá
mức độ tuân thủ của hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng Việt Nam theo các
nguyên tắc của Uỷ ban giám sát ngân hàng quốc tế (BASEL). Trên cơ sở đó,
xác định những vấn đề còn hạn chế, bất cập làm giảm hiệu lực, hiệu quả công
tác thanh tra, giám sát ngân hàng, tạo cơ sở cho việc xây dựng Đề án cải cách tổ
chức và hoạt động thanh tra ngân hàng phù hợp với định hướng chiến lược phát
triển thanh tra ngân hàng đến năm 2010; đến nay, việc xây dựng Đề án này đã

×