Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.89 KB, 25 trang )

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP-
NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA.
I/. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP-NÔNG THÔN VÀ GIẢI QUYẾT
TÌNH TRẠNG NGHÈO ĐÓI Ở VIỆT NAM.
1. Vai trò của nông nghiệp-nông thôn trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội ở nước ta.
Xét trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường, nông nghiệp-nông thôn có vị
trí hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội của mỗi nước. Hầu
hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến phát triển nông nghiệp - nông
thôn vì đây là lĩnh vực rộng lớn, là nơi sản xuất lương thực thực phẩm và
nguyên liệu nông nghiệp gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Không những thế, nông nghiệp-nông thôn còn là một thị trường tiêu thụ rộng
lớn của công nghiệp và các ngành khác. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nước
trên thế giới đã lấy nông nghiệp - nông thôn làm điểm xuất phát của quá trình
phát triển hay cải cách kinh tế.
Đối với nước ta, một nước có tỷ lệ nông nghiệp lớn lại chủ yếu là sản
xuất nhỏ, nông nghiệp-nông thôn lại càng có vị trí đặc biệt quan trọng. Vai trò
và vị trí quan trọng đó được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây:
Trước hết, nông nghiệp - nông thôn là khu vực duy nhất cung cấp lương
thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất cho tiêu dùng xã
hội. Nông nghiệp phát triển là điều kiện quan trọng để xây dựng quỹ tiêu dùng
ngày càng lớn cho xã hội và góp phần tích luỹ cho nền kinh tế. Hiện nay, nông
nghiệp-nông thôn nước ta sản xuất ra nông sản phẩm chiếm 37,4% giá trị tổng
sản phẩm xã hội, 45,4% giá trị thu nhập quốc dân, 34,5% GDP và 52,2% giá trị
kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy nông nghiệp-nông thôn có tác động mạnh mẽ đến
đời sống kinh tế - chính trị của đa phần dân cư.
Nông nghiệp phát triển sẽ tạo cơ sở thúc đẩy các ngành công nghiệp
phát triển. Vì một mặt nó là nguồn cung cấp các nguồn nguyên vật liệu chủ yếu
cho nhiều ngành công nghiệp như: công nghiệp chế biến nông-lâm- thuỷ sản,
công nghiệp dệt, tiểu thủ công nghiệp... Mặt khác, nó là một thị trường tiêu thụ


rộng lớn cho các ngành công nghiệp này, vì thế nó có ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển của nền kinh tế. Trong khi các sản phẩm công nghiệp của ta khó
tìm được thị trường xuất khẩu do chất lượng kém, thiếu sức cạnh tranh thì thị
trường trong nước có một vai trò quan trọng để các ngành này có thể phát
triển được. Nói đến thị trường trong nước thì không thể không kể đến thị
trường nông thôn với gần 80% dân số sinh sống. Nếu sức mua của thị trường
này tăng thì thị trường tiêu thụ tăng và các ngành công nghiệp sẽ có cơ hội
phát triển, ngược lại nếu sức mua của thị trường này bị giảm thì sẽ cản trở
việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
Nông nghiệp - nông thôn không chỉ cung cấp lương thực thực phẩm để
nuôi sống toàn bộ dân cư mà còn có sản phẩm thặng dư để xuất khẩu. Hiện
nay nguồn xuất khẩu chủ yếu của nước ta là dựa vào nông nghiệp. Hàng năm
nguồn xuất khẩu từ gạo và các sản phẩm nông nghiệp khác đã mang lại cho
chúng ta một lượng ngoại tệ đáng kể. Tỷ trọng xuất khẩu nông nghiệp chiếm
trên 52% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế.
Nông thôn Việt Nam nằm trải rộng trên những vùng kinh tế lớn của đất
nước, là cơ sở cho việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hình thành và phát triển
cơ cấu hợp lý với chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất.
Có một vấn đề cũng rất quan trọng mà nói đến nông nghiệp-nông thôn
ta không thể không nhắc đến đó là: Nông nghiệp - nông thôn phát triển sẽ góp
phần ổn định tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng. Nông
nghiệp-nông thôn phát triển thì ý thức của người dân về bảo vệ môi trường
cũng tốt hơn.
2. Vai trò của hộ nông dân trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông
nghiệp-nông thôn và giải quyết tình trạng nghèo đói ở nước ta.
Hộ nông dân được hiểu là một đơn vị sản xuất nhận khoán ruộng đất,
vườn đồi, cây, hồ ao, rừng,... do hợp tác xã hoặc chính quyền địa phương giao
cho để tự chủ sản xuất chế biến, tiêu thụ sản phẩm . Đó là một đơn vị kinh tế tự
chủ được quyền quan hệ với các tổ chức và các thành phần kinh tế trên cơ sở
bình đẳng cùng có lợi. Nó gắn liền với thị trường và sản xuất hàng hoá, do đó

quá trình hình thành và phát triển của hộ nông dân gắn liền với quá trình tích
tụ và tập trung sản xuất.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển từ mô hình sở hữu tập thể, hiện nay
mỗi hộ nông dân được xem là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh
doanh. Điều này đã khích lệ người nông dân quan tâm đầu tư nhiều vốn, kỹ
thuật vào thửa ruộng, mặt nước ao hồ... của mình để nâng cao đời sống gia
đình, góp phần vào sự nghiệp phát triển nông thôn.
Trong tình hình phát triển kinh tế hiện nay, hộ nông dân đóng một vai
trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp-nông thôn
và góp phần to lớn trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta.
Do tính chất là một đơn vị kinh tế tự chủ, cơ bản và ổn định nên hộ nông
dân là những đơn vị cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng nông, lâm, ngư nghiệp
không những cho thị trường trong nước mà cho cả thị trường quốc tế. Sản
phẩm nông nghiệp của hộ chiếm 48% giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp, 95%
sản lượng chăn nuôi, 93% sản lượng rau quả. Tính tự chủ đã làm cho người
nông dân mạnh dạn và tận tâm đầu tư vào ngành nghề mà họ cho là có hiệu
quả từ đó nâng cao hiệu quả của việc sản xuất. Theo nhà bác học người Nga
A.V Trai Anop (1889-1959) thì: “ Hộ nông dân là phương tiện tuyệt vời để tăng
trưởng và phát triển nông nghiệp”.
Trải qua 15 năm đổi mới, nền nông nghiệp nước ta đã có những tiến bộ
vượt bậc nhưng vẫn còn là một nền nông nghiệp lạc hậu. Để công nghiệp hoá
và hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn như chủ trương của Đảng và Nhà
nước trong một môi trường kinh tế như thế thì việc đa dạng hoá các ngành
nghề, chú trọng vào chuyên môn hoá và đặc biệt là hình thành lên nhiều loại
hình doanh nghiệp là cần thiết và hợp lý. Vì vậy hộ nông dân là những ứng cử
viên duy nhất cho việc thành lập doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này sẽ làm
thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn nước ta.
Khi hộ nông dân phát triển sản xuất, nhu cầu về vốn đầu tư sẽ nhiều và
sẽ dẫn đến việc hình thành nhiều ngành dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp. Điều
này sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động đồng thời tăng trưởng

phần đóng góp của khu vực nông thôn đối với nền kinh tế. Vai trò của hộ nông
dân trong sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp-nông thôn ở nước ta là rất
lớn. Việc đầu tư phát triển hộ nông dân sản xuất có hiệu quả là một việc làm
rất quan trọng đối với mọi ngành trong sự nghiệp hiện đại hoá nông thôn vì họ
chiếm phần lớn trong kinh tế nông thôn.
II/. TÍN DỤNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ TRONG QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN.
1. Khái niệm tín dụng
Về bản chất, tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau và hoàn trả cả gốc
và lãi trong một khoảng thời gian nhất định đã được thoả thuận giữa người đi
vay và người cho vay. Hay nói một cách khác, tín dụng là một phạm trù kinh tế,
trong đó mỗi cá nhân hay tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá
trị hay hiện vật cho một cá nhân hay tổ chức khác với thời hạn hoàn trả cùng
với lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi món vay... Tín dụng ra đời, tồn tại
và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá. Trong điều kiện nền kinh tế còn
tồn tại song song hàng hóa và quan hệ hàng hóa tiền tệ thì sự tồn tại của tín dụng
là một tất yếu khách quan.
Trong nền kinh tế hàng hóa, đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các đơn vị là không hoàn toàn giống nhau. Do đặc điểm
nhu cầu về vốn của các đơn vị tập thể, cá nhân khác nhau làm nảy sinh hiện tượng
chủ yếu phổ biến là trong cùng một thời gian, có những đơn vị kinh tế phát sinh
nhu cầu về vốn tiền tệ cần đáp ứng và bổ sung với khối lượng và thời gian nhất
định. Trong khi đó lại có những đơn vị kinh tế có số vốn nhàn rỗi trong cùng thời
gian đó. Mâu thuẫn này thường xuyên xảy ra và xen kẽ lẫn nhau trong quá trình
tuần hoàn của vốn tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế . Để đảm bảo cho quá trình tái
sản xuất được liên tục và tiết kiệm vốn, có nhiều phương pháp khác nhau nhưng
tín dụng là phương pháp đạt hiệu quả cao nhất. Thông qua hình thức này, những
lượng tiền nhàn rỗi tạm thời được tập trung và đáp ứng nhu cầu vốn, kịp thời
phục vụ cho sản xuất và lưu thông.
Ngoài ra, trong nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do vậy cũng

tồn tại nhiều chế độ sở hữu về vốn khác nhau. Các nguồn vốn này thuộc các chủ
sở hữu khác nhau và độc lập nhưng chúng lại đòi hỏi phải có sự chuyển hóa
lẫn nhau giữa các hình thức sở hữu về vốn . Như vậy, để để điều hòa vốn giữa
các hình thức sở hữu khác nhau mà không xâm phạm đến quyền chủ sở hữu thì
phải thông qua quan hệ tín dụng cho vay có trả cả gốc và lãi.
Hơn nữa, do yêu cầu của chế độ hạch toán thì một đơn vị kinh doanh
phải tự chủ về vốn, chủ động xác định nhu cầu vốn của mình để có thể điều hòa
vốn một cách hợp lý. Do đó tất yếu đòi hỏi phải có nghiệp vụ huy động vốn, từ
đó cho vay đối với các đơn vị thiếu vốn
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tín dụng ngày càng
phát triển cả về nội dung lẫn hình thức, từ tín dụng nặng lãi đến tính dụng
thương mại và tín dụng ngân hàng. Quan hệ tín dụng ngày càng phát triển và
mở rộng thêm, từ quan hệ giữa cá nhân với nhau đến các quan hệ giữa các cá
nhân với tổ chức, quan hệ giữa các tổ chức với nhau, quan hệ giữa các tổ chức
với Nhà nước và đến cao nhất là tín dụng quốc tế.
2. Các hình thức tín dụng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị
trường.
a. Các hình thức tín dụng
Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng lãi. Quan hệ tín
dụng này hình thành vào đầu chế độ nô lệ và tồn tại thậm chí đến tận ngày nay.
Cùng với sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy là sự ra đời của chế độ nô lệ
gắn liền với quá trình phân hoá giàu nghèo rất sâu sắc, các nhu cầu chi tiêu rất
lớn mâu thuẫn với lực lượng sản xuất còn kém phát triển. Các điều kiện kinh tế
xã hội đó đã làm nảy sinh một quan hệ vay mượn đặc biệt khác với quan hệ
vay mượn thông thường trong dân cư : đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả
vốn và lãi sau một thời gian nhất định. Lãi thường rất lớn do nhu cầu đi vay
mang tính cấp bách do khả năng đi vay còn ít ỏi và tính rủi ro cao trong khi sử
dụng vốn vay. Tín dụng nặng lãi với sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán và phục
vụ chủ yếu cho nhu cầu tín dụng tiêu dùng. Tín dụng nặng lãi được coi là
phương pháp tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và

tập trung vốn, tạo điều kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời. Sau đó, do
nhu cầu phát triển, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà
nước ra đời.
- Tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại ra đời sớm hơn tín dụng
ngân hàng nhưng khi nền sản xuất hàng hóa phát triển thì cả hai hình thức
này cùng song song tồn tại và phát triển. Tín dụng thương mại là tín dụng
giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh trong khi tiêu thụ hàng hóa, là việc
mua bán chịu lẫn nhau giữa các nhà tư bản. Như vậy, tín dụng thương mại
chính là việc cho vay bằng hàng hóa, giá trị hàng hóa được hai bên quy ra tiền.
Tín dụng thương mại là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau, giữa các doanh nghiệp
được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Trong nền kinh tế hàng
hóa, mỗi nhà kinh doanh vừa là người mua chịu (người đi vay) vừa là người
bán chịu (người cho vay).
Sự phát triển của nền kinh tế đã góp phần hoàn thiện quan hệ tín dụng
thương mại về nhiều mặt và ngược lại, tín dụng thương mại cũng có tác dụng
tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Tín dụng thương mại không những
góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá mà còn tham
gia vào sự điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp không qua
một tổ chức trung gian nào. Một vai trò không kém phần quan trọng nữa của
tín dụng thương mại là góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông
và do đó làm giảm chi phí lưu thông xã hội.
Tuy nhiên, tín dụng vẫn còn một số hạn chế:
Thứ nhất, do người bán không thể bán hàng hóa vượt quá số lượng mà
mình có và ngược lại, người bán có khối lượng hàng hóa lớn nhưng người
mua chỉ cần mua một phần số hàng hóa đó nên quy mô của tín dụng bị hạn chế
bởi người cung cấp (người bán). Đơn vị bán phải tìm thêm để cho vay hoặc
tiêu thụ bằng phương thức khác.
Thứ hai, tín dụng thương mại là tín dụng hàng hóa nên bị hạn chế về
không gian và thời gian.
Thứ ba, tín dụng thương mại là tín dụng ngắn hạn, nó không thể thoả

mãn nhu cầu của người muốn vay dài hạn. Hàng hóa của người bán vẫn chưa
thoát khỏi chu kỳ sản xuất, do đó nó chưa phải là tiền. Còn người bán trong
thời gian ngắn cần phải thu tiền về để tiếp tục sản xuất và sử dụng một phần
lợi nhuận vào mục đích khác.
Thứ tư, là tín dụng thương mại không thể mở rộng đầu tư vào mọi
ngành trong nền kinh tế quốc dân bởi vì hàng hóa đơn vị bán chịu chỉ có thể là
nguyên liệu của đơn vị mua chịu nhưng đơn vị mua chịu không thể mua bất cứ
hàng hóa nào mà chỉ mua hàng hoá họ cần cho sản xuất kinh doanh của họ và
người bán cũng chỉ có thể đầu tư một chiều. Điều này cũng có nghĩa là có thể
không cần sản phẩm mà người mua chịu hàng hóa của mình có được.
Để khắc phục những khuyết tật trên của tín dụng thương mại, tín dụng
ngân hàng ra đời.
- Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng vô cùng
quan trọng. Có thể nói quan hệ tín dụng ngân hàng giữa doanh nghiệp với
ngân hàng là quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng
cho doanh nghiệp. Ngân hàng ở đây đóng vai trò là tổ chức kinh tế trung gian
đi vay để cho vay. Khi khối lượng hàng hoá sản xuất và lưu thông tăng lên thì
nhu cầu về vốn, trong đó có vốn tín dụng ngân hàng cũng tăng lên.
So với tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng có những ưu điểm hơn
hẳn. Trước hết tín dụng ngân hàng là tín dụng bằng tiền, không bị hạn chế về
không gian địa lý. Điều quan trọng hơn là người nhận được tín dụng thương
mại khi đến hạn trả nợ nếu vì lý do nào đó mà không có hoặc không có đủ tiền
trả thì tín dụng thương mại sẽ gặp bế tắc. Trong trường hợp này tín dụng
ngân hàng sẽ là cứu cánh cho người mua.
Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu
cầu về vốn trong nền kinh tế nếu người vay chấp hành đầy đủ các quy chế tín
dụng của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu của người
vay theo nhiều loại như: tín dụng ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, tín dụng tiêu
dùng, tín dụng trả góp... Trong khi quy mô của tín dụng thương mại bị hạn chế
bởi khả năng của người cấp tín dụng thương mại.

Công cụ của tín dụng ngân hàng là thương phiếu. Sự gắn bó chặt chẽ và
tạo điều kiện để cùng nhau phát triển giữa tín dụng thương mại và tín dụng
ngân hàng chính là việc thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu tại ngân
hàng. Trong thực tiễn sản xuất kinh doanh có nhiều trường hợp khi thực hiện
tín dụng thương mại, tuy thương phiếu chưa đến kỳ hạn thanh toán tiền hàng
nhưng người bán do nhiều nguyên nhân đã cần tiền. Trong trường hợp này
người bán có thể đem thương phiếu đến ngân hàng để xin chiết khấu để giải
quyết nhu cầu vốn của mình. Đồng thời, các ngân hàng thương mại khi cần vốn
cũng có thể mang thương phiếu đã chiết khấu đến Ngân hàng Nhà nước để tái
chiết khấu. Nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu về thực chất là nghiệp vụ tín
dụng ngân hàng .
Tín dụng ngân hàng không những chỉ được đầu tư vào các doanh nghiệp
sản xuất và lưu thông hàng hoá mà còn được đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác
trong nền kinh tế- xã hội và cho vay mọi đối tượng khách hàng miễn là họ có
khả năng hoàn trả.
Tóm lại, sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã khắc phục được những
nhược điểm của tín dụng thương mại. Với tín dụng ngân hàng các doanh
nghiệp sẽ nhận được khối lượng vốn bổ sung cần thiết, từ đó tăng quy mô sản
xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Ngoài
ra, tín dụng ngân hàng còn tăng khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế.
- Tín dụng Nhà nước: Tín dụng Nhà nước là quan hệ tín dụng giữa Nhà
nước với các tầng lớp dân cư hoặc các tổ chức kinh tế-xã hội, được thực hiện
bằng cách phát hành các chứng chỉ nợ thích hợp.
Nhà nước đóng vai trò là người đi vay trong trường hợp nhu cầu chi cho
ngân sách lớn nguồn thu không đáp ứng đủ. Khi đó Chính phủ cân đối ngân
sách bằng cách phát hành trái phiếu. Nếu tiến hành một dự án nào đó mà
Chính phủ không muốn sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì trái phiếu cũng
được phát hành nhằm thu hút vốn cho dự án.
Khi Nhà nước có chủ trương dành vốn ưu đãi cho một số chương trình
đặc biệt mà vốn tín dụng ngân hàng không thể đáp ứng được thì Nhà nước là

người đi vay. Tín dụng ngân hàng được thực hiện để hỗ trợ chương trình cho
vay tạo việc làm, chương trình nhà ở ở đồng bằng Sông Cửu Long, chương
trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình cho vay để tái thiết các
công trình công cộng...
Khái quát các hình thức tín dụng và đặc trưng của nó, ta thấy mỗi hình
thức đều có cả mặt mạnh và cả những mặt hạn chế. Mỗi hình thức tín dụng
đều có những điều kiện kinh tế -xã hội cụ thể dẫn đến quá trình phủ nhận hoặc
bổ sung cho nhau giữa các hình thức tín dụng. Tín dụng nói chung là một thể
thống nhất của nhiều hình thức: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín
dụng Nhà nước và thậm chí cả tín dụng nặng lãi. Bất kỳ một sự loại bỏ nào về
các hình thức tín dụng sẽ dẫn đến phá vỡ tính thống nhất của hệ thống tín
dụng và làm giảm vai trò cực kỳ quan trọng của tín dụng như là một công cụ
có hiệu quả để phát triển kinh tế.
b.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Tín dụng nói chung, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã tập trung được
các khoản vốn nhỏ, lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các
công trình lớn, hiệu quả cao. Tín dụng ngân hàng có vai trò tập trung và tích tụ
vốn từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong nền kinh tế thị trường
tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
Điều đó vừa làm tăng khả năng tích luỹ tư bản vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế nhờ vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nói cách khác, tín dụng ngân hàng
góp phần giảm hệ số nhàn rỗi trong lưu thông và nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn. Nó cũng góp phần vào bình quân hoá lợi nhuận. Nhờ có tín dụng ngân
hàng mà các doanh nghiệp dễ dàng chuyển hướng kinh doanh. Tín dụng ngân
hàng trở thành công cụ làm cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp trở
nên năng động, mềm dẻo, linh hoạt hơn.
Tín dụng ngân hàng còn là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá
trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Ngày nay quan hệ kinh tế

×