Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CHO VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.76 KB, 20 trang )

QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CHO VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM.
I-/ SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG TTCK HOÀN CHỈNH Ở VIỆT NAM.
1-/ Vấn đề tạo lập vốn trong nền kinh té.
Sẽ không có nền kinh tế tăng trưởng cao, thất nghiệp ở mức thấp nếu nhu
cầu về vốn của các doanh nghiệp không được đáp ứng một cách đầy đủ. Hiện
nay nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một thực trạng “éo le”- các doanh
nghiệp “đói vốn” trầm trọng, không có vốn cho những dự án có quy mô lớn,
không có vốn để mở rộng sản xuất, ngược lại Ngân hàng lại dùng vốn không
cho vay được để mua trái phiếu của Chính phủ, tiền tiết kiệm còn tồn rất nhiều
trong dân cư.v.v...
Sở dĩ có những mâu thuẫn như vậy là do:
Thứ nhất là tăng đáp ứng về vốn của các công cụ tài chính tiền tệ hiện có
bị hạn chế.
Thứ hai là thủ tục cho vay vốn của các Ngân hàng đối với các doanh
nghiệp còn rườm rà gây nhiều trở ngại cho người đi vay. Đơn cử một ví dụ:
doanh nghiệp chưa có cơ sở sản xuất riêng phải đi thuê địa điểm, khi muốn vay
vốn của Ngân hàng thì Ngân hàng lại yêu cầu phải có tài sản thế chấp, như vậy
vô hình chung đã đẩy doanh nghiệp đến chỗ “tiến thoái lưỡng nan”, không vay
thì không có vốn để sản xuất, vay thì không có gì để thế chấp để yêu cầu Ngân
hàng cung cấp vốn.
Thứ ba là tâm lý thích giữ tiền mặt, lãi suất của Ngân hàng không hấp
dẫn để người dân gửi tiền đã khiến cho việc huy động vốn trong dân gặp nhiều
trở ngại, khó khăn.
Thứ tư quan trọng hơn và cũng là vấn đề then chốt đó là: nguồn vốn mà
doanh nghiệp cần để sản xuất, để đầu tư cho các dự án .v.v... thường là nguồn
vốn trung và dài hạn, trong khi đó vốn mà các Ngân hàng thương mại huy
động phần lớn là nguồn vốn ngắn hạn, vì vậy việc đầu tư dài hạn cho các
doanh nghiệp bị hạn chế, thường thì Ngân hàng thương mại chỉ đáp ứng được
một phần rất nhỏ nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Để giải quyết tình trạng “đói vốn” của mình, các doanh nghiệp cũng đã áp


dụng rất nhiều hình thức huy động vốn khác ngoài việc vay ở các Ngân hàng
thương mại như: phát hành trái phiếu công ty hoặc phân chia quyền sở hữu
doanh nghiệp bằng cách phát hành thêm cổ phiếu.
Từ năm 1990, cùng với sự ra đời của luật công ty là sự xuất hiện một số
loại trái phiếu với số lượng không lớn mà chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, còn
trái phiếu của ngân hàng và các công ty cổ phần cũng có khiêm tốn về số
lượng. Sự việc xảy ra tương tự đối với các doanh nghiệp nhà nước, chỉ tính
riêng hai doanh nghiệp ngành xi măng số trái phiếu phát hành mới ở mức 330
tỷ- một con số khiêm tốn so với nhu cầu hàng nghìn tỷ của doanh nghiệp. Theo
thống kê mới nhất, việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chỉ
chiếm 5%GDP của cả nước. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn bị đặt
trước tình trạng làm thế nào để có vốn, để mở rộng sản xuất một cách có hiệu
quả?
Câu hỏi dường như có giải đáp khi ta xem xét việc tạo vốn từ cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Tuy nhiên không hẳn là như vậy, bởi vì chúng
ta đã tiến hành cổ phần hoá một cách cưỡng ép, không tạo được động cơ
khuyến khích DNNN cổ phần hoá cũng như thiếu kiên quyết với một số doanh
nghiệp, dẫn đến rất ít DNNN được cổ phần hoá, các loại trái phiếu phát hành
cho đến nay ở Việt Nam có tổng giá trị chiếm khoảng 1%GDP, tập trung vào 10
công ty cổ phần và 10 DNNN đã cổ phần hoá.
Tóm lại, từ những phân tích trên chúng ta thấy rằng đã đến lúc cần phải
có một thị trường vốn hoàn chỉnh, hoạt động một cách có hiệu quả nhằm thực
hiện chức năng làm cầu nối, chuyển vốn từ những người có nhu cầu cho vay
sang những người có nhu cầu vay. Có như vậy các doanh nghiệp sản xuất mới
thoát khỏi sự lệ thuộc về vốn vào hệ thống Ngân hàng thương mại- hoạt động
còn yếu kém, thủ tục hành chính còn rườm rà, khơi được nguồn tiền tiết kiệm
còn tiềm tàng với quy mô lớn trong dân, làm cho các doanh nghiệp linh động
hơn về vốn, dân cư có khả năng quyết định việc cho vay hay đầu tư của mình
để thu được nhiều lợi nhuận nhất- đây chính là yếu tố thúc đẩy sự tăng trưởng
của nền kinh tế, làm cho các hoạt động của nền kinh tế trở nên sôi động, kích

thích các nhân tố trong nền kinh tế tham gia một cách tích cực.
2-/ TTCK- một hình thức kinh tế hiện đại.
Hiện nay, hầu hết nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đều vận hành
theo cơ chế thị trường- trong lịch sử phát triển, kinh tế thị trường đã chứng tỏ
tính ưu việt hơn của nó so với kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung. Ưu việt rõ hơn ở chỗ nào, mỗi chúng ta đều đã thấy rõ. TTCK ra
đời trong nền kinh tế thị trường, chỉ có trong nền kinh tế thị trường hình thức
TTCK mới xuất hiện và đương nhiên TTCK được coi là hình thức hiện đại.
Tính hiện đại ở đây còn được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, giống Ngân hàng, nó huy động vốn nhàn rỗi và cung cấp vốn
đó cho người có nhu cầu vốn số lượng lớn, nhưng ưu việt hơn Ngân hàng ở chỗ
đây là kênh chuyển vốn trực tiếp, nghĩa là vốn được đưa trực tiếp từ nhà đầu
tư tới nơi có nhu cầu vay vốn mà không phải thông qua một hình thức tài
chính trung gian nào cả. Như vậy có nghĩa là: người đầu tư biết chắc tiền của
mình giao cho ai, có nên đầu tư vào hay không, đầu tư vào bao nhiêu và được
hưởng lãi bao nhiêu. Người vay vốn thì biết đối tượng mình định vay là ai, có
thể vay thêm hoặc không muốn vay thì chỉ cần phát hành thêm chứng khoán
hoặc mua lại chứng khoán mà không phải qua Ngân hàng với thủ tục rườm rà,
phải có vật cầm cố hoặc thế chấp.
Thứ hai, cho đến nay, các TTCK đều được điện tử hoá, còn rất ít hình
thức giao dịch thủ công, như vậy máy móc thiết bị để trang bị cho TTCK đều
rất hiện đại để thông tin kịp thời, nhanh chóng, chính xác.
Thứ ba, con người tham gia vào TTCK đều là những phần tử nhanh nhạy,
hiểu biết, có kiến thức sâu rộng, quyết đoán nhanh, tác phong công nghiệp- đây
là những đức tính yêu cầu nhân loại hiện đại cần phải có nếu không muốn tụt
hậu lại phía sau sự phát triển của lịch sử.
Thứ tư, trên TTCK, “hàng hoá” để mua bán không phải là hàng hoá thông
thường có giá trị và giá trị sử dụng mà là loại “hàng hoá” đặc biệt chỉ có giá trị
mà không có giá trị sử dụng. Những loại “hàng hoá” đó là những giấy tờ xác
định một khoản tiền mà người sở hữu nó sẽ được trong tương lai- chúng cũng

được coi là phương tiện để thanh toán. Như vậy trên TTCK người ta mua bán
phương tiện để thanh toán có giá cả và cũng có cả sự “thuận mua vừa bán”,
không có độc quyền- một hình thức thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy rõ tính thời đại của TTCK nó sẽ
trở thành công cụ đắc lực giúp quốc gia nào biết sử dụng nó hợp lý để phát
triển kinh tế. Tất nhiên như vậy không có nghĩa là chỉ có những quốc gia biết
sử dụng mới nên có TTCK bởi tất cả các quốc gia muốn có một nền kinh tế hiện
đại, ổn định, tăng trưởng, phát triển bền vững đều cần phải có TTCK- với tư
cách là một hình thức kinh tế hiện đại và phải biết cách để có một TTCK hoạt
động hữu hiệu.
Bước ra từ hàng nghìn cuộc chiến tranh giành độc lập đầy máu và nước
mắt, đất nước Việt Nam như là một cơ thể ốm yếu đầy thương tích, nghèo đói
với một nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung tự cấp phát triển què quặt.
Trong khi đó thế giới đã chứng kiến những thành tựu rực rỡ về khoa học kỹ
thuật và có những tiến bộ vượt bậc về kinh tế, chủ nghĩa tư bản với những cái
vòi bạch tuộc của nó vươn ra chiếm lĩnh thị trường mọi ngóc nghách trên thế
giới làm cho nền kinh tế toàn cầu trở nên sôi động, xuất hiẹn sự gắn kết giữa
những nền kinh tế quốc gia nhỏ để tạo nên nền kinh tế quốc tế với những hình
thức kinh tế tiên tiến hiện đại. Với xu hướng như vậy, nền kinh tế Việt Nam-
một bộ phận của nền kinh tế thế giới phải thay đổi, phải nỗ lực khắc phục khó
khăn do chiến tranh để lại, áp dụng những cái sẵn có để phát triển, để bắt kịp
với xu thế phát triển của thời đại.
Chúng ta đã phát triển sau các nước tư bản, mà lại gặp nhiều khó khăn,
chính vì vậy chúng ta cần rút ngắn thời gian phát triển kinh tế bằng cách tạo
ra các điều kiện cho phép vận dụng sớm những hình thức kinh tế hiện đại, có
như vậy khả năng bắt kịp nhịp độ phát triển kinh tế thế giới mới có cơ hội xảy
ra. Đây không phải là nhận định máy móc, lý thuyết, mà nó đã được chứng
minh bằng thực tiễn hơn 10 năm đổi mới tính từ năm 1986, chúng ta đã áp
dụng cơ chế thị trường vào nền kinh tế, sử dụng ngay từ đầu các công cụ tài
chính tiền tệ như là đòn bẩy và xung lực chủ yếu để đưa nền kinh tế thoát khỏi

khủng hoảng khắc phục được siêu lạm phát, nền kinh tế có sự tăng trưởng
đáng kể cao nhất là 9-10%. Chúng ta đã thoát khỏi những năm kinh tế kế
hoạch hoá, có một nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, như
vậy việc xây dựng và phát triển TTCK là một tất yếu phù hợp với xu thế thời
đại để chúng ta có những điều kiện thuận lợi hơn, rút ngắn khoảng cách giữa
tốc độ phát triển của kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới.
Kết luận: Việc hình thành và phát triển TTCK ở Việt Nam trở thành một
nhiệm vụ cấp bách và có tầm quan trọng lớn lao và đã được cụ thể hoá trong
nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 8 Đảng Cộng Sản Việt Nam:
“Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước xây dựng TTCK phù hợp với
điều kiện Việt Nam và định hướng phát triển kinh tế- xã hội của đất nước”.
Như vậy, việc chuẩn bị những điều kiện cần và đủ để sớm cho ra đời TTCK là
vấn đề có tầm chiến lược trong công cuộc cải cách kinh tế, thực hiện công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
II-/ NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐẠT ĐƯỢC TRONG NỖ LỰC
NHẰM XÂY DỰNG, DUY TRÌ VÀ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM.
2.1-/ Thuận lợi.
2.1.1- Kinh tế.
TTCK là con đẻ của nền kinh tế hàng hoá mà ở mức độ cao là nền kinh tế
thị trường, nó ra đời nhằm giải quyết mâu thuẫn về vốn trong nền kinh tế,
nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn mở rộng sản xuất hàng hoá của các doanh
nghiệp. Như vậy không thể tồn tại một TTCK trong nền kinh tế tự cấp tự túc
hay nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung- mà ở đó quy mô sản xuất được ấn
định một cách chủ quan, các quy luật kinh tế bị triệt tiêu, sản xuất không vì
mục đích lợi nhuận. Từ đây, ta có thể thấy rõ thuận lợi đầu tiên của Việt Nam
khi xây dựng TTCK là chúng ta đang có một nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường- mặc dù có ý kiến cho rằng đây là một điều đương nhiên thôi, không
nên coi đó là thuận lợi, nhưng phải khẳng định rằng không có nó thì không có
tất cả những thuận lợi kế tiếp.
Hiến pháp 1992 xác định chế độ kinh tế của Nhà nước Việt Nam “ Nhà

nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần với các hình thức tổ chức đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân”. Từ chiến lược này- bắt đầu từ
năm 1986- nền kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển mới, từ
chỗ sản xuất không đủ lương thực để đáp ứng nhu cầu trong nước,Việt Nam
đã trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo, tăng trưởng
kinh tế đạt bình quân 8-9% trong nhiều năm vừa qua, đã có thời gian Việt
Nam được xếp vào một trong số những quốc gia đứng đầu khu vực Đông Nam
Á về tăng trưởng kinh tế. Yếu tố tăng trưởng kinh tế cao và liên tục đã kích
thích sự tăng lên về nhu cầu vốn đầu tư, nhất là đầu tư dài hạn.
Bên cạnh đó, cùng với những chính sách hợp lý, chúng ta đã đẩy lùi được
lạm phát, đưa lạm phát từ mức ba con số xuống một con số, lạm phát được
kiểm soát chặt chẽ.
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Tỷ lệ lạm phát 14,4% 17,5% 5,2% 14,4% 12,7% 4,5%
Những tháng đầu năm 1997 tỷ lệ lạm phát là 1,4% được dự đoán là
2% cho cả năm. Việc giữ lạm phát ở mức cho phép làm giá trị đồng tiền nội tệ,
tỷ giá hối đoái được ổn định, cán cân thanh toán được kiểm soát chặt chẽ. Đây
là những yếu tố làm yên lòng các nhà đầu tư khi muốn đầu tư vào những mục
đích sinh lời khác nhau trong đó có các chứng khoán mua bán trên thị trường.
Không những thế, cộng thêm yếu tố về chính trị, kinh tế, một nguồn tài nguyên
thiên nhiên chưa được thăm dò khai thác, chúng ta sẽ khuyến khích được đầu
tư nước ngoài trực tiếp (FDI) và tiến tới khai thác theo hướng đầu tư gián tiếp
qua TTCK (FPI- Foreign Portfolio Investment) từ đó sẽ thúc đẩy việc mở rộng
TTCK Việt Nam trong tương lai thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, nói như trên không có nghĩa là ngay lập tức nay mai chúng ta
đã có thể có một TTCK như mong muốn, không phải thấy cần là sẽ có, mà việc
có xây dựng được TTCK hay không phụ thuộc vào việc sản xuất có đủ chủng
loại và chất lượng “hàng hoá” để mua bán trên thị trường này hay không. Câu

trả lời phụ thuộc vào các định chế tài chính quốc gia, đó là: các doanh nghiệp
quốc doanh, thuộc khu vực kinh tế nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp hợp doanh và công ty cổ phần thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hoạt động
trong các lĩnh vực công nghệ, thương mại, dịch vụ, tài chính tín dụng và Ngân
hàng.Dựa trên chính sách phát triển kinh tế trong những năm gần đây, các
định chế tài chính này đã được hình thành và phát triển thuận lợi cho hoạt
động của TTCK. Đây là những chủ thể kinh tế tạo ra chứng khoán- hàng hoá
của TTCK, họ quyết định số lượng và chất lượng của những hàng hoá đó dựa
trên nhu cầu về vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh của họ.
Chủ thể kinh tế đầu tiên được đề cập đến là công ty cổ phần- động lực
chính thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế- xã hội- họ dùng công cụ cổ phiếu
để huy động vốn trên thị trường. Cổ phiếu được coi là thứ “hàng hoá đặc sản”
của TTCK do có đặc điểm là lợi tức và rủi ro rất lớn, cổ phiếu làm TTCK trở nên
sôi động. Không có công ty cổ phần, không có cổ phiếu TTCK mất hẳn tính hấp
dẫn- do sự sôi động do mua bán cổ phiếu tạo nên. Từ năm 1992, nhà nước đã
có chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu
quả, điều này đã tạo ra khả năng huy động vốn còn tồn đọng trong nền kinh tế,
vừa hình thành nên nền tảng cho sự ra đời của TTCK đó là sự xuất hiện của các
cổ phiếu và việc mua bán nó giữa doanh nghiệp và các nhà đầu tư. Bên cạnh
việc phát hành cổ phiếu, công ty cổ phần cùng với các doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân đã tiến hành phát hành trái
phiếu- loại hàng hoá cũng có tầm quan trọng và được mua bán rộng rãi trên
TTCK. Cho đến nay, chúng ta đã và đang có một TTCK sơ khai với các loại hàng
hoá như: công trái chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu
công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước, trái phiếu ngân hàng, trái phiếu
và cổ phiếu công ty. Những chứng khoán này chủ yếu được mua bán trên thị
trường cấp 1 hay thị trường sơ cấp, tức là chúng được mua bán, tiêu thu lần
đầu tiên sau khi phát hành giữa người phát hành và nhà đầu tư. Nói như vậy
không có nghĩa là chúng ta không có thị trường thứ cấp, có nhưng nó chưa đi
vào hoạt động một cách chính thức công khai, đơn cử một ví dụ: trong đợt phát

hành công trái thời hạn 5 năm vừa qua của Chính phủ đã xuất hiện những tổ
chức hoặc cá nhân thu mua công trái trong dân và bán cho ngân hàng với mệnh
giá thấp hơn - đây chính là những biểu hiện manh nha của việc xuất hiện thị
trường cấp hai (thứ cấp ) ở Việt Nam.
Chủ thể kinh tế có vai trò không kém phần quan trọng so với công ty cổ
phần là hệ thống ngân hàng. Như chúng ta đều biết, không có những ngân
hàng- những trung gian tài chính- thị trường tài chính không có được lợi ích

×