Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

những vấn đề có tính chất lý luận về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.98 KB, 27 trang )

những vấn đề có tính chất lý luận về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng
1.1. BẢO LÃNH NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG .
1.1.1. Khái niệm, chức năng của bảo lãnh ngân hàng .
1.1.1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng.
Trong nền kinh tế hàng hoá hiện đại, nhu cầu ngày càng cao của xã hội về
các loại hàng hoá dịch vụ phục vụ sản xuất - tiêu dùng đã làm cho hoạt động
thương mại diễn ra mạnh mẽ với xu hướng toàn cầu hoá sâu sắc. Hoạt động
thương mại đã đem lại những lợi ích to lớn cho các doanh nghiệp nhưng cũng
buộc họ phải đối mặt với những rủi ro tờ phía đối tác do sự thiếu chính xác và
không đầy đủ về thông tin. Các doanh nghiệp lúc này nhận thấy rằng cần có cơ
quan chuyên môn giải quyết những vấn đề phát sinh để đảm bảo thúc đẩy quá
trình trao đổi thương mại và giảm thiểu rủi ro từ phía bạn hàng. Và bảo lãnh
của một cơ quan, tổ chức có chuyên môn, uy tín đã thực sự đáp ứng được yêu
cầu của các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm sự đảm bảo từ phía đối tác.
Bảo lãnh, một nét chung nhất, chính là sự cam kết của người bảo lãnh thực
hiện đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ nếu người được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng những cam kết đối với bên yêu cầu bảo lãnh.
Bảo lãnh cần thiết khi hai bên còn chưa tín nhiệm nhau, uy tín và lời hứa của
bên này chưa đủ độ tin cậy đối với bên đối tác. Sự xuất hiện của một bên thứ
ba (bên bảo lãnh) có đủ độ tin cậy với cả hai bên đứng ra thực hiện bảo lãnh
và sẽ là chiếc cầu nối giữa hai bên để đưa họ đến một điểm chung thống nhất.
Với định nghĩa trên, trong xã hội tồn tại rất nhiều loại hình bảo lãnh như
bảo lãnh của một cá nhân với cá nhân khác, bảo lãnh của một tổ chức với một
tổ chức hoặc một cá nhân, hay rộng hơn nữa là bảo lãnh của một tổ chức quốc
tế với một nước, một cá nhân…
Còn trong ngân hàng, bảo lãnh là một nghiệp vụ được định nghĩa như sau:
“Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của TCTD (bên bảo lãnh) với
bên có quyền (bên thụ hưởng bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính
thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên thụ hưởng bảo lãnh.
Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay”.


Như vậy, xét theo các hình thức tín dụng của ngân hàng thì bảo lãnh là một
hình thức tín dụng đặc biệt, “tín dụng chữ ký - signature credit”. Đây là một
hình thức tín dụng mà ngân hàng không trực tiếp cho vay bằng tiền. Nhưng
bằng uy tín (chữ ký) của mình, ngân hàng tạo điều kiện để khách hàng sử dụng
vốn của người khác và đảm bảo thanh toán cho khách hàng. Tuy cũng là một
hình thức tín dụng của ngân hàng nhưng trong quá trình hạch toán bảo lãnh
không làm thay đổi bảng quyết toán tài sản mà được hạch toán ngoại bảng.
Nghiệp vụ bảo lãnh có thể được thực hiện bởi những tổ chức tài chính,
ngân hàng thương mại, các quỹ, các tổ chức bảo hiểm… Trong những trường
hợp đặc biệt, NHNN sẽ tham gia bảo lãnh khi được Chính phủ chỉ định.
1.1.1.2. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng.
Nói chung mục đích và chức năng của bảo lãnh ngân hàng là hình thức phù
hợp nhằm ngăn chặn những rủi ro có thể phát sinh trong quan hệ mua bán,
giao dịch không thường xuyên giữa các bên. Đồng thời bảo lãnh bù đắp những
thiệt hại về mặt tài chính cho người thụ hưởng một cách nhanh chóng và chắc
chắn khi người này chứng minh sự vi phạm của người được bảo lãnh dẫn đến
phát sinh yêu cầu thực hiện bảo lãnh.
Thứ nhất, bảo lãnh ngân hàng là công cụ bảo đảm (Security Instrument).
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Đó là việc ngân hàng cung
cấp cho bên thụ hưởng một khoản bồi thường về tài chính cho những thiệt hại
do hành vi vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh gây ra. Như vậy, ngân
hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự đảm bảo chắc chắn cho người thụ
hưởng từ đó tạo cho họ lòng tin tưởng, sự yên tâm để thực hiện tốt hợp đồng.
Bảo lãnh là một công cụ đảm bảo chứ không phải là công cụ thanh toán. Do
vậy, bảo lãnh chỉ được dùng cho mục đích đảm bảo an toàn cho bên thụ hưởng
khi có biến cố vi phạm hợp đồng chứ không phải lập ra là để nhằm thanh toán
cho người thụ hưởng. Người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh phải
cố gắng hết sức có thể để thực hiện tốt những điều đã được quy định trong
hợp đồng. Vì vậy những khả năng xảy ra nghĩa vụ bồi thường của ngân hàng
thường rất nhỏ. Theo thống kê của các nhà ngân hàng Mỹ thì chỉ có 1% trên

tổng số các bảo lãnh được phát hành ở nước này bị người thụ hưởng yêu cầu
thanh toán. Qua đó, ta có thể thấy rằng bảo lãnh là một công cụ đảm bảo chứ
không phải là một công cụ thanh toán.
Thứ hai, bảo lãnh ngân hàng là công cụ tài trợ (Financing Instrument).
Đối với người được bảo lãnh, bảo lãnh thực sự là một công cụ tài trợ về
mặt tài chính. Trong nhiều trường hợp, khách hàng bắt buộc phải trả cho phía
đối tác một khoản tiền ứng trước, khoản đặt cọc để đảm bảo nghĩa vụ thực
hiện hợp đồng giữa hai bên. Nhưng sau khi được ngân hàng phát hành bảo
lãnh thì khách hàng (người được bảo lãnh) không phải xuất quỹ mà vẫn có thể
thực hiện hợp đồng, thậm chí họ có thể được vay nợ hoặc được kéo dài thời
gian thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, bảo lãnh ngân hàng đã tạo
điều kiện cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi
được cho vay thực sự.
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay thì nhu cầu vốn
tín dụng cũng không ngừng tăng lên. Vì thế, bảo lãnh ngân hàng càng có ý
nghĩa quan trọng, nó đã đáp ứng được kịp thời các yêu cầu phát triển và mở
rộng sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng làm giảm bớt sự căng thẳng về vốn
cho khách hàng.
Thứ ba, bảo lãnh ngân hàng có chức năng đôn đốc việc thực hiện hợp
đồng.
Trong bảo lãnh ngân hàng, người được bảo lãnh phải trả khoản tiền đã
được đảm bảo trong bất kỳ trường hợp nào có tổn thất xảy ra. Nếu anh ta vi
phạm hợp đồng đã được cam kết với người thụ hưởng bảo lãnh thì chính anh
ta phải chi trả khoản thiệt hại cho ngân hàng sau khi ngân hàng đã thanh toán
cho người thụ hưởng. Như vậy, người được bảo lãnh luôn phải có ý thức cao
trong việc hoàn thành nghĩa vụ của mình để tránh trường hợp có thể gây tổn
hại đến những cam kết trong hợp đồng.
Ngân hàng bảo lãnh cũng phải chịu áp lực của việc phải thanh toán thay
nếu như người được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ. Mặc dù
sẽ nhận được một khoản tiền bồi hoàn từ việc người được bảo lãnh vi phạm

hợp đồng nhưng ngân hàng cũng không muốn tình trạng này xảy ra. Và để giữ
vững uy tín của mình, ngân hàng cũng luôn tìm cách để đôn đốc người được
bảo lãnh phải hoàn tất hợp đồng đã ký kết.
Như vậy, bảo lãnh ngân hàng mang ý nghĩa ràng buộc, đốc thúc người
được bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Chức năng này có mối liên hệ rất chặt chẽ
với chức năng bảo đảm vì khi người được bảo lãnh luôn bị đôn đốc thực hiện
tốt hợp đồng thì khả năng được bảo đảm của người thụ hưởng sẽ càng cao.
1.1.2. Các hình thức bảo lãnh ngân hàng.
1.1.2.1. Phân loại theo bản chất của bảo lãnh.
s Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (Accessory Guarantee - Suretyship).
Đây được coi là một loại hình bảo lãnh mang tính truyền thống nếu dựa
trên cơ sở nguồn gốc ra đời của nó. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ có đặc điểm là
ngân hàng và người được bảo lãnh có cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của
khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên và chỉ khi có sự xác nhận nghĩa vụ này bị vi
phạm thì ngân hàng mới thực hiện nghĩa vụ bổ sung của mình. Đặc điểm này
gây bất lợi cho ngân hàng, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong
trường hợp bất kể vì lý do gì người được bảo lãnh không hoàn thành nghĩa vụ
trong hợp đồng cơ sở. Chính vì thế mà ngân hàng thường xuyên phải can
thiệp khá sâu vào giao dịch hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ
hưởng bảo lãnh để tìm hiểu về khả năng hoàn thành nghĩa vụ và đốc thúc việc
hoàn thành nghĩa vụ của người được bảo lãnh, tránh trường hợp người này
không có sự nỗ lực cố gắng hết sức trong việc hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Loại bảo lãnh này thường được dùng chủ yếu trong giao dịch ở phạm vi nội
địa, ít được sử dụng trong quan hệ với nước ngoài.
s Bảo lãnh độc lập (Independent Guarantee).
Trái với bảo lãnh đồng nghĩa vụ, trong bảo lãnh độc lập, nghĩa vụ của ngân
hàng và của người được bảo lãnh là hoàn toàn độc lập, tách rời. Ngân hàng
chỉ tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng khi những điều kiện thanh toán
đã được thỏa mãn. Vì vậy do được tạo ra từ yêu cầu, đòi hỏi trong thực tiễn
nên bảo lãnh độc lập được coi là một dạng bảo lãnh ngân hàng hiện đại.

Bảo lãnh độc lập đem lại nhiều thuận lợi cho ngân hàng bảo lãnh và người
thụ hưởng, vì vậy nó đang được sử dụng phổ biến hiện nay trong thương mại
quốc tế.
1.1.2.2. Phân loại theo phương thức phát hành bảo lãnh.
s Bảo lãnh trực tiếp (Direct Guarantee).
Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm
bảo lãnh sẽ tiến hành phát hành bảo lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người
được bảo lãnh mà không thông qua trung gian nào. Ngân hàng có thể trực tiếp
truy đòi người được bảo lãnh số tiền đã bồi thường cho người thụ hưởng
trong trường hợp người được bảo lãnh không hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Khi người thụ hưởng là người nước ngoài, ngân hàng phục vụ người được
bảo lãnh sẽ thông qua quan hệ đại lý của mình với một ngân hàng tại nước
người thụ hưởng để yêu cầu ngân hàng này chuyển thư bảo lãnh đến người
thụ hưởng.
Loại bảo lãnh này chịu sự chi phối bởi luật pháp được áp dụng ở nước của
người được bảo lãnh. Và ngân hàng phát hành bảo lãnh có thể trực tiếp thanh
toán cho người thụ hưởng mà không cần có sự hoàn trả thư bảo lãnh gốc. Do
đó nếu người thụ hưởng thiếu kinh nghiệm trong thanh toán quốc tế, thiếu
hiểu biết về pháp luật nước ngân hàng phát hành thì sẽ gặp rất nhiều bất lợi,
nhất là khi xảy ra tranh chấp.
Vai trò của ngân hàng thông báo là kiểm tra tính chân thực của bảo lãnh
khi nhận được bảo lãnh từ ngân hàng phát hành, sau đó thông báo và chuyển
nội dung thư bảo lãnh (bằng telex, swift) cho người thụ hưởng. Sự xuất hiện
của ngân hàng thông báo không làm ảnh hưởng đến quan hệ cũng như nghĩa
vụ giữa người được bảo lãnh, người thụ hưởng bảo lãnh và ngân hàng phát
hành. Ngân hàng phát hành vẫn phải thanh toán cho người thụ hưởng khi
phát sinh rủi ro và yêu cầu bồi hoàn thanh toán từ người được bảo lãnh.
Hình 1: Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp.
3’


2 3 3’
1
Ghi chú :
(1) Hợp đồng cơ sở được ký kết giữa người thụ hưởng bảo lãnh và
người được bảo lãnh.
(2) Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh và cam
kết bồi hoàn.
(3) Ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh và chuyển trực tiếp văn bản
bảo lãnh cho người thụ hưởng bảo lãnh.
(3’) Trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài, ngân hàng
phát hành sẽ chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng thông qua
ngân hàng thông báo.
s Bảo lãnh gián tiếp (Indirect Guarantee).
Bảo lãnh gián tiếp là một loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã
phát hành theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được
bảo lãnh (Ngân hàng chỉ thị - Instructing Bank) dựa trên một bảo lãnh khác
gọi là bảo lãnh đối ứng (Counter Guarantee). Vì vậy, trong bảo lãnh gián tiếp
người thụ hưởng không có quyền yêu cầu ngân hàng chỉ thị thanh toán bảo
lãnh cho mình vì giữa ngân hàng chỉ thị bảo lãnh và người thụ hưởng không
có quan hệ ràng buộc gì về nghĩa vụ và trách nhiệm. Ngân hàng phát hành
hoàn toàn cũng không có quyền yêu cầu người được bảo lãnh bồi hoàn, thậm
chí khi ngân hàng chỉ thị bị phá sản. Ngân hàng chỉ thị mới là bên phải có
nghĩa vụ bồi hoàn cho ngân hàng phát hành.
Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ
hưởng là người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của
Ngân hàng
thông báo
Ngân h ng phátà
h nhà
Người thụ hưởng bảo

lãnh
Người được
bảo lãnh
người thụ hưởng. Khi đó ngân hàng trong nước (ngân hàng chỉ thị) uỷ quyền
cho ngân hàng phát hành thực hiện phát hành để tạo thuận lợi cho người thụ
hưởng giao dịch hoặc đòi tiền sau này. Trong trường hợp ngân hàng phát
hành và ngân hàng chỉ thị ở cùng nước với người được bảo lãnh thì ngân hàng
phát hành cũng có thể yêu cầu ngân hàng đại lý của mình ở nước người thụ
hưởng thông báo và chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng như bảo
lãnh trực tiếp.
Bảo lãnh đối ứng chỉ là một công cụ trung gian giữa người bảo lãnh và
người được bảo lãnh. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh đối ứng là thời hạn mà
ngân hàng phát hành phải xuất trình yêu cầu thanh toán đến ngân hàng chỉ
thị. Thời gian đó cho phép ngân hàng phát hành có đủ thời gian xử lý và gửi
chứng từ xuất trình đến ngân hàng chỉ thị đòi thanh toán bảo lãnh đối ứng,
sau khi đã thanh toán cho bảo lãnh chính. Như vậy, ngân hàng phát hành chỉ
có thể đòi tiền ngân hàng chỉ thị tối đa bằng số tiền bảo lãnh mà ngân hàng
phát hành đã thanh toán cho người thụ hưởng.
Hình 2: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp.
4’
3
4 4’
2
1
Ghi chú :
(1) Hợp đồng cơ sở được ký kết giữa người thụ hưởng bảo lãnh và
người được bảo lãnh.
ngân hàng
thông báo
ngân hàng

phát hành
ngân hàng
chỉ thị
người thụ hưởng bảo
lãnh
người được bảo
lãnh
(2) Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chỉ thị cho
ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh.
(3) Ngân hàng chỉ thị chỉ thị cho ngân hàng phát hành tiến hành phát
hành bảo lãnh cho người thụ hưởng, đồng thời cam kết bồi hoàn dựa
trên bảo lãnh đối ứng.
(4) Ngân hàng phát hành trực tiếp phát hành bảo lãnh cho người thụ
hưởng.
(4’) Ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng thông
qua ngân hàng thông báo.
s Đồng bảo lãnh (Syndicated Guarantee).
Đối với những hợp đồng có giá trị lớn, các ngân hàng muốn bảo lãnh cho
khách hàng thì buộc phải tham gia vào đồng bảo lãnh. Vì theo nguyên tắc sử
dụng vốn của một NHTM, các ngân hàng không được phép thực hiện bảo lãnh
cho một khách hàng vượt quá giới hạn tối đa (<= 15% vốn tự có của ngân
hàng) để tránh gây rủi ro, tổn thất cho ngân hàng. Trong loại bảo lãnh này, các
ngân hàng thành viên tham gia trong một nghiệp vụ bảo lãnh sẽ chọn một
ngân hàng đứng ra làm ngân hàng đóng vai trò đầu mối (Leading Bank) để
phát hành bảo lãnh chính. Ngân hàng này sẽ phát hành thư bảo lãnh cho toàn
bộ số tiền bảo lãnh, giữ các chứng từ thế chấp, cầm cố, thu phí bảo lãnh từ
người được bảo lãnh và chia lại cho các ngân hàng thành viên theo tỉ lệ tham
gia. Các ngân hàng còn lại sẽ cam kết chịu trách nhiệm theo từng phần đóng
góp của mình bằng những bảo lãnh đối ứng. Khi ngân hàng chính đã thanh
toán cho người thụ hưởng thì có quyền truy đòi các ngân hàng thành viên

đồng bảo lãnh số tiền mà họ đã cam kết bằng bảo lãnh đối ứng. Đến lượt mình,
các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
Hình 3: Sơ đồ đồng bảo lãnh.
3 4’
2 4
4’
1
Ghi chú :
(1) Hợp đồng cơ sở được ký kết giữa người thụ hưởng bảo lãnh và người
được bảo lãnh.
(2) Người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh.
(3) Ngân hàng phát hành bảo lãnh yêu cầu các ngân hàng khác cùng
tham gia đồng bảo lãnh với mình thông qua các bảo lãnh đối ứng.
(4) Ngân hàng phát hành phát hành trực tiếp văn bản bảo lãnh cho người
thụ hưởng.
(4’) Trong trường hợp người thụ hưởng không cùng nước với ngân hàng
phát hành thì ngân hàng phát hành sẽ phát hành văn bản bảo lãnh cho
người thụ hưởng thông qua ngân hàng thông báo.
Ngoài ra, theo cách phân loại này, bảo lãnh ngân hàng còn có một số loại
bảo lãnh khác như: bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh xác nhận,… Đây là những loại
bảo lãnh được sử dụng thường xuyên trong các quan hệ quốc tế.
1.1.2.3. Phân loại theo mục đích của bảo lãnh.
s Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee).
Đây là cam kết của ngân hàng về việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo
lãnh (người cung cấp). Khi người cung cấp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
hợp đồng như giao hàng chậm trễ hay không đảm bảo về chất lượng, số lượng
hàng hoá thì ngân hàng chịu trách nhiệm bồi thường mức thiệt hại mà người
thụ hưởng phải gánh chịu.
nh 1
ngân h ng thôngà

báo
ngân h ng phátà
h nhà
NH 2
nh 3
người được bảo
lãnh
người thụ hưởng bảo
lãnh
Loại bảo lãnh này được sử dụng khá phổ biến trong thực tế nhất là trong
các hợp đồng cung ứng thiết bị công nghệ, hợp đồng xây dựng… Bảo lãnh thực
hiện hợp đồng cung cấp một đảm bảo cho người thụ hưởng về việc thực hiện
hợp đồng của người được bảo lãnh trong trường hợp người được bảo lãnh
không thực hiện đúng, đầy đủ những nghĩa vụ đã ghi trong hợp đồng. Đây là
loại bảo lãnh được xem là công cụ đối ứng với tín dụng chứng từ.
Số tiền bảo lãnh thường chiếm 10 - 15% giá trị hợp đồng gốc và được giảm
dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng. Thời hạn thư bảo lãnh cũng thường gắn
liền với giá trị lưu hành của hợp đồng cơ sở, vì vậy nó sẽ được kết thúc khi
hoàn thành hợp đồng như hàng hoá vật tư thiết bị đã được giao, công trình
được đưa vào sử dụng đúng với các tiêu chuẩn về số lượng, chất lượng đã
được thoả thuận.
s Bảo lãnh hoàn thanh toán (Repayment Guarantee).
Trong hầu hết các hợp đồng lớn, nhà cung cấp thường được ứng trước từ
5% - 10% giá trị hợp đồng để có nguồn hỗ trợ tài chính thực hiện hợp đồng,
đặc biệt là trong giai đoạn đầu thực hiện dự án. Đổi lại, người mua thường yêu
cầu nhà cung cấp phải có được một thư bảo lãnh hoàn thanh toán của ngân
hàng để trong trường hợp nhà cung cấp không thực hiện đúng hợp đồng, ngân
hàng phải thanh toán khoản tiền ứng trước cho người thụ hưởng. Như vậy
bảo lãnh hoàn thanh toán đã tạo ra sự tin tưởng cho người mua và đồng thời
cũng giúp cho người cung ứng thoát khỏi khó khăn tạm thời về ngân quỹ.

Bảo lãnh hoàn thanh toán chỉ có hiệu lực khi bên được bảo lãnh (bên bán)
đã nhận được tiền ứng trước. Bởi vì nếu bảo lãnh có hiệu lực khi bên được bảo
lãnh chưa nhận được tiền ứng trước thì có khả năng người thụ hưởng sẽ có
hành vi lừa đảo. Họ vẫn tiếp tục đòi thanh toán khoản ứng trước từ ngân hàng
trong khi thực ra họ chưa ứng khoản tiền này cho bên bán hàng.
Mục đích của thư bảo lãnh ứng hoàn thanh toán rộng hơn thư bảo lãnh
thực hiện hợp đồng. Lý do là việc trả tiền theo thư bảo lãnh hoàn thanh toán
được xem như là việc trả lại số tiền người mua đã ứng trước cho nhà cung cấp,
mà số tiền này đã tham gia vào việc thực hiện hợp đồng và nó xem như một
khoản vay. Trong khi đó thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng lại đảm bảo đền bù
cho những tổn thất do việc vi phạm hợp đồng. Thư bảo lãnh hoàn thanh toán

×