Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.37 KB, 33 trang )

TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI

1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM
1.1.1. Lịch sử hình thành NHTM

Nói tới ngân hàng thương mại là nói đến một trung gian quan trọng vào
bậc nhất của nền kinh tế. Hiện nay ngân hàng là một cụm từ quen thuộc của mọi
người nhưng không phải ai cũng viết về lịch sử hình thành của ngành ngân
hàng.
Ngân hàng ra đời gắn liền với nhu cầu phát triển của nền sản xuất hàng
hố. Sự hình thành và phát triển của ngân hàng và sự phát triển của nền kinh tế
có sự tác động qua lại lẫn nhau, sự phát triển của nền kinh tế thúc đẩy và đặt ra
yêu cầu cho sự ra đời của ngân hàng. Sự ra đời của ngân hàng lại giúp cho sự
phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của tiền tệ. Việc đổi tiền hay đúc tiền
của các thợ vàng được coi là nguồn gốc của sự ra đời ngành ngân hàng hiện nay.
Những người cho vay nặng lãi cũng là nguồn gốc cho sự ra đời của nghề ngân
hàng. Lịch sử ra đời của ngân hàng luôn gắn liền với việc cho vay nặng lãi của
những người giàu có, những người này đồng thời cũng làm ln việc đổi tiền.
Yêu cầu về sự an toàn cho các khoản tiền lớn làm phát sinh thêm nghề cất trữ
tiền, việc này cũng thường do những người thực hiện việc đổi tiền đảm nhận.
Có thể gọi những người này là những người kinh doanh tiền tệ. Nghiệp vụ cho
vay được những người kinh doanh ngoại tệ thực hiện từ rất sớm, ban đầu họ
dùng vốn tự có để cho vay nhưng sau đó họ nhận ra rằng có một số người có
nhu cầu gửi tiền và sau một thời gian thì họ rút tiền ra. Tuy nhiên khơng phải
mọi người gửi tiền đều rút tiền cùng một lúc, do vậy ln có một số tiền nhất
định tam thời “nhàn rỗi”, tận dụng điều này những người kinh doanh tiền tệ có


thể lấy số tiền đó cho những người có nhu cầu vay vốn vay. Đây là những hoạt


động sơ khai góp phần hình thành nên ngành ngân hàng.
1.1.2. Lịch sử phát triển của NHTM

Với hình thức ngân hàng đầu tiên là ngân hàng của những người thợ vàng
hay những người cho vay nặng lãi, lịch sử phát triển của ngân hàng bặt đầu
được hình thành. Trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử với sự sụp đổ và
phát triển, ngân hàng ngày càng khẳng định vị thế không thể thay thế của nó
trong nền kinh tế.
Ban đầu khi các ngân hàng của những thợ vàng hay những người cho vay
nặng lãi được hình thành, họ chủ yếu thực hiện các nghiệp vụ giản đơn của ngân
hàng như: Nhận tiền gửi, cho vay phục vụ tiêu dùng, cất trữ tiền. Sau đó các
ngân hàng này cũng phát triển thêm hình thức cho vay với những người giàu có,
vua chúa với mục đích khơng phải là tiêu dùng như phục vụ chiến tranh. Hình
thức cho vay lúc này là thấu chi, tức là cho phép người vay vay nhiều hơn số
tiền mà họ gửi tại ngân hàng. Điều này gây ra rủi ro cho ngân hàng. Các ngân
hàng này sau một thời gian hình thành và phát triển thì đứng trước nguy cơ sụp
đổ vì các ngân hàng thường mất khả năng thanh toán do việc phát hành những
chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay.
Sau sự sụp đổ của ngân hàng của thợ vàng hay những người cho vay nặng
lãi thì ngân hàng của những người lái bn ra đời. Trước nhu cầu vay vốn để
buôn bán, nhu cầu thanh tốn, ngân hàng lái bn ra đời. Hình thức ngân hàng
này được gọi là ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng thương mại ra đời
cùng với tư bản thương nghiệp và sự luân chuyển của tư bản thương nghiệp.
Lúc này các nghiệp vụ ngân hàng cũng được mở rộng hơn so với hình thức
ngân hàng trước: Nhận tiền gửi, thanh tốn, cất giữ, cho vay. Hình thức cho vay
lúc này khơng phải là hình thức thấu chi như trước mà chủ yếu là cho lái buôn
vay để thực hiện việc bn bán của họ dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
Hình thức cho vay này là hình thức cho vay ngắn hạn, nó được hình thành trên
cơ sở sự luân chuyển của hàng hoá. Vào thời điểm này các ngân hàng vẫn



khơng dám cho vay tiêu dùng vì độ rủi ro cao của nó, hình thức cho vay vẫn chủ
yếu là cho vay ngắn hạn, những khoản vay trung va dài hạn hầu như khơng tồn
tại. Hình thức ngân hàng thương mại đầu tiên này sau một thời gian hoạt động
và phát triển thì nhiều ngân hàng rơi và tình trang phá sản, sụp đổ. Sự sụp đổ
này ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của nền kinh tế. Sau đó nhiều hình
thức ngân hàng thương mại khác được thành lập như ngân hàng đầu tư, ngân
hàng phát triển… Các ngân hàng này chủ yếu thực hiện chức năng kinh doanh
tiền tệ. Cùng thời gian này cũng đánh dấu sự ra đời của ngân hàng Nhà nước,
ngoài chức năng kinh doanh tiền tệ như các ngân hàng thương mại khác thì loại
hình ngân hàng quan trọng này cịn có chức năng xây dựng và điều hành chính
sách tiền tệ quốc gia.
Nền kinh tế từng bước phát triển kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ đã tạo điều kiện cho sự ra đời của nhiều hình thức ngân hàng thương
mại khác nhau như: Ngân hàng tư nhân, ngân hàng cổ phần, ngân hàng thương
mại Nhà nước, ngân hàng liên doanh…Bước tiến bộ vượt bậc của giai đoạn so
với giai đoạn trước là sự tách biệt rõ ràng giữa ngân hàng Nhà nước( Ngân hàng
trung ương) với các ngân hàng thương mại khác. Hình thức hoạt động lúc này
của các ngân hàng thương mại cũng được mở rộng không ngừng.


1.2. Chức năng của NHTM

Ngân hàng thương mại hoạt động với vai trị là định chế tài chính quan
trọng, vai trò và chức năng của ngân hàng thương mại ngày càng được mở
rộng. Có thể tóm tắt chức năng của ngân hàng thương mại theo 3 chức năng
chính như sau:
1.2.1. Chức năng làm trung gian tài chính

Đây là chức năng thể hiện rõ nét nhất đặc điểm của ngân hàng thương

mại- một trung gian tài chính. Thực hiện chức năng này tức là ngân hàng đóng
vai trị là người trung gian giúp chuyển vốn từ những đối tượng tạm thời dư vốn
đến những người thiếu hụt vốn và có nhu cầu vay vốn. Sự tồn tại của ngân hàng
thương mại là vơ cùng cần thiết vì sự hai đối tượng trên nếu quan hệ trực tiếp
với nhau thì gặp rất nhiều trở ngại về không gian, thời gian…
1.2.2. Chức năng làm trung gian thanh tốn

Ngay từ khi có sự hình thành của hình thức ngân hàng thương mại đầu
tiên- Ngân hàng của những người lái buôn, ngân hàng thương mại đã có chức
năng này. Ngày này,ngân hàng thương mại trở thành trung gian thanh tốn quan
trọng và có qui mơ lớn nhất tại đa số các quốc gia trên thế giới. Thực hiện chức
năng này nghĩa là ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng của mình thanh tốn tiền
hàng hố và dịch vụ cho ngưòi cung cấp. Hiện nay các ngân hàng thương mại
không chỉ thực hiện chức năng thanh tốn hộ cho khách hàng mà cịn thực hiện
việc thanh tốn bù trừ giữa các ngân hàng thơng qua ngân hàng trung ương hay
thơng qua các trung tâm thanh tốn. Thực hiện hình thức thanh tốn này các
ngân hàng thương mại hiện nay thường sử dụng phương pháp thanh toán thủ
cơng hay thanh tốn điện tử (Phổ biến hiện nay).
1.2.3. Chức năng tạo phương tiện thanh toán

Ngay từ khi tồn tại hình thức ngân hàng của những thợ vàng, các ngân
hàng đã tạo ra những phương tiện thanh toán bằng việc phát hành ra những giấy
nhận nợ với khách hàng. Những giấy nhận nợ này được phát hành dựa trên số
lượng tiền kim loại mà các ngân hàng này nắm giữ, nhưng sau đó các giấy nhận


nợ này đi vào lưu thông thể hiện được những ưu điểm vượt trội. Các giấy nhận
nợ này dần thay thế cho tiền kim loại cả trong thanh toán lẫn cất trữ và tiền giấy
ra đời từ đó.
Nhận thấy việc phát hành ra tiền giấy mang lại một khoản lợi nhuận

khổng lồ, các ngân hàng đua nhau phat hành tiền riêng của ngân hàng của mình.
Việc đua nhau phát hành tiền của các ngân hàng làm rối loạn nền kinh tế dẫn
tới Nhà nước phải qui định việc phát hành tiền giấy cho ngân hàng Trung
ương( Tại một số nước thì việc này được giao cho Bộ tài chính).
Ngân hàng hiện nay thực hiện chức năng tạo phương tiện thanh toán bằng
việc tạo ra những số dư trên tài khoản của khách hàng, qua đó khách hàng có
thể sử dụng số dư này thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ cho nhà cung cấp. Ngân
hàng có thể tạo ra số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng bằng
cách cho khách hành vay tiền. Như vậy thông qua hoạt động cho vay của mình
hay cấp tín dụng cho khách hàng ngân hàng đã thực hiện chức năng tạo phương
tiện thanh toán.
2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
2.1. Các hình thức cho vay của NHTM
2.1.1. Định nghĩa về cho vay

Có khá nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại.
Trong cuốn Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, FREDERIC
S.MISHKIN đã cho rằng, cho vay là món nợ đối với cá nhân hoặc cơng ty nhận
món vay đó, nhưng là một tài sản có đối với ngân hàng vì nó mang lại lợi nhuận
cho ngân hàng này.
Trong cuốn Ngân hàng thương mại, PGS. TS PHAN THỊ THU HÀ cho
rằng, cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Trong cuốn Nghiệp vụ ngân hàng thương mại do PGS.TS LÊ VĂN TỀ
chủ biên, nhóm tác giả cũng đã đưa ra định nghĩa về hoạt động tín dụng của


ngân hàng như sau: “ Tín dụng (Credit) xuất phát từ chữ La tinh là Credo (tin
tưởng, tín nhiệm) là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho

vay (ngân hàng hay các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân, doanh
nghiệp hoặc các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có
trách nhiệm hồn trả vơ điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán”.
Qua việc tiếp nhận những định nghĩa cho vay của các tác giả trên, theo
em hiểu theo một nghĩa chung nhất thì cho vay là hoạt động tài trợ của ngân
hàng thương mại cho những nhu cầu vốn của khách hàng trên cơ sở ngun tắc
hồn trả,có thời hạn và có lãi.
2.1.2. Các hình thức cho vay của NHTM

Hiện nay tại các ngân hàng thương mại tồn tại nhiều loại hình cho vay
khác nhau, các loại hình này được phân loại ra thành từng nhóm phù hợp với
nhu cầu của khách hàng cũng như giúp ngân hàng quản lí các khoản vay dễ
dàng hơn. Việc phân chia các loại cho vay chính là việc sắp xếp các khoản vay
theo tùng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định.
Tuỳ theo từng ngân hàng mà tồn tại các cách phân loại cho vay khác
nhau, nhưng nhìn chung hiện nay tồn tại các các cách phân loại sau:
2.1.2.1. Căn cứ theo thời hạn cho vay

Theo tiêu thức này các ngân hàng chia cho vay ra thành 3 loại chính:


Cho vay ngắn hạn
Hình thức cho vay này có thời hạn vay dưới 12 tháng, bổ sung sự thiếu
hụt vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp cũng như nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân. Với hình thức cho vay này, ngân hàng có thể áp dụng hình
thức cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp, cho vay theo món, cho vay theo hạn
mức, cho vay có tài sản đảm bảo, cho vay không cần tài sản đảm bảo, thấu chi,
chiết khấu hay luân chuyển.




Cho vay trung hạn


Tuỳ theo từng quốc gia mà có cách quy định về thời hạn cho vay trung
hạn khác nhau. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay
trung hạn có thưịi hạn từ trên 1 năm cho tới 5 năm. Cho vay trung hạn thường
được dùng để tài trợ cho việc mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật,
mua công nghệ sản xuất…


Cho vay dài hạn
Theo những quy định chung thì cho vay dài hạn có thời hạn là trên 5 năm,
tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà có quy định về thời gian tối đa của khoản
vay. Các khoản cho vay dài hạn dùng tài trợ cho những nhu cầu vốn dài hạn như
xây nhà, mua các thiết bị, công nghệ cần vốn có qui mơ lớn, xây nhà máy sản
xuất mới.
2.1.2.2. Căn cứ theo tài sản đảm bảo

Theo căn cứ này ta có thể chia cho vay ra thành 2 loại:


Cho vay có tài sản đảm bảo
Với hình thức này ngân hàng yêu cầu khách hàng của mình khi nhận vốn
vay từ ngân hàng cần có tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo của khách hang có
thể được thực hiện dưới dạng cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh của người thứ ba.
Tài sản đảm bảo giúp cho ngân hàng hạn chế những rủi ro có thể xảy ra và giúp
cho ngân hàng bù đắp được phần nào tổn thất khi khách hàng khơng hồn thành

được nghĩa vụ với ngân hàng. Vì sự đảm bảo này có cơ sở pháp lý nên ngân
hàng có thêm nguồn thu thứ hai nếu như nguồn thu nợ thứ nhất không được
khách hàng thực hiện.



Cho vay khơng có tài sản đảm bảo
Việc u cầu tài sản đảm bảo có thể giúp ngân hàng hạn chế được những
rủi ro xảy ra, nhưng có nhiều trường hợp tài sản đảm bảo lại làm hạn chế việc
khách hàng tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng. Trong một số trường hợp đặc
biệt ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng mà khơng địi hỏi tài sản
đảm bảo. Với hình thức này, tức là khách hàng khơng cần thực hiện việc cầm
cố, thế chấp hay không cần sự bảo lãnh của người thứ ba. Cho vay không cần tài


sản đảm bảo chủ yếu áp dụng cho những khách hàng có uy tín, có quan hệ lâu
năm với ngân hàng.
2.1.2.3. Căn cứ theo hình thức cho vay

Theo căn cứ này, ta có thể chia cho vay ra thành 2 loại:


Cho vay trực tiếp với khách hàng
Đây là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với khách
hàng. Với hình thức này, khách hàng có nhu cầu vay vốn được ngân hàng trực
tiếp giao vốn kèm theo một hợp đồng tín dụng, trong đó qui định rõ số tiền và
thời hạn mà khách hàng này phải hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho ngân hàng.




Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức cho vay mà ngân hàng không trực tiếp giao vốn cho
khách hàng. Việc cho vay của ngân hàng được thực hiện thông qua các tổ chức
trung gian. Hiện nay tại Việt Nam các tổ chức trung gian thường là các tổ, đội,
nhóm, hội(phụ nữ, nơng dân…), nhóm sản xuất… Các tố chức trung gian này
thường có các thành viên hoạt động theo những tiêu chí chung. Ngân hàng thực
hiện việc cho vay theo tổ, tức là đã chuyển một số bước trong tiến trình cho vay
cho các tổ này như: Phát tiền cho vay, thu nợ gốc và lãi khi đến hạn,…Ngồi ra
với hình thức cho vay gián tiếp này ngân hàng có thể áp dụng cho các hãng sản
xuất, hãng bán lẻ.
Bên cạnh các căn cứ trên, nhiều ngân hàng cịn có nhiều căn cứ khác để
phân loại cho vay như: Căn cứ vào loại tiền vay, có thể chia thành cho vay bằng
nội tệ, cho vay bằng ngoại tệ; Căn cứ vào đối tượng vay, có thể chia thành cho
vay với Nhà nước, cho vay với tổ chức tín dụng, cho vay với doanh nghiệp, cho
vay với hộ gia đình, cho vay với cá nhân; Căn cứ vào mục đích vay, có thể chia
thành cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh; Căn cứ vào các ngành kinh tế,
có thể chia thành cho vay công nghiệp-thương mại, cho vay nông nghiệp và cho
vay xuất nhập khẩu…


Việc phân chia các hình thức cho vay này có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc quản lý các khoản vay của ngân hàng. Tuỳ theo từng đặc thù riêng
mà các ngân hàng có các tiêu chí phân chia khác nhau.
2.2. Hình thức cho vay tiêu dùng của các NHTM
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển hình thức cho vay tiêu dùng tại NHTM

Sự ra đời của hệ thống các ngân hàng thương mại gắn liền với sự phát
triển của nền kinh tế hàng hoá. Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại cũng
không ngừng được mở rộng và phát triển cả về số lượng và chất lượng. Các
hình thức ngân hàng thương mại đầu tiên với nghiệp vụ truyền thống là cho vay

ngắn hạn, đã góp phần cung ứng vốn phục vụ sự phát triển của nền kinh tế.
Cùng với nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn, cũng như khả năng quản trị
rủi ro của các ngân hàng được nâng cao, các ngân hàng thương mại đã “mạnh
dạn” mở rộng các hình thức tín dụng trung và dài hạn. Nhưng cũng chính vì tập
trung vào hình thức tín dụng mới mẻ và hứa hẹn mang lại nguồn lợi nhuận lớn
này, mà các ngân hàng thương mại đã “bỏ quên” một mảng hoạt động cũng
mang lại nguồn lợi nhuận không nhỏ - Cho vay tiêu dùng.
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến nhiều sự biến
đổi lớn, hệ thống ngân hàng cũng có những bước thăng trầm. Sự ra đời và phát
triển của các tổ chức trung gian phi ngân hàng đã làm cho phạm vi hoạt động
của các ngân hàng thương mại bị thu hẹp lại. Trước sức ép cạnh cạnh cũng như
mong muốn sinh tồn và phát triển, các ngân hàng thương mại phải mở rộng
phạm vi hoạt động ra những khu vực trước đây các ngân hàng “e ngại”. Nếu
như trước đây các ngân hàng cho rằng cho vay tiêu dùng với những món vay
nhỏ vụn, nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cao sẽ không thể mang lại nguồn lợi nhuận
mong đợi cho ngân hàng, thì bây giờ các ngân hàng đã khẳng định cho vay tiêu
dùng là một thế mạnh và tập trung khai thác.
Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế làm cho đời sống của con
người không ngừng được cải thiện, thu nhập của người dân tăng lên. Nếu như
trước đây đời sống khó khăn nhu cầu của con người chỉ dừng lại ở những mặt


hàng thiết yếu phục vụ cho cuộc sống, thì ngày nay nhu cầu đó được nâng lên
thành những mặt hàng tiêu dùng xa xỉ hơn: Mua ô tô, mua nhà, du lịch…Đây
chính là cơ hội cho các ngân hàng phát triển hình thức tín dụng tiêu dùng, bởi vì
khơng phải lúc nào nguồn tài chính của con người cũng đủ để họ thoả mãn
những nhu cầu tiêu dùng trên. Thu nhập của người dân ổn định và không ngừng
được cải thiện đã làm cho tín dụng tiêu dùng khơng cịn là “khu vực nguy
hiểm”, chứa đựng nhiều rủi ro cho các ngân hàng như trước đây nữa, vì thu
nhập của người vay chính là nguồn trả nợ chính cho các khoản vay tiêu dùng.

Thực tế hiện nay trên thế giới, cho vay tiêu dùng đã trở thành hình thức
tín dụng quan trọng vào bậc nhất và mang lại nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các
ngân hàng. Các cường quốc lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nga, Đức… hiện cho
vay tiêu dùng thường chiếm từ 40-60% tổng dư nợ của các ngân hàng.
Tại Việt Nam, cho vay tiêu dùng mới chỉ xuất hiện cách đây khoảng 15
năm và vẫn là hình thức tín dụng khá mới mẻ với các ngân hàng thương mại.
Tuy vậy với dân số hơn 80 triệu người và sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế, đã hứa hẹn Việt Nam sẽ là thị trường “màu mỡ” cho các ngân hàng phát
triển hình thức tín dụng tiêu dùng.
2.2.2. Định nghĩa cho vay tiêu dùng

Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay của ngân hàng thương mại nhằm
tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Trong hai thập kỷ vừa qua cho vay tiêu dùng có xu hướng tăng lên, do
vậy có thể so sánh nó với các khoản vay có mục đích sản xuất hoặc các nghiệp
vụ tài sản có khác của một ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ khá phổ biến của ngân hàng, đây là
hình thức tài trợ mang lại lợi nhuận khá lớn cho ngân hàng. Tuy vậy không phải
ngân hàng nào cũng tích cực mở rộng hình thức cho vay này, điều này được lý
giải thông qua các đặc điểm của hình thức cho vay tiêu dùng.
2.2.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng


Ta có thể tóm tắt những đặc điểm của cho vay tiêu dùng thành 4 đặc điểm
như sau:
2.2.3.1. Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có độ rủi ro cao

Như đã nói ở trên cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ của ngân hàng
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Do vậy khả năng thu hồi lại
nợ vay của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào khả năng tài chính, sức khoẻ…của

người vay. Nếu người vay bị chết, bị ốm hay bị mất việc thì ngân hàng sẽ rất
kho thu hồi được món vay.

2.2.3.2. Cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức lãi suất cao trong khung lãi suất của NHTM

Chính vì độ rủi ro tiềm ẩn rất cao, ảnh hưởng tới sự an toàn của hoạt động
của ngân hàng, mà khách hàng muốn nhận tài trợ theo hình thức cho vay tiêu
dùng phải chịu mức lãi suất khá cao. Mức lãi suất này giúp đảm bảo cho ngân
hàng có thể hạn chế được rủi ro và đảm bảo thu nhập trong những trường hợp
có sự cố ngồi ý muốn xảy ra.
2.2.3.3. Các khoản cho vay tiêu dùng thường có giá trị nhỏ nhưng số lượng các khoản vay nhiều

Do cho vay tiêu dùng là hình thức tài trợ cho hoạt động tiêu dùng của
khách hàng nên giá trị thường nhỏ, vụn vặt. Tuy nhiên do nhu cầu tiêu dùng của
người dân ngày càng tăng do nền kinh tế không ngừng phát triến, nên nhu cầu
về các khoản vay tiêu dùng là rất lớn. Chính điều này cũng làm cho ngân hàng
phải bỏ ra một khoản chi phí khơng phải là nhỏ khi tiến hành hoạt động cho
vay tiêu dùng.
2.2.3.4. Các khoản cho vay tiêu dùng mang lại lợi nhuận khá lớn cho các ngân hàng

Như đã nói ở trên, cho vay tiêu dùng là hình thức cho vay có mức lãi suất
cao trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng, mặt khác số lượng khách hàng
của hình thức cho vay này lại nhiều nên đây là hình thức tài trợ mang lại nguồn
lợi nhuận cao cho ngân hàng.
2.2.4. Cơ sở cho vay tiêu dùng


Vào thời kì đầu đa phần các ngân hàng đều khơng dám cho vay tiêu dùng
vì mức độ rủi ro tiềm ẩn và phức tạp của hình thức tín dụng này. Ngày nay cùng
với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và cơng nghệ thì cho vay tiêu dùng trở

thành hình thức cho vay phổ biến được các ngân hàng áp dụng. Vậy cơ sở của
hình thức này là thế nào mà các ngân hàng thay vì hạn chế đã mở rộng hình
thức cho vay này?.
2.2.4.1. Do nhu cầu về hàng tiêu dùng tăng nhanh

Sự phát triển của kinh tế và công nghệ dẫn đến đời sống của cong người
được cải thiện đáng kể. Con người hiện nay có nhu cầu rất lớn về hàng tiêu
dùng: nhu cầu về nhà ở, nhu cầu về phương tiện vận tải, nhu cầu về may mặc…
Những nhu cầu này con người không thể đủ khả năng tài chính ở hiện tại để
thoả mãn và u cầu phải có một nguồn tài chính đủ lớn để đáp ứng những nhu
cầu kia của con người. Việt Nam- một nước có nền kinh tế đang phát triển, là
một thị trường đầy tiềm năng của hoạt động cho vay tiêu dùng. Tốc độ tăng
trưởng hàng năm luôn dẫn đầu các nước trong khu vực Đông Nam Á và cao thứ
hai Châu Á (Chỉ sau Trung Quốc) làm cho thu nhập bình quan đầu người của
Việt Nam không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Bảng1.1: Tỷ lệ tăng trưởng GDP và thu nhập bình quân trên đầu
người của Việt Nam giai đoạn 2001-2006

GDP(%)
GDP/Đầu người(USD)

2001
6.84
415

2002
7.04
439

2003

7.34
481

2004
7.69
514

2005
8.4
638

2006
7.8
754

(Nguồn: www.mekongcapital.com)
Thu nhập gia tăng và ổn định chính là cơ sở quan trọng nhất để các ngân
hàng mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng của mình
2.2.4.2. Do lợi nhuận của các khoản cho vay tiêu dùng

Trước đây khi công nghệ chưa phát triển, qui mơ nguồn vốn cịn hạn chế,
những biện pháp phịng ngừa rủi ro chưa được hồn thiện, các ngân hàng không


chú ý đến cho vay tiêu dùng. Ngày nay cùng với sự cạnh tranh trên thị trường
tài chính, các ngân hàng đã chú trọng đến cho vay tiêu dùng hơn. Cho vay tiêu
dùng mang lại cho ngân hàng một khoản lợi nhuận lớn nên càng khuyến khích
các ngân hàng mở rộng hơn nữa hình thức cho vay này.
2.2.4.3. Do rủi ro của hoạt động cho vay tiêu dùng đã được hạn chế


Một cản trở làm cho các ngân hàng không muốn mở rộng hình thức cho
vay tiêu dùng là mức độ rủi ro của nó. Có thể nói cho vay tiêu dùng là hình thức
cho vay có mức độ rủi ro cao nhất trong các hình thức cho vay của ngân hàng.
Mức độ rủi ro của nó làm cho các ngân hàng rất ngần ngại trong khi nhu cầu
tiêu dùng của khách hàng thì khơng ngừng gia tăng. Nhưng ngày nay với sự
phát triển nhanh chóng của kinh tế, thu nhập của con người cũng tăng lên và
khá ổn định. Vì thu nhập của khách hàng chính là cơ sở để trả nợ các khoản vay
tiêu dùng nên hiện nay các khoản cho vay tiêu dùng của ngân hàng, do vậy rủi
ro của các khoản vay này cũng được hạn chế. Mặt khác hiện nay các ngân hàng
đều áp dụng những cơng nghệ hiện đại trong việc quản lí các khoản cho vay
ngay từ khâu thấm định hồ sơ vay vốn của khách hàng nên đã hạn chế được tối
đa rủi ro của các khoản cho vay tiêu dùng.
2.2.4.4. Do sự canh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng

Sự ra đời nhanh chóng và lớn mạnh của rất nhiều ngân hàng mới làm
cho hệ thống ngân hàng thương mại được mở rộng. Trước đây khi chỉ có một số
ít ngân hàng thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng không diễn ra mạnh mẽ và
khốc liệt như hiện nay. Đặc biệt trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá, quốc tế hoá
diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các ngân hàng thương mại cần phải có những
chính sách mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh. Để đảm bảo sự tồn tại và
phát triển cho ngân hàng mình, các ông chủ ngân hàng đã không ngần ngại đầu
tư vào các lĩnh vức mà trước khi bị coi là “khu vực nguy hiểm” với mức độ rủi
ro cao như cho vay tiêu dùng.


2.2.5. Các hình thức cho vay tiêu dùng

Tuỳ theo các cách chia mà cho vay tiêu dùng có thể chia thành các hình
thức khác nhau.
2.2.5.1.Chia theo tài sản đảm bảo


Nếu theo tài sản đảm bảo có thể chia cho vay tiêu dùng ra làm hai loại
sau:


Cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo



Cho vay tiêu dùng khơng có tài sản đảm bảo
2.2.5.2. Chia theo hình thức tài trợ của ngân hàng

Nếu chia theo phương thức này có thể chia cho vay tiêu dùng thành hai
loại sau:


Cho vay trực tiếp cho khách hàng
Hình thức cho vay tiêu dùng này bao gồm có những phương thức sau:



Tín dụng trả theo định kỳ
Là phương thức, trong đó khách hàng vay và trả trực tiếp ngân hàng với
mức trả và thời hạn trả mỗi lần được qui định khi cho vay. Nếu được cấp tiền
vay , toàn bộ số tiền vay được ghi nợ tài khoản cho vay và ghi có tài khoản tiền
gửi cá nhân hoặc giao tiền mặt cho khách hàng.



Thấu chi

Là nghiệp vụ cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của anh
ta vượt mức số dư có, tới một hạn mức đã được thoả thuận
Cả hai loại tín dụng trên đều khơng cần ký hợp đồng vay mượn mà chỉ
cần thông qua thoả thuận nghiệp vụ với các nội dung: Hạn mức, lãi suất, yêu
cầu đảm bảo phí các loại, bảo hiểm (nếu có), thời điểm tái xét thời hạn có hiệu
lực của hạn mức, kỳ hạn nợ (nếu có).



Thẻ tín dụng
Là nghiệp vụ tín dụng, trong đó ngân hàng phát hành thẻ cho những
người có tài khoản ở ngân hàng đủ điều kiện cấp thẻ và ấn định mức giới hạn tín
dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng.




Cho vay gián tiếp được hiểu là việc ngân hàng mua các phiếu bán hàng từ
những người bán lẻ hàng hố và do vậy nó chính là hình thức tài trợ bán trả góp
của các NHTM
Tín dụng trả góp của ngân hàng được thực hiện bằng một trong hai cách
sau:
Cách 1: Ngân hàng, người bán và người mua phải thoả thuận được với
nhau về số tiền vay, mức và thời hạn trả dần, sau đó ngân hàng cho người bán
hàng và giữ lại quyền sở hữu tài sản cho đến khi người mua trả góp đủ
Có thể mơ tả như sau:
Người mua
Người bán
NHTM


(1)
(2)
(5)

(3)

(4)

Trong đó:
(1): Người mua trả trước 20-30% giá trị của tài sản.
(2): Người bán giao tài sản cho người mua, đồng thời giữ lại quyền sở
hữu tài sản.
(3): Người bán giao quyền sở hữu tài sản cho ngân hàng làm thế chấp và
phiếu bán hàng.
(4): Ngân hàng trả phần tiền còn thiếu cho người bán (70-80%).
(5): Người mua trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn được xác
định.


Cách 2: Được thực hiện với thời hạn và mức trả dần tương tự như trên
nhưng khác ở một số điểm: Người bán giao tài sản và giao sở hữu, người bán và
người mua thực hiện hành vi mua bán chịu tài sản nên xuất hiện kỳ phiếu, ngân
hàng chiết khấu kỳ phiếu của người bán
Có thể mơ tả như sau:
Người mua
Người bán
NHTM

(1)
(4)

(2) (5)

(3)

Trong đó:
(1): Người mua mua chịu hàng hố và có kỳ phiếu cho người bán.
(2): Người mua ký quỹ 20-30% giá trị tài sản và cam kết thế chấp tài sản.
(3): Ngân hàng chiết khấu kỳ phiếu từ người bán hàng.
(4): Người bán giao tài sản và quyền sở hữu cho người mua.
(5): Người mua tiến hành trả góp cho ngân hàng theo mức và kỳ hạn
được xác định.
2.2.5.3. Chia theo mục đích vay của khách hàng

Nếu chia theo mục đích vay của khách hàng ta có thể chia cho vay tiêu
dùng thành các hình thức sau:


Cho vay tiêu dùng cư trú: Hỗ trợ khách hàng về việc mua sắm, sửa chữa,
xây dựng nhà cửa.


Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Hỗ trợ khách hàng về mua sắm phương tiện



vận chuyển, du lịch, du học…
2.2.6. Tác động của cho vay tiêu dùng

Hiện nay cho vay tiêu dùng khơng những là hình thức cho vay phổ biến
của các ngân hàng thương mại mà nó cịn thể hiện rõ vai trị to lớn khơng chỉ

đối với ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế, đối với người tiêu dung.
2.2.6.1. Tác động với ngân hàng

Với những biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả được các ngân hàng áp
dụng hiện: Phân tích khách hàng, lập phịng riêng theo dõi cho vay tiêu dùng…,
thì cho vay tiêu dùng với lãi suất cho vay cao trở thành nguồn thu đáng kể cho
ngân hàng. Cho vay tiêu dùng từ chỗ bị các ngân hàng xếp vào loại hình cho
vay nguy hiểm, mức độ rủi ro cao, nay đã được các ngân hàng chú trọng và mở
rộng và phát triển.
2.2.6.2. Tác động với người tiêu dùng

Cuộc sống con người không ngừng được nâng cao làm cho nhu cầu của
con người về hàng hố tiêu dùng khơng dừng lại ở những mặt hàng giản đơn.
Ngày nay nhu cầu của con người về những hàng hố tiêu dùng xa xỉ như ơ tô,
nhà cửa…tăng mạnh. Điều này đặt ra cho con người yêu cầu về một nguồn tài
chính đủ lớn để đáp ứng được tất cả các nhu cầu trên. Có thể nói chỉ có nguồn
tài trợ của ngân hàng cho người tiêu dùng thông qua cho vay tiêu dùng mới đáp
ứng được những nhu cầu trên của người tiêu dùng. Mặt khác hình thức tín dụng
này cịn làm tăng sự cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau, làm cho họ
phải chú trọng hơn tới chủng loại hàng hoá, mẫu mã hàng hoá, chất lượng và giá
cả hàng hoá. Tất cả những điều trên đều mang lại những lợi ích cho người tiêu
dùng.
2.2.6.3. Tác động với các doanh nghiệp

Các doanh nghiệp sản xuất ln muốn tối đa hố lợi nhuận thu được, do
vậy họ ln tìm mọi cách để tiêu thụ hàng hố, dịch vụ sản xuất ra. Điều này
hồn toàn phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ của khách hàng. Hiện nay nhu cầu về


hàng hố, dịch vụ của người tiêu dùng khơng ngừng tăng, nhưng nó lại khơng

thể được thỏa mãn bằng nguồn tài chính hiện có của khách hàng. Hàng hố
khơng thể xếp vào kho chờ khi khách hàng có đủ điều kiện về tài chính được.
Và nguồn tài chính từ ngân hàng tài trợ là một giải pháp tối ưu. Như vậy cho
vay tiêu dùng của ngân hàng giải quyết được sự ùn tắc trong việc tiêu thu hàng
hố. Nguồn tín dụng này cũng giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện tăng
cường sản xuất, mở rộng qui mô, mở rộng thị trường.
2.2.6.4. Tác động với nền kinh tế

Nhu cầu về hàng tiêu dùng của khách hàng tăng nhanh kéo theo nền sản
xuất hàng hoá, dịch vụ được đẩy mạnh, lưu thơng hàng hố cũng được tăng
cường. Những nhà sản xuất ln muốn tiêu thụ nhanh chóng hàng hố, dịch vụ
của mình nên ln khuyến khích người tiêu dùng sử dụng những sản phẩm của
mình dưới mọi hình thức. Như đã nói ở trên nếu chỉ đơn thuần chỉ dựa vào
nguồn tài chính của khách hàng thì khơng thể nào đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng của họ,và giải pháp tối ưu nhất là sử dụng nguồn tài trợ của ngân hàng.
Vậy là nhờ nguồn vốn của ngân hàng thông qua hình thức cho vay tiêu dùng mà
sự lưu thơng hàng hố được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển chung
của nền kinh tế.
2.2.7. Kinh nghiệm cho vay tiêu dùng tại một số NHTM trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
2.2.7.1. Thực trạng cho vay tiêu dùng tại một số NHTM trên thế giới

Theo tạp chí Stephen Timewell đã đưa nhận định “Xu hướng ngày nay
cho thấy, ngân hàng nào nắm bắt được cơ hội mở rộng việc cung cấp dịch vụ
ngân hàng bán lẻ cho một số lượng khổng lồ dân cư “đói” các dịch vụ tài chính
tại các nước có nền kinh tế mới nổi, sẽ trở thành gã khổng lồ toàn cầu trong
tương lai”. Phải khẳng định rằng cho vay tiêu dùng là một dịch vụ ngân hàng
bán lẻ vô cùng quan trọng của ngân hàng. Hiện nay tại các nước lớn trên thế
giới, các ngân hàng thương mại đang ra sức nâng cao tỷ trọng cho vay tiêu dùng
trong tổng dư nợ của mình. Ta bắt đầu đi từ nước Mỹ- một cường quốc của thế



giới. Hiện nay tại các ngân hàng thương mại của Mỹ, những khoản cho vay tiêu
dùng thường chiếm khoảng 30-40% tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân
hàng. Các khoản tín dụng thường được tài trợ cho những nhu cầu mua nhà, mua
xe hơi, du lịch…Nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại của Mỹ đã có một
tầm nhìn chiến lược đó là phát triển hình thức cho vay tiêu dùng tại các thị
trường ngoài nước Mỹ. Citigroup- Ngân hàng lớn nhất thế giới là một điển hình,
khơng chỉ chú trọng khai thác thị trường về nhu cầu tiêu dùng tại nước Mỹ,
ngân hàng này còn mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại các nước có nền
kinh tế đang phát triển như Trung Quốc, Brazin, Ấn Độ…Trong chiến lược kinh
doanh của mình các năm tới Citigroup đã đưa ra kế hoạch nâng thu nhập ròng
của hoạt động kinh doanh quốc tế từ 38% lên 50% trong tương lai. Nhiều
chuyên gia tại Mỹ đã khẳng định phát triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ trong
đó có cho vay tiêu dùng chính là tương lai của các ngân hàng.
Theo một công bố gần đây của Standard –Poor’s (S&P), trong các nước
được gọi là BRIC ( bao gồm Brazin, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc), các khoản vay
cá nhân cho việc mua nhà, xe và các chi tiêu cá nhân khác đã tăng lên 3 lần
trong giai đoạn 2001- 2005 (từ 145 tỷ USD lên 477 tỷ USD). Tuy nhiên con số
này vẫn còn rất thấp so với Đức, nơi tổng các khoản vay lên tới 1700 tỷ USD
năm 2005. S&P cũng cho biết, tại nhóm BRIC, dịch vụ cung cấp các khoản vay
tiêu dùng nhỏ lẻ khác có tốc độc gia tăng trung bình 30% giai đoạn 2001- 2005
và có thể đạt con số 1800 tỷ USD vào năm 2009 với tỷ lệ tăng trưởng trung bình
20- 30%.
Cũng theo S&P, tại các thị trường mới nổi, sự tăng trưởng trong việc cung
cấp các khoản vay tiêu dùng là rất lớn trong tương lai . Các khoản cho mua nhà,
mua hàng lâu bền hay mua ơ tơ , trong đó đặc biệt là các khoản cho vay mua
nhà, sẽ có mức tăng mạnh trong các năm tới.
Các ngân hàng Châu Âu là một điển hình tiếp theo về sự nhạy bén trong
việc phát triển hình thức cho vay tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng , có thể nói là ra

đời khá muộn màng so với các hình thức tín dụng khác tại Châu Âu. Tuy nhiên


hiện nay, cho vay tiêu dùng khơng cịn là hình thức tín dụng mới mẻ với những
người dân Châu Âu nữa. Cho vay tiêu dùng tại Châu Âu hoạt động theo Nghị
Định 87/102/CEF ra đời vào năm 1986. Từ năm 1986 tới nay NGhị định đã hai
lần được sửa đổi, đó là vào năm 1990 với Nghị định 90/08/CEE và năm 1998
với Nghị định 98/7/CEE. Tại Châu Âu, có thể nói đối tượng được nhận tín dụng
tiêu dùng đa dạng và phong phú nhất, tất cả nhứngx ai có đủ năng lực hành vi
đều được cấp tín dụng tiêu dùng. Các ngân hàng thương mại tại các nước Châu
Âu không ngừng đa dạng hố các hình thức tín dụng tiêu dùng. Các hình thức
tín dụng tiêu dùng chủ yếu của các ngân hàng thương mại này là: Cho vay mua
xe hơi, mua nhà, sửa chữa bếp, nhà tắm, bể bơi, trang trí nhà cửa… Các ngân
hàng hoạt động theo nguyên tắc an toàn nên các khoản vay tiêu dùng cũng có
những ngun tắc nhất định, ví dụ các ngân hàng thương mại Châu Âu có
nhưng qui định khác nhau về đối tượng vay: Nghề nghiệp, độ tuổi…, hay qui
định về giá trị tối thiểu của các khoản vay. Nhìn chung các ngân hàng thương
mại đều tiến hành hoạt động tín dụng tiêu dùng dựa theo 2 nguyên tắc là an toàn
của ngân hàng kết hợp với bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.Bên cạnh việc
phát triển thị trường tín dụng tiêu dùng trong nước, các ngân hàng thương mại
Châu Âu còn hết sức chú ý tới các thị trường khác ngồi lãnh thổ của mình.
Vùng Trung và Đơng Âu (CEE) là một thị trường đầy tiềm năng cho các ngân
hàng thương mại Châu Âu khai thác loại hình cho vay mua nhà. Việc các ngân
hàng Châu Âu thâm nhập vào thị trường này khiến cho các khoản cho vay mua
nhà tăng lên với tốc độ chóng mặt từ một nền tảng hầu như là con số không
trước đây.
Bảng 1.2: cho vay tiêu dùng với các hộ gia đình bằng đồng nội tệ( tỷ)(1)

(2)


Ba Lan
Hungary
CH Séc
Slovakia

2001
14.1
323.5
na(4)
na

2002
20.0
781.2
112.0
na

2003
29.6
1508.3
155.2
61.7

2004
35.8
1909.4
209.8
87.8

2005

50.6
2283.3
282.1
118.8


Croatia
Rumania(3)
Bungary

9.5
na
0.2

12.4
na
0,2

16.9
na
0.4

21.4
3.3
1.0

27.6
5.2
2.0


(Nguồn: Các ngân hàng trung ương , Bank Australia Creditanlt Economics
Department)
Chú thích
(1): Cho vay của các nước Ba Lan, Cộng hồ Séc, Slovakia, Bungary bao
gồm cho vay hộ gia đình và cho vay hộ gia đình của các tổ chức khơng vì lựo
nhuận.
(2): Số liệu năm 2001 được ước lượng từ số liệu năm 2000, số liệu này
không bao gồm các khoản vay của các hiệp hội tín dụng.
(3): Số liệu không bao gồm các khoản cho vay của các tổ chức tín dụng
hợp tác.
(4): Chưa có số liệu.
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy tại các thị trường phát triển hơn như:
Hungary hay cộng hoà Séc, sự tăng trưởng của các khoản cho vay tiêu dùng vốn
đã rất mạnh mẽ sẽ tiếp tục diễn ra trong tương lai cùng với sự lớn mạnh của nền
kinh tế.
Trung Quốc - Một nền kinh tế với sức phát triển nóng của thế giới, hình
thức tín dụng tiêu dùng cũng được các ngân hàng thương mại hết sức chý ý.
Ngân hàng kiến thiết Trung Quốc( CCB) là một trong những ngân hàng đi đầu
về việc cấp tín dụng tiêu dùng cho khách hàng. Ngay từ cuối những năm 90
CCB đã biết hướng hoạt động của mình vào khu vực tiêu dùng, năm 1999 CCB
áp dụng hình thức cho vay tiêu dùng có thế chấp với thời hạn vay được kéo dài
và giá trị các khoản vay được nâng cao (lên tới 70-80% giá trị thế chấp. Bên
cạnh CCB, tại Trung Quốc phát triển hình thức tín dụng tiêu dùng cịn phải kể
tới ngân hàng phát triển Thượng Hải - Phú Đông. Ngân hàng này với hình thức
cấp tín dụng mua nhà ,các khoản vay đi du lịch, vay đi du học… Các hình thức
tín dụng tiêu dùng này được ngân hàng Thượng Hải –Phú Đông tập trung mọi


nguồn lực để thực hiện. Trung Quốc với dân số lớn nhất thế giới, nền kinh tế
không ngừng phát triển, là một thị trường đầy tiềm năng để các ngân hàng

thương mại không chỉ của Trung Quốc mà của cả nước ngoài khai thác. Hiện
nay các ngân hàng thương mại Trung Quốc đang cố gắng hết sức để mở rộng
hơn nữa thị phần của mình trên khu vực tín dụng tiêu dùng trong nước, nhưng
vì thực chất các khoản cho vay tiêu dùng vẫn cịn khá mới mẻ với khơng chỉ các
ngân hàng mà cả với chính người tiêu dùng. Sự thâm nhập thị trường của các
ngân hàng khổng lồ nước ngoài :HSBC, Citibank,… buộc các ngân hàng
thương mại của Trung Quốc cần có những sách lược rõ ràng và đúng đắn để
không bị đánh bại ngay trên sân nhà.
2.2.7.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Là một nước có dân số đông ,nền kinh tế những năm gần đây có những
bước phát triển, thu nhập của người dân khơng ngừng được cải thiện, Việt Nam
hứa hện một thi trường đầy tiềm năng cho các ngân hàng thương mại phát triển
hoạt động tín dụng tiêu dùng.
Là một nước đi sau nên Việt Nam có cơ hội học hỏi kinh nghiệm của
các nước đi trước.Qua phân tích ở trên, có thể thấy phát triển tín dụng tiêu dùng
khơng chỉ là xu thế tất yếu của các ngân hàng trên thế giới, mà nó cịn là “tương
lai” của các ngân hàng.
Có thể rút ra một vài bài học cho sự phát triển hoạt động cho vay tiêu
dùng tại Việt Nam như sau:


Xác định cho vay tiêu dùng là một bộ phận trong hoạt động tín dụng của
các ngân hàng, việc phát triển tín dụng tiêu dùng phải được đặt trong chiến lược
phát triển chung của ngân hàng. Mở rộng cho vay tiêu dùng phải được xem là
xu hướng phát triển tất yếu trong thời đại ngày nay. Muốn vậy các ngân hàng
cần có những chiến lược quản lý rủi ro của các khoản vay tiêu dùng một cách
hiệu quả.




Hoạt động Marketing nhằm quảng bá hình ảnh và hoạt động cho vay tiêu
dùng của các ngân hàng cần được chú trọng. Người dân chỉ thực sự muốn sử


dụng dịch vụ của ngân hàng khi họ hiểu về những sản phẩm đó. Đặc biệt tại
Việt Nam, hình thức tín dụng ra đời mới được hơn chục năm, nó còn hết sức
mới mẻ với người tiêu dùng nên hoạt động tuyên truyền, quảng bá về hoạt động
này càng phải được chú trọng.


Các nước đang phát triển chính là thị trường mà các nước phát triển
hướng tới, Việt Nam cũng vậy. Cùng với việc gia nhập WTO, Việt Nam đang
đứng trước những thử thách về việc hội nhập. Người dân Việt Nam hiện nay,
với thu nhập được nâng lên không ngừng chính là cơ hội cho các ngân hàng
thương mại xúc tiến hoạt động tín dụng của mình. Tuy vậy nếu các ngân hàng
thương mại Việt Nam khơng có những kế hoạch hành động hợp lý thì khi các
ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào với kinh nghiệm và qui mô hơn hẳn sẽ
chiếm lĩnh ngay thị phần của các ngân hàng thương mại trong nước.



Có thể khẳng định việc các ngân hàng do dự trước quyết định mở rộng
cho vay tiêu dùng chính là vì mức độ rủi ro tiềm ẩn của các khoản vay này rất
cao. Như vậy muốn mở rộng cho vay tiêu dùng các ngân hàng khơng cịn cách
nào khác là phải tăng cường hoạt động giám sát và quản lí các khoản vay này.



Phải có mơ hình cho điểm tín dụng tiêu dùng. Hầu hết các nước phát triển

dịch vụ tín dụng tiêu dùng, các ngân hàng thương mại đều xây dựng cho mình
mơ hình cho điểm đối với loại hình tín dụng này. Mơ hình này áp dụng cho cá
nhân, dựa vào hồ sơ tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, sở hữu nhà, thu nhập,
thời gian cơng tác…để cho điểm từ đó hình thành khung chính sách tín dụng.
Bảng 1.3. Mơ hình cho điểm tín dụng tiêu dùng
Tổng số điểm
Từ 28 điểm trở xuống
từ 29 đến 30 điểm
Từ 31 đến 33 điểm
Từ 34 đến 36 điểm
Từ 37 đến 38 điểm
Từ 39 đến 40 điểm
Từ 41 đến 43 điểm

Quyết định tín dụng
Từ chối tín dụng
Cho vay đến 500 USD
1.000 USD
2.500 USD
3.500 USD
5.000 USD
8.000 USD


( Nguồn: Risk Management in Banking, 2001- Joel Bessis)
2.2.8. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của các NHTM

Nếu như trước đây các ngân hàng thương mại chỉ để cho vay tiêu dùng
chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong tổng dư nợ cho vay của mình, thì ngày này
hầu hếtcác ngân hàng thương mại đều coi cho vay tiêu dùng là một lĩnh vực

quan trọng, là yếu tố cạnh tranh của ngân hàng so với các tổ chức tài chính phi
ngân hàng khác. Ngày nay nguồn cho vay tiêu dùng không chỉ xuất phát từ các
ngân hàng thương mại mà còn xuất phát từ rất nhiều nguồn khác như: Cơng ty
tài chính, cơng ty bảo hiểm, hợp tác xã, ngân hàng tiết kiệm bưu điện, hợp tác
xã, các doanh nghịêp sản xuất, kinh doanh hay các nguồn khác nữa. Tuy nhiên
ngân hàng thương mại vẫn là lựa chọn được ưu tiên của những người muốn vay
vốn phục vụ nhu cầu tiêu dùng. Ở các nước có nền kinh tế phát triển, cho vay
tiêu dùng hiện là một hình thức tài sản phổ biến và có khả năng sinh lời cao cho
ngân hàng. Đa dạng hố các hình thức cho vay tiêu dùng là một yêu cầu luôn
đặt ra cho các ngân hàng, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.
Cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay của ngân hàng thương mại,
hoạt động của nó chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Các ngân hàng luôn luôn
phải xem xét các yếu tố đó một cách thân trọng nhằm phát huy những yếu tố
tích cực đến cho vay tiêu dùng, cũng như hạn chế tới mức tối đa các yếu tố klàm
hạn chế hoạt động cho vay tiêu dùng.
Có thể chia những yếu tố tác động tới hoạt động cho vay tiêu dùng thành
hai nhóm: Nhóm yếu tố chủ quan và nhơm yếu tố khách quan.
2.2.8.1. Nhóm yếu tố chủ quan

Đây là nhóm yếu tố xuất phát từ phía bản thân các ngân hàng. Đây có thể
coi là nhóm yếu tố quyết định hoạt động cho vay tiêu dùng. Tuỳ theo định
hướng phát triển của mỗi ngân hàng thương mại mà ta thấy tỷ trọng cho vay
tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay của mỗi ngân hàng là khác nhau. Có những
ngân hàng coi cho vay tiêu dùng là một hoạt động quan trọng, chiếm vị trí đặc
biệt quan trọng trong hoạt động của nó, nhưng cũng có ngân hàng không coi


cho vay tiêu dùng là hoạt động chiến lược mà tập trung nguồn lực mở rộng và
phát triển các hoạt động khác. Như vậy chiến lược phát triển và nội lực của mỗi
ngân hàng là yếu tố tiên đối với sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng.



Chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại.
Đây là yếu tố kiến tạo lên sức mạnh của các ngân hàng. Nhân viên ngân
hàng là người trực tiếp thực hiện các chiến lược kinh doanh của ngân hàng
thương mại. Quá trình giao dịch trực tiếp với khách hàn, nhân viên ngân hàng
chính là hiện hữu chủ yếu của dịch vụ, chính vì vậy mà kiến thức và chun
mơn của của nhân viên ngân hàng tăng thêm giá trị của các sản phẩm dịch vụ
của ngân hàng. Kiến thức và chuyên mơn của nhân viên ngân hàng cũng có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc thẩm định các khoản vay. Cho vay tiêu
dùng là một loại hình cho vay có mức độ rủi ro tiềm ẩn rất lơn, nên ngay từ
khâu thẩm định các khoản vay nếu cán bộ thẩm định khơng làm tốt có thể gây
ra tổn hại rất lớn cho ngân hàng. Ngoài ra đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân
hàng cũng là một yếu tố rất quan trọng trong việc cho vay. Nếu một cán bộ ngân
hàng khơng có đạo đức nghề nghiệp thì nguy cơ xảy ra rủi ro cho ngân hàng
cũng không phải là nhỏ.



Qui mô nguồn vốn của ngân hàng
Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn ngân hàng huy động được và
nguồn vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Trong đó nguồn vốn chủ sở hữu đóng vai
trị sống cịn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân
hàng khả năng phát triển lâu dài trong tương lai. Ngồi ra, nguồn vốn chủ sở
hữu cịn là tấm lá chắn cho ngân hàng, nhằm chống lại các rủi ro có thể xảy ra.
Hiện nay, qui mơ nguồn vốn lớn là một yếu tố kích thích khách hàng đến với
ngân hàng. Qui mô nguồn vốn lớn giúp cho ngân hàng có điều kiện đầu tư nâng
cao cơ sở hạ tầng, máy móc, thiết bị, cơng nghệ ngân hàng…Tất cả những yếu
tố trên tạo cho ngân hàng sức cạnh tranh nhằm mở rộng hơn nữa các dịch vụ
ngân hàng nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng.




Qui trình và thủ tục cho vay của ngân hàng


×