Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.25 KB, 28 trang )

CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
I.1. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM.
I.1.1. Khái niệm.
Tín dụng là quá trình chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật
của một tổ chức hay cá nhân này cho một tổ chức hay cá nhân khác sử dụng
trong một thời gian nhất định trên nguyên tắc hoàn trả.
Qua định nghĩa trên ta có thể thấy rằng trong quan hệ tín dụng người
cho vay chỉ nhượng quyền sử dụng cho người vay sau một thời gian nhất định
đã thỏa thuận nào đó, người đi vay phải hoàn trả lại cho người cho vay cả vốn
lẫn lãi trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng có lợi cho cả hai bên, thúc đẩy nền kinh
tế phát triển.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của quan hệ tín
dụng. Tuy vậy nó vẫn giữ nguyên bản chất ban đầu của quan hệ tín dụng nói
chung. Tín dụng ngân hàng biểu hiện quan hệ vay mươn trên cơ sở hoàn trả có
lãi giữa ngân hàng và các thành phần kinh tế trong xã hội. Tín dụng ngân hàng
được hình thành trên cơ sở các nghiệp vụ ngân hàng. Các chủ thể tham gia vào
quan hệ tín dụng rất phong phú và đa dạng như các ngân hàng, các đơn vị
kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân…
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, đem lại phần lớn thu
nhập cho ngân hàng nhưng nó cũng là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro
cho ngân hàng. Chính vì thế để tiện cho việc quản lý các khoản vay các ngân
hàng thường phân loại tín dụng theo nhiều tiêu chí khác nhau như mục đích
vay, thành phần kinh tế, đối tượng tín dụng, hình thái giá trị của tín dụng…và
theo một tiêu chí không thể thiếu được đó là phân loại theo thời hạn. Mục đích
của việc phân loại tín dụng theo kỳ hạn là để xem xét, đánh giá trạng thái lỏng,
khả năng chuyển hóa thành tiền mặt nhanh và mức độ rủi ro của các khoản
cho vay trong tổng tài sản có.
Tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng được
phân loại theo kỳ hạn. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là các khoản
cho vay của ngân hàng có thời hạn trên một năm nhưng không dài hơn thời


gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành bằng vốn vay ngân hàng. Việc
phân chia cụ thể tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn tuỳ thuộc vào quy
định của mỗi quốc gia
* Tín dụng trung hạn : các nước trên thế giới quy định tín dụng trung
hạn là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 7 năm, riêng ở Việt Nam quy định loại
cho vay này có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ và mở rộng sản xuất kinh doanh,
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
* Tín dụng trung hạn : hầu hết các nước quy định cho vay dài hạn có
thời hạn trên 7 năm, riêng Việt Nam quy định loại tín dụng này có thời hạn
trên 5 năm.
Tín dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như
xây dựng nhà ở, mua sắm các thiết bị, phương tiện có quy mô lớn, xây dựng xí
nghiệp có quy mô lớn và thời gian hoạt động dài.
I.1.2. Tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn đối với sự
phát triển của nền kinh tế.
Tín dụng trung và dài hạn là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách
hàng. Mối quan hệ này được hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên
tham gia dựa trên nguyên tắc cùng có lợi. Như vậy rõ ràng việc tham gia vào
quan hệ tín dụng này là hoàn toàn tự nguyện và nó đem lại lợi ích cho cả hai
bên tham gia là ngân hàng và khách hàng. Không chỉ có vậy, ngân hàng và
doanh nghiệp là hai chủ thể quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế quốc dân,
do đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hai chủ thể này sẽ góp phần vào sự
phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Ngày nay với sự ra đời và phát triển
mạnh mẽ của các NHTM , ta có thể thấy tín dụng ngân hàng có vai trò quan
trọng như thế nào đối với sự vận hành của một nền kinh tế, trong đó tín dụng
trung và dài hạn có vai trò đặc biệt quan trọng trong cho việc phát triển kinh
tế của đất nước. Tóm lại, việc mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng tín
dụng trung và dài hạn là cần thiết khách quan, nó đem lại lợi ích cho cả ba chủ

thể là ngân hàng , doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung.
* Đối với ngân hàng: Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu nhất
của một NHTM, nó chiếm một tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản có của ngân
hàng và đây là khoản mục đem lại phần lớn thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập
từ tiền cho vay được biểu hiện dưới dạng tiền lãi cho vay và phụ thuộc chủ yếu
vào thời hạn của khoản vay theo nguyên tắc thời hạn cho vay càng dài thì lãi
suất cho vay càng lớn. Chính vì thế nếu một ngân hàng mở rộng cho vay trung
và dài hạn thì điều đó có nghĩa rằng ngân hàng đã làm tăng thu nhập của
mình. Tuy nhiên đối với các khoản vay có thời hạn dài thì rủi ro tiềm ẩn cũng
càng cao và đó là lý do vì sao mở rộng quy mô phải luôn đi kèm với nâng cao
chất lượng tín dụng.
Hơn nữa, việc đáp ứng tốt nhu cầu tín dụng trung và dài hạn cũng đem
lại cho ngân hàng một vũ khí cạnh tranh lợi hại trên thị trường. Khả năng mở
rộng tín dụng trung và dài hạn thể hiện tiềm lực mạnh về vốn của ngân hàng,
chất lượng tín dụng cao thể hiện năng lực quản lý của lãnh đạo, năng lực
chuyên môn của cán bộ ngân hàng. Điều đó sẽ tạo nên uy tín ngày càng cao cho
ngân hàng. Bên cạnh đó, khi ngân hàng đầu tư tín dụng trung và dài hạn trong
doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp mới thì thường hoạt động của doanh
nghiệp gắn liền với ngân hàng, mọi nhu cầu về vốn lưu động phục vụ cho chu
kỳ sản xuất kinh doanh, các nhu cầu thanh toán bảo lãnh, tư vấn của doanh
nghiệp đều qua ngân hàng nhờ vậy ngân hàng có thể tăng thêm thu nhập cho
mình. Còn đối với các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, máy
móc thiết bị, mở rộng sản xuất nhu cầu về vốn lưu động cho các chu kỳ sản
xuất sau đó sẽ tăng lên và như vậy tín dụng ngắn hạn và các dịch vụ của ngân
hàng sẽ được các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn và vì thế thu nhập của các
NHTM sẽ được tăng thêm.
* Đối với doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường ở mỗi thời kỳ
nhu cầu về vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp luôn là một đòi hỏi cấp
thiết. Các doanh nghiệp mới thành lập thì cần vốn để mua sắm tài sản cố định,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như nhà xưởng, kho bãi và đáp ứng một phần

vốn lưu động. Các doanh nghiệp đang hoạt động thì luôn có nhu cầu đổi mới
trang thiết bị, công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở
rộng sản xuất khi gặp cơ hội kinh doanh thuận lợi. Để làm được điều đó có
doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn lớn và thời gian sử dụng tương đối
dài. Mỗi doanh nghiệp có thể có nhiều nguồn khác nhau để đáp ứng các nhu
cầu đó của mình, song một trong những nguồn quan trọng nhất thường được
các doanh nghiệp sử dụng là nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Đặc biệt trong
điều kiện đang phát triển của Việt Nam nhu cầu cho đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp là rất lớn. Trong khi đó nguồn vốn tự tích lũy
của các doanh nghiệp lại rất thấp, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư rất dồi
dào nhưng việc đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp còn khá xa lạ đối với họ,
thị trường chứng khoán đã ra đời song mới chỉ ở thời kỳ sơ khai nên là một
trở ngại lớn cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Trong điều kiện
như vậy thì vốn tín dụng ngân hàng là một sự lựa chọn hiệu quả nhất.
Trong môi trường nền kinh tế cạnh tranh gay gắt các chủ thể kinh
doanh luôn phải chủ động tìm kiếm và thực hiện nhiều biện pháp để làm cho
sản phẩm có được chỗ đứng trên thị trường. Điều này đồng nghĩa với việc
doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, đầu tư trang thiết bị hiện đại, mở
rộng dây chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp
mới có thể tồn tại và phát triển trên thị trường. Do đó vấn đề đầu tư cho phát
triển sản xuất được đưa ra như một yêu cầu bức thiết đối với mỗi doanh
nghiệp.
Mục đích của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp là đầu
tư vào mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng mua sắm trang thiết bị công
nghệ hiện đại, tức là đầu tư theo chiều sâu nên ta có thể thấy tác động trực
tiếp của tín dụng trung và dài hạn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Tài sản cố định, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ hình thành
từ vốn vay dài hạn sẽ được cải tạo nâng cấp và hiện đại hóa làm cho năng suất
lao động được nâng cao, giảm giá thành sản phẩm, dẫn đến sản phẩm sản
xuất ra có sức hấp dẫn thu hút khách hàng sẽ thúc đẩy chiếm lĩnh thị trường.

Từ đó làm tiền đề cho việc tăng lợi nhuận của các doanh nghiệp.
* Đối với nền kinh tế: Nền kinh tế của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ,
dù đó là một quốc gia chậm phát triển, đang phát triển hay phát triển thì nhu
cầu vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển đều rất cần thiết. Đối với các
nước chậm phát triển hoạt động đầu tư chủ yếu là theo chiều rộng dưới hình
thức xây dựng mới, các nước phát triển thì chủ yếu đầu tư chiều sâu theo
hướng hiện đại hóa, còn các nước đang phát triển thì cần phải kết hợp đầu tư
vừa theo chiều rộng vừa theo chiều sâu. Nhưng dù là đầu tư theo cách nào thì
cũng đều cần đến nguồn vốn và phải là nguồn vốn trung và dài hạn.
Nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư này có thể khai thác từ nhiều kênh
khác nhau trong đó kênh tín dụng ngân hàng luôn giữ vai trò đặc biệt quan
trọng. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh
tế, tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng đã thu hút những nguồn vốn dư
thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng
các nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng
nền kinh tế. Phát triển tín dụng trung và dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể gánh
nặng cho Ngân sách Nhà nước, giảm các khoản bao cấp từ Ngân sách cho đầu
tư xây dựng cơ bản, góp phần giảm bớt thâm hụt Ngân sách, hơn thế nữa hiệu
quả mang lại cũng tỏ ra cao hơn. Bởi lẽ đồng vốn lúc này đã gắn kết chặt chẽ
quyền lợi và trách nhiệm của ngân hàng cũng như doanh nghiệp xin vay vốn.
Đối với ngân hàng để bảo toàn vốn nên mỗi dự án xin vay ngân hàng sẽ phải
xem xét kỹ lưỡng tính khả thi của dự án trước khi ra quyết định cho vay. Ngay
cả sau khi đã giải ngân các ngân hàng cũng phải giám sát chặt chẽ việc sử
dụng tiền vay để có biện pháp điều chỉnh kịp thời trước những vấn đề nảy sinh
và trong các trường hợp cần thiết các ngân hàng còn phải tư vấn cho doanh
nghiệp, đưa ra những lời khuyên bổ ích giúp cho việc đảm bảo an toàn và sinh
lời của vốn vay. Về phía các doanh nghiệp lãi suất tín dụng trung và dài hạn là
một chi phí khá lớn, do vậy các doanh nghiệp cũng sẽ phải tính toán kỹ lưỡng
để sử dụng vốn vay một cách hợp lý và hiệu quả nhất. Vì vậy tín dụng trung và
dài hạn là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển góp phần vào

sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
Bên cạnh đó tín dụng trung và dài hạn cũng có thể được sử dụng như
một công cụ tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước theo
những định hướng có lợi nhất. Thông qua việc mở rộng cho vay đối với những
lĩnh vực cần khuyến khích và hạn chế cho vay đối với những lĩnh vực không cần
đẩy mạnh, các ngân hàng đã tham gia tích cực vào việc điều chỉnh cơ cấu kinh
tế một cách chủ động và tích cực.
Đối với Việt Nam do xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu, nên nền kinh tế nước ta gặp vô vàn khó khăn
trong công cuộc Công nghiệp hóa _ Hiện đại hóa. Trước mắt là nhu cầu về vốn
nhất là vốn trung và dài hạn để đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở vật chất
kỹ thuật, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, chuyển
dịch nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại với cơ cấu
Công nghiệp - Nông nghiệp - Dịch vụ hợp lý, phát triển sản xuất trong nước
theo cả chiều rộng và chiều sâu. Nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư bao
gồm cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên bài học
kinh nghiệm từ các nước trong khu vực trong thời gian qua đã cho thấy việc
quá lạm dụng vào vốn nước ngoài sẽ đưa đất nước đến những biến động về tài
chính tiền tệ không thể kiểm soát nổi. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng
của vốn trong nước nên tại Đại hội Đảng lần VIII đã khẳng định: “ Vốn nước
ngoài là quan trọng, vốn trong nước là quyết định” . Đối với nguồn vốn trong
nước thì nguồn vốn cấp phát từ Ngân sách Nhà nước rất hạn hẹp, không thể
đầu tư dàn trải cho nhiều lĩnh vực mà chủ yếu tập trung xây dựng các công
trình cơ sở hạ tầng và một số công trình công nghiệp lớn. Nguồn vốn tự tích
lũy của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay quá nhỏ bé, không thể
đáp ứng nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất. Chỉ có
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là khá dồi dào song việc huy động được
nguồn vốn này lại không phải là dễ dàng. Các hình thức đầu tư trực tiếp vào
các doanh nghiệp vẫn còn rất xa lạ với đại bộ phận công chúng. Thị trường
chứng khoán mới ra đời và chưa phát triển hoàn thiện do đó việc huy động vốn

bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu gặp phải nhiều khó khăn. Trong bối
cảnh đó thì hiện tại và thời gian tới vốn tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò
quyết định cho tiến trình Công nghiệp hóa_ Hiện đại hóa đất nước. Vì vậy mở
rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là điều kiện cần thiết
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
I.1.3. Một số vấn đề cơ bản của tín dụng trung và dài hạn.
* Nguồn cho vay trung và dài hạn:
Nguồn vốn cho vay trung và dài hạn được hình thành từ các nguồn sau:
• Phần vốn tự có dôi ra sau khi ngân hàng dùng vốn tự có để mua
sắm tài sản cố định, hùn vốn, góp vốn liên doanh liên kết và bù đắp những
khoản nợ khê đọng khó đòi
• Vốn huy động trong nước và nước ngoài từ 1 năm trở lên bằng
cách phát hành kỳ phiếu dài hạn hoặc huy động tiền gửi định kỳ dài hạn.
• Một phần vốn huy động ngắn hạn trong nước có thể dùng để cho
vay trung và dài hạn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ
này phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng
thời kỳ nhất định.
• Vốn uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự
án đầu tư của Nhà nước, của các tổ chức kinh tế xã hội ở trong và ngoài nước
để cho vay trung và dài hạn.
* Đối tượng cho vay trung và dài hạn: Đó là các chi phí cấu thành
trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo khôi
phục, đổi mới kỹ thuật ứng dụng khoa học và công nghệ đã được các cấp có
thẩm quyền phê duyệt và được ngân hàng cho vay chấp thuận. Cụ thể bao gồm
3 nhóm chi phí sau:
• Nhóm chi phí xây dựng : bao gồm chi phí nguyên vật liệu; chi phí
nhân công; chi phí mua hoặc thuê máy móc thi công.
• Nhóm chi phí thiết bị: bao gồm tiền mua thiết bị; chi phí lắp đặt;
vận chuyển; bảo dưỡng thiết bị; tiền thuê hoặc mua máy móc phục vụ cho việc
lắp đặt thiết bị.

• Nhóm chi phí khác gồm có: chi phí khảo sát thiết kế; chi phí giải
phóng mặt bằng; chi phí đào tạo nhân công kỹ thuật, thuê chuyên gia; chi phí
chạy thử máy; chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ thi công công trình; giá
trị của các phát minh sáng chế công nghệ mới; tiền thuê hoặc mua đất đai; chi
phí khánh thành công trình...
Mức cho vay đối với một dự án đầu tư được tính bởi công thức :
Mức cho vay tối đa Tổng giá trị dự toán Vốn tự có, tự
huy động
đối với dự án của công trình dùng cho
XDCBtham gia
Tuy nhiên mức cho vay tối đa đối với dự án này không được phép vượt
quá 70% giá trị của tài sản được dùng làm vật cầm cố thế chấp và cũng không
được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng đó.
* Thời hạn cho vay trung và dài hạn: Thời hạn cho vay là khoảng
thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm
trả nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa
ngân hàng và khách hàng.
Thời hạn cho vay trung hạn được quy định từ 12 tháng đến 60 tháng.
Thời hạn cho vay dài hạn được quy định từ 60 tháng trở lên nhưng
không quá thời gian hoạt động còn lại theo quyết định thành lập của giấy phép
kinh doanh đối với pháp nhân, không quá 15 năm đối với cho vay các dự án
phục vụ đời sống.
* Các hình thức tín dụng trung và dài hạn: Ngày nay, về mặt hình
thức, tín dụng trung và dài hạn không chỉ đơn thuần là việc phát tiền vay với
thời hạn trên 1 năm mà nó ẩn dưới rất nhiều hình thức, trong đó có thể kể ra
các hình thức khá phổ biến sau:
• Cho vay theo kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của doanh
nghiệp là loại cho vay được thực hiện theo phương pháp cho vay thông thường
dựa trên cơ sở nhu cầu vốn vay của từng công trình, hạng mục công trình
được xác định trong kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của mỗi doanh nghiệp.

• Cho vay theo dự án là một phương pháp cho vay dựa trên một
văn bản hoàn chỉnh về vay vốn và trả nợ được nghiên cứu soạn thảo, xét duyệt,
ký kết giữa người đi vay và ngân hàng, đồng thời dựa trên những căn cứ khoa
học kỹ thuật phù hợp với pháp luật và đường lối phát triển kinh tế của Nhà
nước.
• Tín dụng tuần hoàn : là phương thức cho vay dựa vào chu kỳ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được coi là tín dụng trung và dài hạn
khi thời hạn của hợp đồng được kéo dài trên 1 năm và khi đó người vay có thể
rút tiền bất cứ khi nào miễn là phải cam kết trả nợ ngay khi có nguồn thu
trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
• Tín dụng thuê mua : là một trong những hình thức tài trợ vốn
trung và dài hạn nhưng bằng tài sản thay vì bằng tiền trong đó ngân hàng
chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho doanh nghiệp thuê sử
dụng, doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian
thuê và có thể được sở hữu tài sản thuê hoặc được quyền mua lại tài sản thuê
hoặc được thuê tiếp theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng thuê mua.
* Điều kiện vay vốn trung và dài hạn:
• Người vay vốn phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành
vi.
• Người vay vốn sản xuất kinh doanh phải có lãi vì chỉ có họ mới
có thể trả nợ được cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cũng cho các đơn vị
sản xuất kinh doanh thua lỗ vay vốn như đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ
nhưng chiều hướng kinh doanh có lãi, có phương án khắc phục khả thi; đơn vị
sản xuất kinh doanh lỗ theo kế hoạch nhưng các đơn vị này khi muốn được vay
vốn phải có kế hoạch lỗ một cách rõ ràng, phải được cơ quan tài chính có thẩm
quyền cam kết bù lỗ kịp thời đầy đủ.
• Người vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, vốn tín
dụng của ngân hàng chỉ để bổ sung vào tổng mức vốn đầu tư của dự án, đồng
thời người vay vốn phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích dự án đầu tư

hoặc phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải khả thi, có hiệu
quả.
• Doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh về quản lý
tài chính và hạch toán kế toán đồng thời tình trạng tài chính của doanh nghiệp
phải lành mạnh, đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng.
• Người vay vốn phải thực hiện đảm bảo tín dụng theo đúng quy
định của Chính phủ và quy chế của Ngân hàng như cầm cố, thế chấp tài sản
hoặc được sự bảo lãnh của bên thứ ba.
* Quy trình thẩm định dự án đầu tư:
• Thu thập tài liệu, thông tin cần thiết cho việc đánh giá phân tích.
• Xử lý thông tin, đánh giá phân tích.
• Nội dung thẩm định dự án đầu tư gồm:
+ Thẩm định tư cách pháp nhân vay vốn.
+ Phân tích tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài
chính của doanh nghiệp trong những năm gần đây( ít nhất là 3 năm liên tục
gần đây) gồm:
♦ Phân tích tình hình tài chính.
♦ Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư.
♦ Thẩm định về phương diện kỹ thuật như thẩm định
về quy mô, về mặt công nghệ và trang thiết bị, về phương diện tổ chức, quản lý
vận hành của dự án.
♦ Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh
tế tài chính. Đặc biệt phải tính toán kỹ lưỡng 2 chỉ tiêu quan trọng nhất là : Giá
trị hiện tại ròng NPV và tỷ suất thu hồi vốn nội tại IRR.
+ Sau khi đã xem xét thẩm định dự án phải lập tờ trình kết
quả thẩm định các dự án đầu tư.
I.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NHTM

×