Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỪ XA CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI ĐỐI VỚI QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.92 KB, 32 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỪ XA CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI ĐỐI
VỚI QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN
1.1 Hoạt động của bảo hiểm tiền gửi
1.1.1 Mục đích của bảo hiểm tiền gửi
Bảo hiểm tiền gửi được định nghĩa như là một cơ chế có giới hạn nhưng
chính thức cung cấp sự đảm bảo mang tính pháp lý cho các khoản tiền
gửi( thường cả gốc và lãi) của người gửi tiền.
Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới ra đời và hoạt động nhằm mục đích:
- Bảo vệ người gửi tiền nhỏ bằng cách cung cấp một cơ chế thanh toán ngay
lập tức phần tiền gửi được bảo hiểm trong trường hợp tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi không có khả năng thanh toán;
- Tăng cường ổn định hệ thống tài chính bằng cách tạo điều kiện thiết lập hệ
thống khuyến khích mang tính cạnh tranh để xử lý đổ vỡ của từng ngân hàng
và ngăn chặn sự lây lan;
- Tăng cường sự ổn định của những tổ chức kinh doanh tiền tệ mới và nhỏ
để cạnh tranh với những tổ chức tín dụng lớn và hoạt động lâu năm;
- Xác định rủi ro của Chính phủ khi một hoặc một nhóm ngân hàng sụp đổ
trong các thời kỳ ổn định;
Ở phần lớn các nước trên thế giới bao gồm cả thành viên trong EU đều nhấn
mạnh việc bảo vệ người gửi tiền nhỏ là một mục tiêu chính của bảo hiểm tiền
gửi. Quan điểm này dựa trên cơ sở cho rằng những người gửi tiền nhỏ có số
lượng lớn, thường thiếu thông tin nên khi nghi ngờ về khả năng thanh toán
của một ngân hàng, họ sẽ rút tiền hàng loạt từ đó làm mất ổn định chung của
tiền gửi và hệ thống ngân hàng, gây sự đổ vỡ của một hoặc của một nhóm
thậm chí của cả hệ thống ngân hàng.
1.1.2 Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi
Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi là các tổ chức tài chính có thực hiện
hoạt động nhận tiền gửi cá nhân, đó là:
+ Các tổ chức tín dụng( các ngân hàng thương mại, hợp tác xã tín dụng…)
+ Các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số
hoạt động ngân hàng( công ty tài chính)


Việc tham gia BHTG có thể theo cơ chế tự nguyện hoặc theo cơ chế bắt buộc.
Cơ chế tự nguyện là cơ chế mà các tổ chức tài chính có quyền quyết định có
tham gia hệ thống BHTG hay không tham gia, luật pháp không bắt buộc phải
bảo hiểm tiền. Đối với cơ chế bắt buộc thì theo quy định của pháp luật mọi tổ
chức có kinh doanh tiền tệ và tham gia hoạt động ngân hàng đều phải tham
gia bảo hiểm tiền gửi. Hiện nay trên thế giới, phần lớn các nước quy định chế
độ BHTG bắt buộc.
Một nước có thể bảo hiểm ngầm hoặc công khai tất cả các khoản tiền gửi
hay một số lượng tiền gửi. Việc bảo hiểm công khai yêu cầu các tổ chức tham
gia BHTG phải niên yết công khai về việc tham gia BHTG tại trụ sở hoặc địa
điểm giao dịch, đặc biệt là nội dung liên quan đến hạn mức BHTG. Thực tế cho
thấy các hệ thống BHTG được xây dựng công khai có nhiều lợi thế hơn so với
chế độ đảm bảo ngầm, nhờ đó có thể làm giảm rủi ro mà Chính phủ phải chịu
khi các ngân hàng gặp khó khăn. Chính vì thế mà phần lớn các quốc gia trên
thế giới áp dụng chế độ đảm bảo công khai tiền gửi. Trên thế giới cho thấy, cho
tới năm 1993 trong số 72 nước có hệ thống bảo hiểm tiền gửi thì có tới 68
nước áp dụng theo chế độ BHTG công khai, chỉ có 4 quốc gia là áp dụng chế độ
bảo hiểm ngầm.
1.1.3 Nghiệp vụ chính của Bảo hiểm tiền gửi
Ở nhiều nước, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi( BHTG) được gọi Công ty Bảo hiểm
tiền gửi. Thực chất của bảo hiểm tiền gửi đối với các ngân hàng, đó là việc các
ngân hàng phải nộp một khoản phí bảo hiểm nhất định đối với các khoản tiền
gửi của khách hàng cho một tổ chức bảo hiểm chỉ chuyên đảm nhận rủi ro về
tiền gửi đối với các ngân hàng. Thông thường tổ chức bảo hiểm tiền gửi này là
tổ chức bảo hiểm của nhà nước, hoạt động mang tính chất tương hỗ, không
mang tính chất thương mại, số tiền phí bảo hiểm tích tụ được qua các năm sẽ
là một nguồn rất quan trọng dùng để chi trả tiền bảo hiểm cho bất kỳ ngân
hàng nào rơi vào tình trạng phá sản hoặc chưa phá sản nhưng có nguy cơ rất
lớn của sự phá sản. Như vậy, chi phí cho BHTG lớn( nhất là khi không phải chỉ
một ngân hàng đổ vỡ) trong khi khoản thu phí bảo hiểm có hạn nên tổ chức

BHTG phải do một tổ chức chính trị đứng ra thành lập, có thể là chính phủ
hoặc ngân hàng Trung ương. Vốn ban đầu của tổ chức này được nhà nước cấp
hoặc do Bộ tài chính, Ngân hàng Trung ương và các tổ chức tài chính được bảo
hiểm đóng góp hoặc vay từ kho bạc và từ Ngân hàng trung ương.
a. Giám sát tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
Ở các quốc gia nhìn chung đều quy định trách nhiệm của tổ chức tham gia
BHTG trong việc giám sát tổ chức tham gia BHTG nhằm hạn chế rủi ro. Công
tác giám sát các tổ chức này chủ yếu được thực hiện dưới hai dạng : giám sát
từ xa và kiểm tra trực tiếp.
Kiểm tra trực tiếp gồm kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột xuất. Hầu hết thì
kiểm tra định kỳ đều được thực hiện theo kế hoạch và các vấn đề cần kiểm tra
sẽ được điều chỉnh theo xu hướng tài chính. Kiểm tra đột xuất được thực hiện
trên cơ sở nhu cầu đặc biệt phát sinh hoặc khi có chỉ thị cụ thể của cơ quan cấp
trên. Ngoài ra, khi các tổ chức tài chính xin tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức
bảo hiểm tiền gửi có thể thực hiện việc kiểm tra ban đầu để đảm bảo rằng các
tổ chức tài chính đó đủ tiêu chuẩn. Hoạt động kiểm tra của tổ chức bảo hiểm
tiền gửi không chỉ dựa trên quan điểm “cung cấp hỗ trợ chứ không phải đơn
thuần là kiểm tra” và tuân thủ chính sách chia sẻ trách nhiệm giám sát với các
cơ quan chức năng khác, mà còn quan tâm đến việc hỗ trợ các tổ chức tài
chính bằng hoạt động kiểm tra này với mong muốn các tổ chức này sẽ hoạt
động hiệu quả hơn.
Khi kiểm tra một tổ chức tài chính, tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn phải đưa ra
các quyết định tuỳ thuộc vào mức độ sai phạm của tổ chức này. Tuỳ theo quy
định của mỗi quốc gia và mức độ sai phạm mà đưa ra quyết định, có thể yêu
cầu cán bộ của tổ chức được bảo hiểm điều chỉnh ngay trong thời gian đoàn
tiến hành kiểm tra hoặc nếu sai phạm lớn thì có thể khuyến nghị với các cơ
quan có thẩm quyền;
Hoạt động giám sát từ xa được thực hiện đối với các tổ chức tham gia được
bảo hiểm để đánh giá một cách hiệu qủa tính an toàn và tính lành mạnh trong
hoạt động của các tổ chức này. Hầu hết các nước thực hiện giám sát từ xa đều

dựa trên những cơ sở sau:
- Các thông tin cơ bản về hoạt động ngân hàng, các sai phạm trong hoạt
động hoặc bất kỳ thông tin nào liên quan đến tổ chức tài chính đó.
- Thông qua các báo cáo kiểm toán nội bộ và báo cáo kiểm toán hàng quý,
báo cáo tình hình hoạt động, bảng cân đối tài sản, báo cáo tài sản … để đánh
giá về những sai phạm của tổ chức được bảo hiểm;
Trên cơ sở đó xây dựng các hồ sơ dấu hiệu cảnh báo quan trọng mà dựa vào các
dấu hiệu này tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể xây dựng được các hồ sơ xử lý đánh
giá sau.
b. Hỗ trợ đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả
Tình trạng mất khả năng chi trả có thể dẫn đến sự đổ vỡ ngân hàng và có
thể gây nguy cơ khủng hoảng cả hệ thống Ngân hàng. Vì lẽ đó, khi một tổ chức
tham gia BHTG có nguy cơ mất khả năng chi trả sẽ được tổ chức BHTG xem xét
và tuỳ trường hợp cụ thể có thể được tổ chức BHTG hỗ trợ khắc phục tình
trạng khó khăn đó, chẳng hạn như: được tổ chức BHTG cho vay hỗ trợ để chi
trả tiền gửi được bảo hiểm, mua lại nợ…
c. Việc chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm
Khi tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, tổ chức BHTG có trách nhiệm chi trả
tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức đó theo quy định. Nếu
không đủ vốn để chi trả, tổ chức BHTG sẽ được hỗ trợ vốn dưới hình thức cho
vay từ nhà nước( Chính phủ) hoặc vay từ thị trường có sự bảo lãnh của Chính
phủ.
d .Quản lý và thanh lý tài sản đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá
sản
Trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị phá sản, tổ chức BHTG được quyền
tham gia quá trình quản lý và thành lý tài sản của tổ chức đó theo luật định. Số
tiền thu hồi được từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG được bổ
sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG .
Tất cả những nội dung trình bày trên đã nói lên được một cách cơ bản về
BHTG. Ở nhiều nước hệ thống BHTG được hình thành từ lâu và hoạt động của

hệ thống này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và trở thành một bộ phận không
thể thiếu được đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng.
1.2 Một vài nét cơ bản về phương pháp giám sát từ xa
1.2.1 Khái niệm
Giám sát từ xa là phương thức mà trong đó người giám sát sử dụng thông
tin trên các báo cáo, nhằm phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của các tổ
chức tín dụng để đề ra các biện pháp xử lý khi cần thiết;
Như vậy công tác giám sát từ xa còn được hiểu là phương pháp mà cán bộ
giám sát ngồi tại trụ sở của cơ quan tiếp nhận các thông tin báo cáo để phân
tích đánh giá tình hình đơn vị được giám sát một cách thường xuyên và có hệ
thống.
1.2.2 Phương pháp phân tích làm cơ sở cho việc giám sát
Để thực hiện nhiệm vụ của mình, công tác giám sát vừa phải sử dụng
phương pháp nghiên cứu của một số môn khoa học khác vừa sử dụng phương
pháp nghiên cứu có tính đặc thù riêng. Trong quá trình phân tích giám sát tuỳ
thuộc vào bản chất của các sự việc, tuỳ thuộc vào từng đối tượng cụ thể cũng
như nguồn tài liệu phân tích đánh giá mà áp dụng các phương pháp cho phù
hợp:
a. Phương pháp so sánh
Bằng phương pháp so sánh có thể biết được kết quả hoạt động kinh doanh
của một TCTD, qua đó có thể đánh giá được mức độ thực hiện mục tiêu mà các
TCTD đã đề ra, đánh giá được tốc độ, xu hướng phát triển của hoạt động kinh
doanh giữa các kỳ với các kỳ trước đó, cũng như mức độ tiến bộ hay lạc hậu
của từng chỉ tiêu cụ thể so với hoạt động chung của tổ chức tín dụng đó hay
cao hơn nữa còn phải so sánh với hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng;
Để tiến hành so sánh, phải đảm bảo hai điều kiện sau:
+ Phải có ít nhất hai chỉ tiêu hoặc hai đại lượng dùng để so sánh ;
+ Các chỉ tiêu đưa ra phải đồng nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về phương
pháp tính toán, cùng đơn vị đo lường và phải được thu thập trong cùng một khoảng
thời gian;

Trong so sánh người ta thường so sánh giữa các chỉ tiêu thực hiện với chỉ
tiêu kế hoạch, so sánh theo thời gian và so sánh theo không gian. Ví dụ so sánh
giữa các chỉ tiêu thực hiện với chỉ tiêu kế hoạch chính là so sánh giữa kết quả
đạt được với mục tiêu mà ngân hàng đề ra, qua đó giúp cho thanh tra cũng
như bản thân ngân hàng biết được mức độ thực hiện của các chỉ tiêu, tìm
nguyên nhân và đề ra được các biện pháp khắc phục, đồng thời giúp các ngân
hàng khai thác và phát huy khả năng tiềm tàng trong nộ bộ mình.
b. Phương pháp phân tích tỷ lệ
Đây là một trong các phương pháp dùng để hỗ trợ cho công tác phân tích và
tìm hiểu các báo cáo tài chính của các TCTD trong qúa trình đánh giá hoạt
động kinh doanh ngân hàng. Nhờ phương pháp phân tích này mà ta có thể
hiểu rõ hơn về bản chất của các hiện tượng cũng như sự biến động của các
hiện tượng đó.
Tỷ lệ là một chỉ số toán học so sánh một yếu tố này với một yếu tố khác. Tỷ lệ được
lập bởi việc tập hợp hai số liệu hoặc nhiều số liệu tạo ra một mối quan hệ nào đó.
Qua các tỷ lệ phân tích bảng cân đối tài sản, báo cáo dư nợ…của quý, năm
chúng ta có thể thấy được xu hướng, tiến độ hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, nếu tỷ lệ này có xu hướng không tốt thì tất yếu sẽ không thuận lợi cho
các ngân hàng. Từ đó biết được cần phải kiểm tra, tìm hiểu theo phương
hướng nào để có khuyến nghị nhà ngân hàng nên có biện pháp điều chỉnh như
thế nào cho phù hợp.
Khi phân tích theo phương pháp này cũng cần phải so sánh kỳ này với kỳ
trước, số thực tế với kế hoạch, đặc biệt cần phải so sánh các tỷ lệ của các ngân
hàng khác nhau có cùng quy mô hoạt động hay so sánh với chuẩn mực của
toàn hệ thống.
c. Phương pháp phân tổ
Phân tổ là phân chia chỉ tiêu kinh tế tổng hợp thành nhiều chỉ tiêu bộ phận,
nhiều chỉ tiêu chi tiết theo những chi tiết nhất định.
Đây là một phương pháp khá quan trọng trong phân tích: Các hiện tượng và
kết quả kinh tế thường rất đa dạng, phức tạp; dựa vào việc phân tổ các chỉ tiêu

kinh tế người thanh tra có thể nhận thức được bản chất, mối quan hệ cấu
thành và quan hệ nhân- quả cũng như quy luật tạo thành và phát triển của các
hiện tượng kinh tế, trên cở sở đó nhà phân tích có thể xác định được đâu là yếu
tố trọng điểm cần phải quan tâm trong công tác giám sát của mình, quyết định
những hành động nhanh chóng và hiệu quả;
Để đạt được các yêu cầu cơ bản trên, người phân tích có thể chia các chỉ tiêu
kinh tế theo thời gian, theo không gian( địa điểm phát sinh) và theo yếu tố cấu
thành.
Phân chia theo thời gian sẽ giúp người phân tích biết được mức độ phát
triển cũng như mức độ thực hiện các chỉ tiêu đã được đặt ra theo năm, quý,
tháng …
Phân chia theo không gian sẽ xác định được nguồn gốc hình thành của
chúng từ đó để có hành động cụ thể.
d. Phương pháp Dupont
Là phương pháp phân tích nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa các
chỉ tiêu. Phương pháp này giúp phân tích một tỷ lệ sơ cấp thành các tỷ lệ thứ
cấp, sau đó tỷ lệ thứ cấp mới tìm lại được trở thành tỷ lệ sơ cấp cho sự phân
tích tiếp theo. Xét theo quan điểm triết học thì quan hệ giữa các tỷ lệ là mối
quan hệ nhân- quả và được biểu hiện qua một chuỗi liên tiếp các tỷ lệ. Và bất
kỳ một sự thay đổi nào của tỷ lệ sau sẽ kéo theo sự thay đổi của cả một hiện
tượng kinh tế.
1.2.3 Nội dung giám sát từ xa
a. Nội dung cơ bản của phương thức giám sát từ xa:
Để thực hiện giám sát từ xa, có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá hoạt động của
các tổ chức tín dụng nhưng theo các nhà quản trị ngân hàng trên thế giới thì
các chỉ tiêu đó đều xoay quanh năm nội dung cơ bản sau:
 Vốn của ngân hàng- “Capital;
 Chất lượng tài sản có-“ Asset quality”;
 Khả năng quản lý- “Management ability”;
 Khả năng sinh lời-“Earning”;

 Khả năng thanh toán-“Liquidity”;
Trong hoạt động ngân hàng 5 nội dung trên có vai trò quan trọng quyết định
sự thành bại của mỗi ngân hàng, nếu quản lý tốt 5 lĩnh vực đó sẽ giảm tối thiểu
sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. 5 chỉ tiêu này trở thành mục tiêu chung đối
với công tác quản lý và kinh doanh ngân hàng
• Giám sát vốn của ngân hàng;
Với đặc điểm kinh doanh tiền tệ, vốn của ngân hàng là rất quan trọng. Phạm
vi kinh doanh và quy mô kinh doanh của ngân hàng tuỳ thuộc vào vốn tự có
của nó. Mặc dù vốn tự có của ngân hàng rất nhỏ so với tổng nguồn nhưng nó là
căn cứ cho phép mức huy động vốn trên thị trường và được sử dụng nó vào
mục đích nào? Vì thế các quy chế an toàn trong kinh doanh tiền tệ đều phụ
thuộc vào vốn tự có.
Nội dung vốn của ngân hàng gồm: Vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ, quỹ dự trữ đặc biệt để dự phong bù đắp rủi ro, lợi nhuận chưa chia, giá trị
tài sản tăng thêm do định giá lại tài sản cố định.
Giám sát vốn là giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn tức là kiểm tra vốn
thực có so với vốn đăng ký ghi trong giấy phép thành lập và so với vốn pháp
định xem có đảm bảo hay không? kiểm tra quỹ dự phòng rủi ro có chấp hành
theo quy định không? các chỉ tiêu an toàn và hiệu quả sử dụng và bảo toàn vốn.
Giới hạn sử dụng vốn tự có để mua sắm tài sản, bù đắp tổn thất khi không có
các nguồn huy động khác, giới hạn xem tổ chức đó được huy động vốn là bao
nhiêu?
Cooke) sè 8%(hÖ
æi quy ro rñi cã ns¶ tµi tæng
cã tù vèn
vèntoµn an sè HÖ >
d
=
Hệ số Cooke là thước đo độ bền của mỗi ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu phải đạt 8 % trở lên. Tài sản Có của ngân hàng chia

làm hai dạng, dạng tài sản có không có hệ số rủi ro tín dụng gồm: tiền mặt, tiền
gửi tại Ngân hàng Trung ương, Trái phiếu do Chính phủ phát hành, vàng , bạc,
… Dạng các tài sản rủi ro được chia thành 4 hệ số: 10%; 20%; 50%; và 100%.
Thí dụ các khoản cho vay có thế chấp bằng động sản có hệ số rủi ro 50%. Tài
sản ngoại bảng cũng được chuyển đổi sang các tài sản Có rủi ro theo hệ số.
• Chất lượng tài sản Có
Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về mặt
tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý, và hầu hết rủi ro trong kinh
doanh tiền tệ đều tập trung vào tài sản có. Trong tài sản có thì tài sản có sinh
lời là nội dung quan trọng nhất quyết định sự thành bại của ngân hàng, vì vậy
đây là chỉ tiêu quan trọng mà nhà giám sát cần phải tập trung phân tích;
Tài sản có sinh lời của Ngân hàng bao gồm các khoản đầu tư cho trái phiếu
kho bạc, khoản cho vay, góp vốn liên doanh,… Đây là những tài sản Có có khả
năng mang lại những khoản thu nhập lớn cho ngân hàng, vì vậy khi giám sát
rất cần phải quan tâm đến những thay đổi trong cơ cấu cũng như tỷ trọng của
từng loại này trong Tổng tài sản.
Giám sát tài sản có là tập trung phân tích đánh giá các nhóm tài sản có,
từng loại cho vay, từng loại dịch vụ theo một chuẩn mực nhất định sau đó tổng
hợp các chỉ tiêu để đưa ra đánh giá cuối cùng về chất lượng tài sản có. Trước
đây, dư nợ cho vay được xem là một phần quan trọng nhất trong cơ cấu tài sản
Có của ngân hàng. Chất lượng cho vay, mức độ tổn thất trong hoạt động tín
dụng ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tài sản Có của ngân hàng. Tuy nhiên
với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc đánh giá chất lượng
hoạt động thương mại, dịch vụ của các ngân hàng ngày trở nên quan trọng.
Kết quả của những hoạt động này sẽ ngày càng có tác động lớn tới chất lượng
tài sản Có. Ngoài ra, các nhà phân tích cần quan tâm tới tỷ lệ tài sản Có sinh lời
so với tổng tài sản Có. Bộ phận tài sản này quyết định khả năng thu nhập, lợi
nhuận của từng ngân hàng.
• Khả năng quản lý
Khả năng quản lý của mỗi ngân hàng là yếu tố năng động nhất. Nếu khả

năng quản lý tốt có thể biến đổi một ngân hàng yếu kém thành một ngân hàng
khá và ngược lại. Đánh giá năng lực quản lý của ban giám đốc điều hành và
biểu hiện chất lượng quản lý bằng hiệu quả kinh doanh thể hiện qua các nội
dung sau:
+ Năng lực đề ra sách lược kinh doanh có sức cạnh tranh và đứng vững trong thị
trường.
+ Đưa ra được kế hoạch triển khai các công việc một cách hợp lý, rõ ràng, có hiệu
quả.
+ Vạch ra đựơc phương thức quản lý nghiệp vụ, quy trình thực hiện
nghiệp vụ đảm bảo tuân thủ các quy định trong kinh doanh.
+ Tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, có hiệu quả phân định rõ ràng trách
nhiệm và quyền hạn giữa các nhân viên và người điều hành các khâu, các bộ
phận.
+ Có chính sách nhân sự khuyến khích các thành viên tích cực làm tốt các
công việc duy trì kỷ luật tạo không khí thân mật hợp tác trong công việc.
Từ nhận thức này, khâu tuyển chọn những chức vụ quản lý ngân hàng được
đặc biệt coi trọng, đây là tiêu chuẩn được quy định thành những điều kiện
trong luật áp dụng khi thành lập ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng quản lý của
ban lãnh đạo điều hành một ngân hàng bao gồm:
- Hiệu quả kinh doanh: Thông qua tốc độ tăng trưởng của kết quả kinh
doanh có bền vững không, không bị ảnh hưởng khi có biến động và khả năng
hạn chế những tổn thất.
- Sự tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ lành mạnh trong kinh doanh.
- Độ tín nhiệm trong môi trường kinh doanh đối với khách hàng và các ngân hàng
khác.
• Khả năng sinh lời
Hoạt động kinh doanh có lãi mới tạo được sinh lực cho ngân hàng tồn tại và
phát triển. Khả năng sinh lời và kết quả tài chính là thể hiện kết quả cụ thể
trong kinh doanh của ngân hàng. Trong cơ chế thị trường, ngân hàng chỉ có

thể tồn tại và phát triển khi kinh doanh có lãi.
Khả năng sinh lời được thể hiện ở các khía cạnh sau:
+ Các hoạt động kinh doanh phải tạo ra thu nhập tránh rủi ro và phải bù
đắp được khi có rủi ro.
+ Chi phí hoạt động của ngân hàng kể cả những khoản lỗ năm trước.
+ Những khoản tổn thất trong năm kế tài chính, đặc biệt là những khoản tổn
thất trong cho vay.
+ Đảm bảo một tỷ lệ tài sản có sinh lời so với tổng tài sản có;
+ Thu nhập tính theo bình quân tài sản Có cao;
+ Chi phí cho vốn huy động thấp;
+ Chi phí cho những khoản tổn thất trong năm thấp;
+ Chi phí cho sản xuất kinh doanh hợp lý.
• Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là một nội dung quan trọng để đánh giá hoạt động của ngân
hàng. Khả năng thanh toán được đánh giá theo các tiêu chuẩn về nội dung khác nhau;

×