Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.87 KB, 36 trang )

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Ngân hàng thương mại và hoạt động của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM)
Khi nghiên cứu về ngân hàng thương mại các nhà kinh tế học có nhiều quan
điểm khác nhau về ngân hàng thương mại. Người thì cho rằng “ ngân hàng
thương mại là tổ chức nhận tiền gửi để cho vay ”. Người khác lại nhận định
rằng “ngân hàng thương mại là trung gian tài chính có giấy phép của chính
phủ để vay tiền và mởi tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng
séc”. Sở dĩ có tình trạng trên là do hoạt động của ngân hàng thương mại rất đa
dạng, các thao tác trong từng nghiệp vụ lại phức tạp và vấn đề này luôn biến
động theo sự thay đổi chung của nền kinh tế. Ở nước ta ngân hàng đầu tiên
được thành lập đó là ngân hàng Đông Dương của Pháp vào giữa thế kỉ XIX để
phục vụ cho giới thương gia Pháp trên thị trường Việt Nam. Sau đó có thêm
các ngân hàng nước ngoài của Trung Quốc , Anh ...
Đến năm 1990 pháp lệnh ngân hàng Nhà nước ta ra đời đã chính thức phân
chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp là ngân hàng Trung Ương và ngân
hàng thương mại .
Từ đó khái niệm ngân hàng thương mại hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh
vực đã ra đời.
Theo luật các tổ chức tín dụng được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12-12-1997 thì “ Tổ chức tín dụng là một tổ
chức hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận
tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cho vay cung ứng các dịch vụ thanh toán chi
trả hộ ...” mà ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Như vậy
“ Ngân hàng chính là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi, cho vay, thực
hiện các dịch vụ chi trả hộ, cung ứng các phương tiện thanh toán cùng các
hoạt động kinh doanh khác”. Mục tiêu hoạt động kinh doanh của ngân hàng là


lợi nhuận với đối tượng kinh doanh là tiền tệ.
2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại .
Ngân hàng thương mại hoạt động rất đa dạng trên nhiều lĩnh vực nhưng
hoạt động của ngân hàng tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho
vay. Đó là hai mặt của hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng
nhu cầu tạm thời thiếu hụt vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế hoặc
các cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng hàng ngày.
Trong quá trình phát triển mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh có thay đổi
do có sự thay đổi về môi trưoừng kinh tế hoặc phương pháp hoạt động, có thể
ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng thương mại nhưng hoạt động tín
dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản. Hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn
trong toàn bộ hoạt động của ngân hàng thương mại và là hoạt động sinh lời
chủ yếu của ngân hàng.
Trong xu thế hiện nay, các ngân hàng thương mại hoạt động theo loại hình
ngân hàng đa năng thì hoạt động của nó bao gồm :
2.1 Hoạt động huy động vốn .
Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho hoạt động của ngân hàng.
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hộ để hoạt động là lẽ sống quan
trọng nhất của các ngân hàng thương mại.
Hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động nguyên thuỷ của ngân hàng. Nhận
tiền gửi của khách hàng vẫn là nguồn đầu vào chủ yếu. Có rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến quy mô tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng như : chính sách lãi
suất, phương thức trả lãi của ngân hàng, tình hình kinh tế xã hội trong từng
thời kì, tình hình thu nhập và chi tiêu ngân sách, phong tục tập quán thói quen
từng vùng, lòng tin dân chúng đối với ngân hàng và Chính Phủ , địa điểm ngân
hàng, các dịch vụ ngân hàng cung cấp. Ngân hàng cần phải nắm vững các yếu
tố đó để có thể điều chỉnh lượng vốn huy động sao cho phù hợp với nhu cầu
vốn của mình. Hoạt động huy động vốn được thể hiện dưới các hình thức sau :
• Nếu phân theo thời hạn
+ Tiền gửi không kì hạn : Bao gồm các loại tiền gửi thanh toán , tiền gửi

tiết kiệm không kì hạn của các tổ chức kinh tế và dân cư. Đó là khoản tiền gửi
mà người gửi có thể rút bất cứ lúc nào .
+ Tiền gửi có kì hạn : Đây là loại tiền gửi mà có sự thoã thuận về thời gian
rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy về nguyên tắc khách hàng gửi
tiền chỉ được rút tiền khi đến hạn đã thoã thuận. Lãi suất của loại tiền gửi này
thường cao hơn so với tiền gửi không kì hạn.
• Nếu phân chia theo mục đích bao gồm :
+ Tiền gửi giao dịch : Đây là khoản tiền do khách hàng gửi vào ngân hàng
và họ có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán và chi trả cho họ bất cứ lúc nào.
Người gửi có thể nhận được khoản lãi hoặc không tuỳ thuộc vào qui định của
ngân hàng nhưng mục đích chính của người gửi là phục vụ mục tiêu thanh
toán giao dịch chứ không phải là mục tiêu hưởng lãi.
+ Tiền gửi phi giao dịch : Bao gồm tiền gửi có kì hạn của tổ chức kinh tế,
tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Mục tiêu chính của khách hàng là hưởng lãi, do
vậy ngân hàng phải trả một khoản khá cao cho loại tiền gửi này .
+ Vay từ tổ chức tín dụng khác .
Sau khi đã sử dụng hết vốn mà vẫn chưa đáp ứng dược nhu cầu vay vốn của
khách hàng hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng. Các
ngân hàng thương mại có thể đi vay ở ngân hàng Trung Ương và ngân hàng
thương mại khác bằng cách kí hợp đồng vay vốn có tài sản đẩm bảo, chiết
khấu các giấy tờ có giá cho ngân hàng thương mại, vay dưới hình thức tiền gửi
có kì hạn. Ngoài ra ngân hàng còn có thể vay các tổ chức ngoài nước... Vốn đi
vay chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn nhưng
nó rất cần thiết và quan trọng để đảm bảo ngân hàng kinh doanh một cách
bình thường
+ Các hình thức huy động khác.
Ngoài hai hình thức huy động chính là huy động tiền gửi, vay vốn từ các tổ
chức tín dụng khác, ngân hàng còn huy động bằng hình thức phát hành chứng
chỉ tiền gửi , phát hành trái phiếu hoặc huy động các nguồn vốn trong thanh
toán, vốn phát sinh từ các hoạt động dịch vụ khác. Như vậy, để hoạt động huy

động vốn có kết quả cao thì ngân hàng cần có các chính sách hợp lí như : mức
lãi suất,đa dạng hóa các hình thức huy động kết hợp với các chính sách
marketing để thu hút khách hàng.
2.2 Hoạt động sử dụng vốn.
Khi đã có được đầu vào thì các ngân hàng phải tìm được đầu ra cho
những đồng vốn huy động được. Hầu hết nguồn vốn của ngân hàng được sử
dụng vào các hoạt động sau :
2.2.1 Hoạt động ngân quỹ.
Đây là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên
của ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng phải thường xuyên xác định số tiền
mặt đang nằm trong két, số tiền giữ lại tại NHTƯ và các ngân hàng thương
mại khác và tiền đang trong quá trình thu. Đây là các tài sản không sinh lời
hoặc sinh lời rấ thấp nhưng các ngân hàng thương mại buộc phải giữ lại vì hai
lí do :
Thứ nhất, luật ngân hàng quy định, và để được phép hoạt động nó phải tuân
theo luật.
Thứ hai, bản thân ngân hàng cũng thấy rõ sự cần thiết phải giữ lại một ít
tiền mặt mà không nên cho vay hết dù cho nó có thừa khả năng làm điều đó.
Việc giữ lại tiền mặt là để đảm bảo an toàn cho những hoạt động còn lại, và vì
thế dữ trữ tiền mặt trong tài sản có còn được gọi là “ khoản đầu tư cho sự an
toàn”.
2.2.2 Hoạt động đầu tư.
Đầu tư vào chứng khoán là loại hình phổ biến nhất trong hoạt động đầu
tư của ngân hàng thương mại tại các nước phát triển.Ở nước ta thị trường
chứng khoán mới ra đời nên hàng hoá còn nghèo nàn, thị trường vận động
chưa đúng quy luật do đó chưa thu hút được sự chú ý của các thành viên trong
nền kinh tế trong đó có ngân hàng.
2.2.3 Hoạt động tín dụng
Hầu hết nguồn vốn mà ngân hàng huy động dược sẽ đưa vào hoạt động tín
dụng. Đây là hoạt động kinh doanh chính tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân

hàng thương mại vì chỉ có lãi suất cho vay mới ù đắp nổi các chi phí khác của
ngân hàng. Thông thường hoạt động tín dụng bao gồm :
• Hoạt động cho vay:
Đây là một trong những hoạt động đầu ra và là hoạt động quan trọng nhất
quyết định đến sự thành bại của ngân hàng. Chỉ khi nào ngân hàng điều hành
tốt hoạt động này thì hoạt động chung của ngân hàng mới đem lại hiệu quả
cao vì đây chính là hoạt động sinh lời chủ yếu. Là hoạt động đem lại nguồn thu
nhập chính cho ngân hàng nên cho vay cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro
nhất. Để tránh điều đó quản lí tiền vay được tiến hành rất chặt chẽ, đặc biệt là
đối với các món vay lớn, thời hạn dài.
Căn cứ vào các hình thức phân loại khác nhau ta có các hình thức cho vay khác
nhau
+ Căn cứ vào thời hạn cho vay.
- Cho vay không kì hạn : Đây là loại hình cho vay mà khách hàng có thể trả
tiền bất kì thời gian nào họ có tiền mà không bị ràng buộc bởi thời gian.
- Cho vay ngắn hạnbao gồm:
. Cho vay ngắn hạn thông thường : Là loại cho vay có thời hạn ít hơn một
năm như :
Chiết khấu thương phiếuvà các giấy tờ có giá : Đây là nghiệp vụ ít rủi ro và
không làm đóng băng vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay ngắn, điều này
nâng cao tính thanh khoản trong quản lí tài sản có của ngân hàng. Đây chính
là tiền đề để người mua thực hiện được hoạt động kinh doanh của mình và có
khả năng để thanh toán nợ cho ngân hàng. Đồng thời, tất cả những người kí
tên trên thương phiếu đều chịu trách nhiệm liên đới theo qui định của pháp
luật. Như vậy , trách nhiệm thanh toán nợ cho ngân hàng gồm nhiều chủ thể
khác nhau. Hơn nữa , với nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại có thể
tái chiết khấu ở NHTƯ khi gặp khó khăn về vốn để cũng cố, tăng cường năng
lực thanh toán cũng như mở rộng qui mô tín dụng.
Nghiệp vụ chiết khấu mang lại lợi ích cho ngân hàng tuy nhiên vẫn có rủi ro
xảy ra. Vì vậy, trước khi chiết khấu ngân hàng phải nghiên cứu kĩ khách hàng

đến xin chiết khấu, xem xét các thương phiếu, mối liên hệ giữa những người
liên quan đến thương phiếu.
Cho vay cầm cố : Đây là hình thức cho vay trả góp từng phần và vật thế
chấp của người đi vay đối với ngân hàng.Thông thường vật thế chấp là bất
động sản như nhà cửa, đất đai ....Các ngân hàng giám định cẩn thận về tình
hình tài sản và chủ quyền của ó trước khi quyết định cho vay để mua, cũng như
rất quan tâm đến tính ổn định và mức cao hay thấp của thu nhập của người
xin vay nhằm hạn chế rủi ro không trr được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn.
- Cho vay trung dài hạn : Là loại hình tín dụng có kì hạn trên 12 tháng đến 5
năm đối với cho vay trung hạn và trên 5 năm đến hết thời hạn khấu hao tài sản
ccố định đối với cho vay dài hạn.
+ Căn cứ vào thành phần kinh tế
- Cho vay đối với kinh tế quốc doanh
- Cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh
+ Căn cứ vào mục đích cho vay
- Cho vay phát triển sản xuất kinh doanh
- Cho vay tiêu dùng
- Cho vay thanh toán công nợ
+ Căn cứ vào tính chất bảo đảm bao gồm:
- Cho vay có bảo đảm
- Cho vay không có bảo đảm
+ Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
- Cho vay bằng tiền
- Cho vay bằng tài sản
• Hoạt động cho thuê tài chính .
Là hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài
sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng và khách hàng thuê. Trong đó nói rõ
bên cho thuê sẽ mua tài sản và cho bên khách hàng thuê và trong thời hạn thuê
khách hàng phải trả tiền thuê theo thoã thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê
khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều khoản trong

hợp đồng. Trong thời hạn thuê các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp
đồng.
2.3 Hoạt động trung gian
Đây là hoạt động mà ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng,
thông qua đó ngân hàng tăng thêm thu nhập và nâng cao uy tín cho ngân
hàng.
Hoạt động trung gian của ngân hàng bao gồm :
2.3.1 Dịch vụ thanh toán hộ.
Theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng
các phương tiện thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng
nhằm thực hiện thanh toán cho khách hàng, tức là nhận hộ tiền cho người bán,
trả hộ tiền cho người mua thông qua hình thức kế toán trên chứng từ.
2.3.2 Dịch vụ mua bán hộ chứng khoán.
Do có uy tín nên ngân hàng thường tham gia bảo lãnh phát hành chứng
khoán cho các Công ty cổ phần muốn huy động vốn, tư vấn đầu tư chứng
khoán cho khách hàng. Do thị trường chứng khoán Việt Nam mới đi vào hoạt
động nên thị trường chưa sôi nổi. Các hoạt động bảo lãnh phát hành, tư vấn
đầu tư ...chủ yếu là do công ty chứng khoán đảm nhiệm mà không có sự tham
gia của các ngân hàng trong lĩnh vực đó.
2.3.3 Dịch vụ mua bán ngoại tệ.
Ngân hàng thương mại tham gia trên thị trường ngoại hối để đáp ứng
nhu cầu chi trả thanh toán ngoại tệ của khách hàng.
Ngoài ra ngân hàng còn có các dịch vụ như bảo quản tài sản quỹ, cho
thuê két sắt. Ở nước ta hiện nay hoạt động trung gian vẫn chưa phát triển
mạnh vì nền kinh tế còn phát triển chậm.
Có thể nói, các hoạt động của ngân hàng đều rất quan trọng và liên quan
chặt chẽ với nhau. Hoạt động huy động vốn là tiền đề tạo nguồn vốn tích luỹ
cho hoạt động sử dụng vốn. Ngược lại hoạt động sử dụng vốn thực hiện có hiệu
quả mới thúc đẩy hoạt động hoạt động huy động vốn phát triển. Hoạt động tín
dụng và đầu tư đem lại thu nhập chính cho ngân hàng còn các hoạt động khác

nâng cao uy tín và thu hút thêm khách hàng tạo điều kiện mở rộng hoạt động
thu hút tiền gửi và kinh doanh của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, nghiệp
vụ tín dụng vẫn là quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng.
3. Vai trò của ngân hàng thương mại.
Vai trò của ngân hàng thương mại được thẻ hiện ở hai khía cạnh :
3.1 Vai trò thực thi chính sách tiền tệ.
Ta biết rằng hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn liền
với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể
kinh tế. Trong quá trình hoạt động đó, ngân hàng thương mại thực hiện vai trò
tham gia điều tiết kinh tế vi mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng
của mình, biểu hiện các mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại với các tổ
chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền mặt, thanh toán... đảm bảo hoạt
động của ngân hàng và nền kinh tế được bình thường.
Bằng chính sách và những biện pháp tín dụng ngân hàng thương mại
đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung kịp thời cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp thuộc các lĩnh vực sản xuất, lưu thông và dịch vụ. Ngân hàng thương
mại có thể gia tăng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và từng doanh nghiệp,
hoặc có thể thực hiện quan hệ tín dụng đối với doanh nghiệp trong từng
trường hợp cần thiết. Tất cả những vấn đề đó đều liên quan, ảnh hưởng đến
kết quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, việc sử dụngvốn vay ngân
hàng vừa giúp cho doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu vốn bị thiếu hụt trong kinh
doanh, vừa ý thức cho doanh nghiệp về trách nhiệm của mình trong quá trình
sử dụng vốn. Từ đó giúp cho doanh nghiệp có những lựa chọn, những quyết
dịnh của mình trong việc sử dụng vốn vay ngân hàng mở rộng hoặc thu hẹp
qui mô kinh doanh hiện có .
Vai trò điều tiết kinh tế vi mô của ngân hàng thương mại được thể hiện
qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ nền kinh tế vào NHTM cũng
như cung ứng tiền mặt theo nhu cầu của khách hàng. Quá trình thu nhận và
cung ứng khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đã tạo ra quan hệ lưu thông

hàng hoá và lưu thông tiền tệ trong khu vực. Khối lượng tiền mặt trong nền
kinh tế đi qua quỹ nghiệp vụ NHTM là những công cụ tác động trực tiếp vào
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế ảnh hưởng đến
đời sống của các tầng lớp dân cư.
Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ,
NHTM còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác trong nền kinh tế. Đây là dịch
vụ trung gian tạo cho ngân hàng thương mại những nguồn lợi đáng kể góp
phần tăng thêm các khoản thu nhập cho ngân hàng, đồng thời cũng tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển toàn diện và thoã mãn các yêu
cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế.
Như vậy, với vai trò thực thi chính sách tiền tệ, điều tiết kinh tế vi mô
ngân hàng đã xâm nhập vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, cá nhân, các lĩnh vực khác của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín
dụng, thanh toán.
3.2 Góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức năng tạo tiền của
ngân hàng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô thuộc về
NHTƯ. NHTƯ thực hiện chức năng này thông qua việc xây dựng chiến lược
phát triển kinh tế xã hội và chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là loại công cụ chính sách can thiệp bằng kinh tế, dựa trên
bản thân cơ chế thị trường và các quy luật vận động của nó. Nhưng NHTƯ
không trực tiếp giao dịch với công chúng, do đó phải dựa vào thông tin phản
hồi từ các định chế tài chính trung gianđể soạn thảo chính sách tiền tệ. Như
vậy, rõ ràng là nếu không có hệ thống NHTM hoàn chỉnh , không có thông tin
phản hồi do NHTM cung cấp thì việc hoạch định chiến lượcvà soạn thảo chính
sách tiền tệ của NHTƯ sẽ không hoàn hảo. Chính sách tiền tệ được thiết kế và
khởi động từ NHTƯ lan ra đến mợi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt
động dây chuyền của NHTM và các tổ chức tài chính trong nước. Như vậy, nếu
không có sự chấp hành của hệ thống NHTM thi ý đồ chính sách tiền tệ của
NHTƯ không thực hiện được.

Do phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp nên có hai loại tiền.
Tiền trung ương là loại tiền do NHTƯ độc quyền phát hành, tiền ngân hàng là
loại tiền do NHTM tạo ra qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. Nó được mở
rộng gấp nhiều lần thông qua hệ số tạo tiền. Như vậy, bằng việc tạo tiền gắn
liền chặt chẽ với công cụ quản lí vĩ mô của NHTƯ trong khi thực hiện hoạt
động kinh doanh của mình NHTM đã thể hiện vai trò trong việc góp phần vào
hoạt động điều tiết vĩ mô của NHTƯ .
II Tín dụng trung, dài hạn của NHTM trong nền kinh tế thị trường.
1 Khái niệm
Tín dụng được định nghĩa là một quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc
hoàn trả và có lãi. Qua định nghĩa ta có thể thấy rằng : trong quan hệ tín dụng
người cho vay chỉ nhường quyền sử dụng cho người đi vay, sau một thời gian
nhất định theo thoã thuận, người đi vay sẽ hoàn trả lại cho người cho vay. Sự
hoàn trả này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà vốn tín dụng còn được
tăng thêm dưới hình thức lợi tức.Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn về
vốn giữa ngân hàng với các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và các tổ
chức tín dụng khác theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Tín dụng trung, dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng được
phân theo thời hạn. Tín dụng trung, dài hạn là những khoản cho vay có thời
hạn trên một năm và thời gian cho vay không quá thời gian khấu hao của tài
sản hình thành từ vốn vay. Tuỳ theo từng quốc gia mà quy định cụ thể về thời
hạn của tín dụng trung, dài hạn sẽ khác nhau. Ở Việt Nam một khoản cho vay
có thời hạn từ 1 dến 5 năm được coi là trung hạn và khoản vay được coi là dài
hạn nếu có thời gian từ 5 năm trở lên.
Tín dụng trung hạn thường được người vay sử dụng dể mua sắm tài sản
cố định, cải tiến đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc
xây dựng các công trình mới nhưng có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh. Còn tín dụng dài hạn thường để đầu tư vào việc nhập khẩu dây chuyền
sản xuất hiện đại, xây dựng các công trình có qui mô lớn, thời gian hoạt động
dài.

Hiện nay tín dụng trung, dài hạn không chỉ đơn thuần là việc phát tiền vay
với thời hạn trên 1 năm mà nó còn được thể hiện dưới nhiều hình thức. Cụ thể
như sau :
+ Cho vay theo kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của doanh nghiệp . Đây là
loại cho vay được thực hiện theo phương pháp cho vay thông thường dựa trên
cơ sở nhu cầu vốn của từng công trình, hạng mục công trình được xác định
trong kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản của mỗi doanh nghiệp .
+ Cho vay theo dự án là một phương pháp cho vay dựa trên một văn bản hoàn
chỉnh về vay vốn và trả nợ được nghiên cứu soạn thảo xét duyệt, kí kết giữa
người đi vay và ngân hàng, đồng thời dựa trên những căn cứ khoa học kĩ thuật
phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
+ Tín dụng tuần hoàn : là phương thức cho vay dựa vào chu kì sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nó được coi là tín dụng trung, dài hạn khi thời hạn
của hợp đồng kéo dài từ 1 đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và
được trả nợ khi có nguồn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực. Tín dụng tuần
hoàn có thể chuyển thành tín dụng trung, dài hạn theo hợp đồng kí kết nếu
người vay thấy cần thiết vì tình trạng tài chính không sẳn sàng để thực hiện tín
dụng tuần hoàn.
+Tín dụng thuê mua : là hình thức cho vay tín dụng trung, dài hạn bằng tài
sản thông qua một hợp đồng tín dụng thuê mua. Sau một thời gian thuê nhất
định tuỳ theo thoã thuận của hợp đồng, người đi thuê có thể mua lại tài sản đó.
2. Đặc điểm của tín dụng trung, dài hạn .
2 Hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thường có các đặc điểm
sau:
3 Rủi ro lớn
Nền kinh tế luôn chứa đựng những biến động lớn không thể lường trước
được. Những biến động đó có thể là tích cực hay tiêu cực. Chính vì vậy các
khoản tiền cho vay tín dụng trung, dài hạn luôn có độ rủi ro cao hơn khoản cho
vay ngắn hạn tương ứng.
Lãi suất cao

Lãi suất cho vay trung , dài hạn bao giờ cũng cao hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn như thế nó mới bù đắp nổi những rủi ro cao có thể xảy ra.
3. Mục đích, đối tượng, điều kiện cho vay tín dụng trung, dài hạn.
Cho vay tín dụng trung, dài hạn là loại hình tín dụng có thời hạn trên 12
tháng đến 5 năm đối với cho vay trung hạn và cho vay trên 5 năm đến hết thời
gian khấu hao tài sản đối với cho vay dài hạn. Tín dụng trung, dài hạn có vai
trò rất lớn trong việc đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các dự án
kinh doanh của các doanh nghiệp. Đây là nguồn động lực tiềm năng đối với
chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo địng hướng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nước.
- Mục đích của tín dụng trung, dài hạn là để đầu tư mở rộng sản xuất mua
sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới dây chuyền công nghệ... tức
là những dự án chưa thể sinh lời trong thời gian ngắn, trong khi mục đích của
vay ngắn hạn là phục vụ chi tiêu, mua nguyên vật liệu, trả lương, bổ sung vốn
lưu động... điều đó có nghĩa là để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngắn hạn.
Ngoài ra tín dụng trung, dài hạn giúp các doanh nghiệp tăng cường cơ sở vật
chất kĩ thuật, nâng cao năng lực cạnh tranh trên cơ sở tăng năng suất lao
động, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Đối tượng của tín dụng trung, dài hạn là các chi phí cấu thành trong tổng
mức đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục ,đổi mới kĩ thuật, ứng
dụng khoa học và công nghệ nó bao gồm : giá trị vật tư, máy móc, thiết bị ,
công nghệ chuyển giao sáng chế và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và
chuyển nhượng đất đai, giá thuê các tài sản khác trong khuôn khổ luật định,
chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư , chi phí khác.
- Điều kiện cho vay trung ,dài hạn.
. Bên cho vay phải có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân có đủ năng lực hành vi
và năng lực pháp luật, hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ theo đúng
ngành nghề ghi trong giấy phép kinh doanh và quy định của pháp luật Việt
Nam.
. Sản xuất kinh doanh phải có lãi, có như thế các doanh nghiệp mới có đủ khả

năng trả lãi cho ngân hàng và thu lợi nhuận.
. Dự án đầu tư trung, dài hạn phải có tính khả thi và các điều kiện kèm theo
đối với những dự án bắt buộc như : xây dựng cơ bản phải có giấy xác nhận
quyền sử dụng đất có thiết kế xây dựng cơ bản được cơ quan Nhà nước phê
duyệt, đối với những ngành nghề ảnh hưởng đến đời sống xã hội phải có giấy
phép của cơ quan quản lí môi trường.
. Phải có vốn tự có đầu tư cho dự án theo mức cụ thể do giám đốc tổ chức tín
dụng qui định theo các đối tượng của dự án .
. Phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bão lãnh của người thứ ba theo quy chế
thế chấp, cầm cố bảo lãnh của thống đốc ngân hàng Nhà nước.
. Phải mua bảo hiểm cho tài sản hình thành bằng vốn vay tại một Công ty bảo
hiểm được phép hoạt động hợp pháp ở Việt Nam, nếu tài sản dó quy định phải
mua bảo hiểm và cam kết số tiền được bồi thường khi gặp rủi ro sẽ dùng trả
nợ cho tổ chức tín dụng. Các trường hợp không phải mua bảo hiểm do giám
đốc tổ chức tín dụng qui định.
. Tổ chức hạch toán, kế toán và quản lí tài chính theo đúng pháp luật kế toán,
thống kê và điều lệ của tổ chức tín dụng.
. Chấp nhận điều lệ quản lí đầu tư xây dựng của Nhà nước, quy định của thể lệ
cho vay trung , dài hạn.
. Đối với bên vay là pháp nhân, ngoài những điều kiện qu định trên còn phải có
thời gian hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoạc giấy phép thành
lập phù hợp với thời gian cho vay trung, dài hạn.
4. Nguyên tắc của tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng đúng nghĩa như Các Mác đã chỉ ra xưa nay, khoa học kinh tế
dưới nhiều phương thức sản xuất khác nhau đã cùng đúc kết, xác lập thành
một số nguyên tắc:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích có hiệu quả.
- Vốn vay phải được bảo đảm bằng vật tư hàng hoá tương đương.
- Vốn vay phải đượchoàn trả cả gốc và lãi đúng kì hạn cam kết.
- Quan hệ tín dụng được thực hiện trên cơ sở thoã thuận giữa bên cho

vay và bên vay theo chế độ hợp đồng kinh tế trong khuôn khổ pháp
luật và thể lệ tín dụng trung, dài hạn.
Rõ ràng 3 nguyên tắc tín dụng đầu hình thành như một quy luật phát
triển nội tại của tín dụng, là “ điều luật” bất khả xâm phạm, tước bỏ, tách rời
trong quan hệ tín dụng. Thực tế cho thấy, một khi cả 3 nguyên tắc hoặc một
trong 3 nguyên tắc bị coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này, tuỳ tiện với
nguyên tắc kia, thì sớm muộn đều dẫn đến phá vỡ quan hệ tín dụng, tín dụng
sẽ tiêu tan dần vai trò, tác dụng của nó, nó sẽ là vật cản kìm hãm hoặc đẩy lùi
sự phát triển của nền kinh tế.
+ Mức cho vay đối với một dự án đầu tư của bên vay bằng tổng mức vốn đầu
tư của dự án trừ đi vốn tự có đầu tư cho dự án của bên vay ( mức vốn tự có
tối thiểu bắt buộc theo qui định của giám đốc tổ chức tín dụng) nhưng tối đa
không quá 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, bão lãnh.
Ví dụ tại NHCT Việt Nam qui định mức vốn tự có của chủ đầu tư tham gia dự
án :
Vốn tự có tối thiểu 40% giá tri công trình đối với cho vay, xây dựng mới.
Vốn tự có tối thiểu 30% cho các đối tượng mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới
công nghệ.
Vốn tự có tối thiểu 15% giá trị công trình đối với cho vay cải tiến kĩ thuật mở
rộng sản xuất .
Ngân hàng yêu cầu chủ đầu tư phải có vốn tự có tham gia dự án để tăng
cường trách nhiệm, ràng buộc của chủ đầu tư đối với dự án và phân tán rủi ro

×