THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG ĐỐNG ĐA
I. Khái quát tín dụng trung, dài hạn ở các NHTM Việt Nam .
Hiện nay nước ta có trên 6000 doanh nghiệp Nhà nước và tên 22000
doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động da dạng trên mọi ngành nghề. Tuy
chưa có con số thống kê chính xác song đa số tài sản cố định của các doanh
nghiệp này là lạc hậu, không đồng bộ và cần phải thay thế. Nhu cầu vốn cho
đầu tư thay thế và đầu tư mới là rất lớn, một phần huy động từ ngân sách
Nhà nước ( đối với doanh nghiệp Nhà nước ), một phần huy động, một phần
liên doanh và phần lớn là từ tín dụng ngân hàng. Viện nghiên cứu quản lí kinh
tế TW cho biết năm 1995 có 65% số doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng,
trong đó hơn 2/3 là vốn ngắn hạn. Cho đến nay, tuy số doanh nghiệp được vay
vốn ngân hàng tăng lên song tỉ lệ cho vay tín dụng trung, dài hạn trên tổng
doanh số cho vay kông những không được cải tiến mà thậm chí còn giảm đi.
Hiện nay tỉ lệ dư nợ cho vay tín dụng trung, dài hạn trên tổng dư nợ của các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam trung bình là 10%, là một tỉ lệ quá thấp và
ở các ngân hàng thương mại cổ phần con số này còn thấp hơn nữa. Nguyên
nhân là do hình thức huy động và cho vay tín dụng trung, dài hạn ở nước ta
còn nghèo nàn chưa hấp dẫn. Hình thức nghèo nàn thể hiện ở chỗ ngân hàng
chỉ cấp tín dụng theo cách rất truyền thống là đợi khách hàng đến xin vay và
sau khi thẩm định nếu đạt yêu cầu thì phát vốn, ngân hàng chưa chủ động tìm
đến với doanh nghiệp , các loại hình như tín dụng thuê mua, đồng tài trợ là rất
ít.
Nguyên nhân tiếp theo là vấn đề về trình độ. Về phía ngân hàng chưa có
đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ để thẩm định dự án đầu tư nhanh chóng
chính xác. Thẩm định dự án đầu tư là khâu quan trọng của quá trình cho vay
trung, dài hạn nó qquyết định có nên cho vay hay không cho vay và cả chất
lượng của món vay đó. Do đó, để tín dụng có chất lượng thực sự, thì cần phải
đặc biệt quan tâm đến số lượng và của đội ngũ cán bộ tín dụng. Loại trừ số
cácông nghiệp hoá - hiện đại hoá bộ thoái hoá, biến chất đã tiếp tay thông
đồng với bên ngoài gây tổn thất cho bản htân tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Ngược lại nếu tất cả đều tốt, đều giỏi mà với số lượng cán bộ tín dụng thiếu
như hiện nay, ở nông thôn một cán bộ tín dụng phục vụ gần 400 hộ nông dân,
ở đô thị có cán bộ tín dụng theo dõi trên chục doanh nghiệp lớn nhỏ. Như vậy
chất lượng tín dụng sẽ như thế nào ? . Quan điểm cắt giảm hoặc tiết kiệm biên
chế cán bộ tín dụng được một số quan chức ngân hàng không tán thành. Bởi
nếu ta làm phép so sánh số vốn hàng chục, hàng trăm tỉ đã và đang mất và
không thể thu hồi được chỉ vì số lượng và chất lượng cán bộ hiện có đang bất
lực, bất cập không thể nào đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên “
kinh doanh cái rủi ro” này thì hẳn sẽ thấy ra vấn đề sao không dùng số tiền đó
hoặc một phần số tiền đó mà tăng cường đội ngũ cán bộ tín dụng có đủ phẩm
chất, tài năng để quản lí, giám sát tín dụng chặt chẽ hơn, bớt nguy cơ mất vốn.
Xét cho cùng đây là vấn đề yếu tố con người cần phải đào tạo công phu, bố trí
đầy đủ không htể tiết kiệm được. Từ quan điểm rất duy vật biện chứng “ tham
đĩa, bỏ mâm” trong kinh doanh tiền tệ , trong hoạt động tín dụng .
Bên cạnh đó về phía doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp chưa có dự án
tầm chiến lược để phát triển sản xuất kinh doanh hoặc có những doanh nghiệp
mới thành lập, sản phẩm sản xuất ra chưa có tính cạnh tranh cao, khó khăn
trong khâu tiêu thụ. Những khó khăn đó làm hạn chế nhiều khả năng hấp thụ
vốn của ngân hàng kể cả vốn trung, dài hạn . Điều đó xảy ra nghích lí là ngân
hàng ứ đọng vốn trong khi dó các doanh nghiệp khát vốn. Các ngân hàng cho
rằng chính những đồng vốn huy động của họ không có “đất để dụng võ”. Một
minh chứng rất cụ thể là NHNN dự định cho phép các ngân hàng quốc doanh
trích từ nguồn vốn ngắn hạn khoảng 5000 tỉ đồng để cho vay trung, dài hạn.
Song đến quí IV năm 1996 chỉ cho vay được trên 1000 tỉ đồng.
Nhìn chung hoạt động cho vay trung, dài hạn hiện nay rất hạn chế, chưa
có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách cần thiết. Vì vậy trong
thời gian tới phải có các biện pháp cần thiết để cải tiến tình hình này.
II. Giới thiệu chung về ngân hàng công thương Đống Đa .
1. Quá trình hình thành và phát triển .
Ngân hàng công thương Đống Đa được thành lập từ thág 7/ 1998 theo
nghị định số 53 / HĐBT chyển từ NHNN quận Đống Đa thành ngân hàng công
thương Đống Đa trực thuộc ngân hàng công thương thành phố Hà Nội. Từ
tháng 4/1993 thực hiện một bước đổi mới công tác tổ chức, ngân hàng công
thương quận Đống Đa thành ngân hàng công thương khu vực Đống Đa trực
thuộc ngân hàng công thương Việt Nam – một trong 4 ngân hàng thương mại
quốc doanh lớn nhất trong cả nước, có nhiệm vụ hoạt động kinh doanh tiền tệ
tín dụng theo pháp lệnh ngân hàng. Từ khi mới thành lập, ngân hàng công
thương Đống Đa đã gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, mô
hình tổ chức cũng như trình độ cán bộ chưa cao... nhưng trong quá trình hoạt
động của mình ngân hàng công thương Đống Đa luôn bám sát thực hiện định
hướng kinh doanh tín dụng , dịch vụ ngân hàng trong cơ chế thị trường có
hiệu quả cao, an toàn vừa góp phần tăng trưởng kinh tế và chính sách tiền tệ
của Nhà nước.
Ngân hàng công thương Đống Đa có trụ sở tại 187 Tây Sơn và các chi
nhánh khác là phòng giao dịch Kim Liên, Cát Linh và gần 20 quỹ tiết kiệm thực
hiên sự chỉ đạo điều hành tập trung của ngân hàng công thương Đống Đa .
+ Địa bàn hoạt động .
Đến năm 1998 ngân hàng công thương Đống Đa hoạt động trên hai địa
bàn cơ bản là quận Đống Đa và quận Thanh Xuân. Quận Đống Đa là nơi tập
trung đông dân cư, các công ty , tổ hợp sản xuất, các hộ công thương ... Do đó ,
khách hàng của ngân hàng rất đa dạng. Với địa bàn rộng, khách hàng đa đạng
ngân hàng công thương Đống Đa đã có lợi thế rất lớn trong việc tạo ra mối
quan hệ thường xuyên với khách hàng.
+ Đội ngũ cán bộ.
Ngân hàng có độingũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có năng lực và
nhiệt tình công tác. Ýthức được tầm quan trọng của trình độ cán bộ đối với sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng, ban giám đốc của ngân hàng đã rất chú
trọng đến công tác đào tạo cán bộ. Thời kì trước khi chưa có sự chia cắt ngân
hàng công thương Thanh Xuân thì ngân hàng công thương Đống Đa có 351
cán bộ công nhân viên, hiện nay con số đó là 275. Trong vòng 10 năm đã có 1
tiến sĩ, 8 thạc sĩ ,125 cán bộ hoàn thành chương trình đại học và đại học tại
chức, 40% cán bbọ tín dụng nghiệp vụ tín dụng, kế toán đạt trình độ C Anh văn,
60% cán bộ sử dụng thành thạo máy vi tính. Đội ngũ cán bộ có kimh nghiệm
này là một lợi thế lớn của ngân hàng công thương Đống Đa.
Bên cạnh những thuận lợi đó, ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn,
khó khăn trước tiên là hiện nay địa bàn hoạt động của ngân hàng bị thu hẹp
một cách đáng kể. Từ ngày 1/3/1999 ngân hàng đã thực hiện tách 1/3 quân số
để thành lập ngân hàng công thương Thanh Xuân bắt đầu đi vào hoạt động
như một chi nhánh ngân hàng cấp II trực thuộc ngân hàng công thương Việt
Nam .
Cùng với sự chia tách này là sự san sẽ khách hàng, điều này ảnh hưởng
rõ rệt tới kết quả kinh doanh của ngân hàng vì Thanh Xuân tuy là quận mới
thành lập nhưng dân cư đông và có nhiều doanh nghiệp lớn .
Một khó khăn khác vẫn tồn tại từ trước của ngân hàng là trên địa bàn
hoạt động ngân hàng không có nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu. Chính vì điều đó mà việc cho vay khối công tác xuất khẩu thấp, và chủ
yếu diễn ra đối với khối nội địa.
Thêm vào đó tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa
bàn gặp khó khăn cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp chính là sự tồn tại và
phát triển cho ngân hàng, vì vậy khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì hoạt động
ngân hàng không suôn sẽ là điều không tránh khỏi. Nhiều doanh nghiệp là
khách quen của ngân hàng trước đây đã từng sản xuất kinh doanh có hiệu quả
thì nay cũng bị đình đốn. Đặc biệt là đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh,
tệ nạn lừa đảo, trốn nợ là mối đe doạ thường xuyên đối với ngân hàng khiến
cho ngân hàng ngày càng thận trọng trong quan hệ với thành phần này nói
riêng và công tác tín dụng nói chung nhất là tín dụng trung, dài hạn để nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn và đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng .
2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng công thương Đống Đa .
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương Đống Đa đã liên tục
phát triển trong những năm qua. Điều này thể hiện rõ qua các chỉ tiêu về huy
động vốn, cho vay và lợi nhuận.
2.1 Hoạt động huy động vốn.
Tình hình huy động vốn của ngân hàng công thương Đống Đa được thể
hiện ở bảng sau :
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của ngân hàng công thương Đống Đa
từ năm 1997 - 2001
Nguồn vốn 1997 1998 1999 2000 2001
Tỉ % Tỉ % Tỉ % Tỉ % Tỉ %
1. Tiền gửi tiết
kiệm
760 79.9 970 70.5 1180 82.5 120
0
64.8 1230 61.2
- Không kì hạn 35 3.7 20 1.5 14 1 20 1.1 25 1.2
- Có kì hạn 725 76.2 950 69 1166 81.5 118
0
63.7 1205 60
2.Tiền gửi TCKT 180 18.9 350 25.5 245 17.1 650 35.2 750 37.3
3. Kì phiếu 11 1.8 55 4 4.5 0.4 - - 30 1.5
Tổng 951 100 137
5
100 1429.5 100 185
0
100 2010 100
Nguồn : Phòng tổng hợp
Bảng số liệu đã mô tả kết quả huy động của ngân hàng công thương
Đống Đa từ năm 1997 đến năm 2001. Như vậy, tổng nguồn mà ngân hàng huy
động được không ngừng tăng lên.
Năm 1997, tiền gửi tiết kiệm chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn vốn
79.9%, trong đó chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm có kì hạn chiếm 76.2%. Tiền gửi
tổ chức kinh tế chiếm tỉ trọng nhỏ 18.9% và đặc biệt kì phiếu chỉ chiếm 1.8%.
Năm 1998, do ngân hàng tăng lượng phát hành kì phiếu lên tới 55 tỉ,
chiếm 4% tăng hơn so với năm 1997 là 44 tỉ. Thêm vào đó, tiền gửi của các tổ
chức kinh tế tăng đáng kể tăng 170 tỉ so với năm1997, chiếm 25.5% trong tổng
nguồn. Đây là môt sự tăng trưởng đột biến trong tổng nguồn của năm 1998 so
với năm 1997. Nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng này trước hết là do ngân
hàng đã chuyển đổi, cải tiến phương thức huy động, sự nổ lực của cán bộ ngân
hàng. Nhưng nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp là do tác động của nền kinh tế,
đó là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á, tốc độ
tăng trưởng kinh tế chững lại, sức mua thị trường giảm sút, khả năng hấp thụ
vốn suy giảm và việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn đã tác động không nhỏ đến tốc độ chu chuyển vốn
trong nền kinh tế. Vì thế các nhà sản xuất thu hẹp sản xuất và tìm cách bảo
đảm an toàn cho đồng vốn của mình bằng cách gửi tiền vào ngân hàng.
Năm 1999, nền kinh tế nước ta vẫn đang chịu sự ảnh hưởng của tình
trạng trên. Tuy nhiên, số dư tiền gửi ở ngân hàng công thương Đống Đa vẫn
tăng so với đầu năm là 9.5% mặc dù NHTƯ đã nhiều lần giảm lãi suất tiền gửi.
Với mục tiêu “ tăng trưỏng, hiệu quả, an toàn vốn”, ngân hàng công thương
Đống Đa đã đẩy mạnh công tác huy động vốn tăng thêm 60 tài khoản tiền gửi .
Với 14 quĩ tiết kiệm, cùng với thái độ nhiệt tình, thủ tục nhanh gọn, thuận lợi
ngày càng thu hút nhiều khách hàng đến giao dịch. Trong tổng nguồn vốn huy
động được năm 1999, tiền gửi VND đạt 1.156tỉ, tiền gửi ngoại tệ 265 tỉ. Năm
1999 có tỉ lệ tiền gửi cao nhất, chiếm 82.5% trong tổng nguồn vốn. Trong khi
đó lượng vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và kì phiếu giảm đi đáng kể.
Tính đến 31/12/2000 tổng nguồn vốn huy động đạt 1850 tỉ, tăng 420.5
tỉ so với năm 1999, tốc độ tăng trưởng 29.8%, so với kế hoạch tăng 7.5%.
Trong năm 2000 lượng tiền gửi của tổ chức kinh tế tăng lên một lượng rất
lớn, do vậy đã có sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn có lợi thế cho hoạt động kinh
doanh. Nguồn vốn và sử dụng vốn tăng lên đáng kể, nhưng nguồn vốn mới sử
dụng hết 54.5% số vốn, trừ tỉ lệ kí quỹ còn lại được chuyển về ngân hàng công
thương Việt Nam điều hoà vốn . Mặt khác, tiền gửi tiết kiệm phần lớn là tiền
gửi có kì hạn la cao nên rất bất lợi trong kinh doanh tiền tệ cho ngân hàng,
nhất là trong điều kiện cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Công tác huy động vốn năm 2000 có thể coi là rất thắng lợi vượt trội so
với những năm trước cả về tổng nguồn vốn và cơ cấu. Có được những thắng
lợi đó là do :
. Mạng lưới huy động tiền gửi của dân cư được mở rộng, có 14 quĩ tiết kiệm
trên địa bàn đông dân cư, có nhiều quĩ đạt số dư từ 100 tỉ đến 150 tỉ. Mặc dù
lưu lượng khách hàng rất đông nhưng các quỹ vẫn đảm bảo thu chi kịp thời
chính xác.
. Tổ chức thu lưu động ở các đơn vị có tiền mặt như thường xuyên có một tổ
thu tiền mặt tại xí nghiệp bán lẻ xăng dầu ... tổ chức thu nhận tiền mặt vào
ngày nghỉ thứ 7 cho các đơn vị có nguồn tiền mặt lớn, tạo được tâm lí yên tâm
và tin tưởng khi gửi tiền vào ngân hàng .
Trong năm 2001, lượng tiền gửi tiết kiệm tăng không đáng kể (30tỉ
đồng) tương ứng với số tương đối là 2.5%. Cũng trong năm 2001, tổng nguồn
vốn huy động được bằng VND chỉ tăng 7.1% ( tương ứng với 100 tỉ đồng ),
trong khi đó tổng vốn huy động được bằng ngoại tệ tăng 13.3%(tương ứng với
60tỉ đồng). Có nhiều cách để giải thích cho hiện tượng này. Có thể là do trong
năm 2001, nền kinh tế thế giới có những dấu hiệu suy giảm. Ngay cả nền kinh
tế của một nước được coi là ổn định và mạnh nhất thế giới là nền kinh tế Mĩ
cũng rơi vào tình trạng tương tự, thể hiện ở chỗ cục dữ trữ liên bang Mĩ liên
tục 6 lần cắt giảm lãi suất. Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử nước Mĩ.
Điều này đã có tác động lớn đến nèn kinh tế các nước trên thế giới trong đó có
Việt Nam và do đó, ảnh hưởng tới nhiều mặt trong nền kinh tế. Sau sự kện
11/9 tại Mĩ kinh tế thế giới lại càng có nhiều biến động bất lợi. Thêm vào đó
trong nước cũng có những thông tin về sáp nhập hệ thống ngân hàng làm cho
người dân có tâm lí e dè, lo ngại đồng nội tệ không giữ được giá trị của nó. Do
đó, họ tháo chạy khỏi đồng nội tệ và đổi sang ngoại tệ để gửi tiết kiệm, làm
xuất hiện tình trạng đôla hoá trong nền kinh tế. Giá đôla liên tục tăng. Mặc dù
NHNN Việt Nam cũng đã có biện pháp cắt giảm lãi suất đồng ngoại tệ nhưng
tình trạng này vẫn diễn ra cho đến dầu năm 2002 mới lắng xuống.
Nếu như tiền gửi tiết kiệm chỉ tăng 2.5% thì tiền gửi của các tổ chức
kinh tế lại tăng 15.4% tương ứng với 100tỉ đồng. Nguyên nhân cũng là do các
doanh nghiệp thu hẹp sản xuất do điều kiện thị trường không thuận lợi. Do
đó , lượng tiền nhàn rỗi đã được gửi vào ngân hàng làm cho lượng vốn huy
động từ các tổ chức kinh tế tăng lên đáng kể.
Qua những phân tích các số liệu về nguồn vốn huy động của ngân hàng
từ 1997 đến 2001 cho thấy đặc điểm nổi bật trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng là lượng tiền gửi của dân cư rất lớn ( chiếm từ 64.8 đến 82.5%). Trong
đó phần lớn là tiền gửi có kì hạn ( chiếm từ 63.7 đến 81.5% ). Đặc điểm của
nguồn này là tính ổn định cao. Do đó, mở ra cho ngân hàng một lợi thế trong
việc sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn theo tỉ lệ
qui định. Tuy nhiên, đây là nguồn phải trả lãi cao nhất, vì vậy chi phí huy động
của ngân hàng công thương Đống Đa là khá cao. Để khắc phục bất lợi này,
ngân hàng không thể không dùng biện pháp giảm qui mô tiền gửi tiết kiệm
trong khi nhu cầu gửi tiết kiệm của dân cư đang tăng. Vấn đề cần thiết ở đây là
ngân hàng phải tìm cách sử dụng nguồn này có hiệu quả để bù đắp vào phần
chi phí này.
Khác với nguồn tiền tiết kiệm, tiền gửi của tổ chức kinh tế chiếm tỉ
trọng thấp. Mặc dù năm 2000 và 2001 tỉ trọng này đã tăng đáng kể nhưng vẫn
thấp hơn tiền gửi tiết kiệm rất nhiều. Nguồn này không có tính ổn định cao
nhưng chi phí rẻ.
Sở dĩ lượng tiền gửi của tổ chức kinh tế tới ngân hàng thấp cũng là do
những đặc điểm về đại bàn hoạt động của ngân hàng. Các tổ chức trên địa bàn
quận Đống Đa chủ yếu là sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp.Do
vậy, tiền gửi doanh nghiệp nhỏ vì các đơn vị sản xuất công nghiệp chu chuyển
tiền chậm, lượng vốn chu chuyển trong công nghiệp không lớn bằng trong
thương nghiệp. Hơn nữa, việc thanh toán trong công nghiệp thường thực hiện
vào cuối năm nên lượng tiền gửi vào ngân hàng cũng không đều trong cả
năm.
Tỉ trọng huy động bằng kì phiếu ngày càng giảm. Vì ngân hàng không có
nhu cầu do vốn huy động từ tiền gửi dân cư rất lớn và vốn còn tồn đọng do chỉ
sử dụng hết khoảng 50 – 60% .
Nhìn chung, hoạt động huy động vốn của ngân hàng công thương Đống
Đa là khá tốt, tạo ra một nguồn dồi dào để ngân hàng có thể cung cấp tín dụng
cho nền kinh tế .
2.2 Hoạt động sử dụng vốn.
Song song với hoạt động huy động vốn là hoạt động sử dụng vốn mà chủ
yếu là cho vay. Chủ trương của ngân hàng công thương Đống Đa là cho vay cả
năm thành phần kinh tế. Ngân hàng công thương Đống Đa cho vay đối với
toàn bộ các ngành sản xuất, cho vay các cán bộ, công nhân viên để tăng nhu
cầu sinh hoạt. Ngân hàng cho vay theo dự án kí kết giữa hai bên và cho vay
nước ngoài. Ngoài ra, ngân hàng còn đầu tư vốn tín dụng vào các loại hình
kinh tế xã hội khác như đầu tư cho vay công ty , tu bổ di tích thiết bị văn hoá,
cho vay sinh viên... mang ý nghĩa to lớn như giải quyết việc làm, tạo nguồn
nhân lực cho đất nước. Trong năm 1999, ngân hàng đã tăng cường quan hệ
tín dụng với khách hàng, đặc biệt là đối với khách hàng truyền thống như các
khách hàng thuộc các tổng công ty 90, 91. Đây là những đơn vị có dự án lớn
khả thi được ngân hàng đầu tư có hiệu quả cao như : công ty dược phẩm TWI,
công ty cao su sao vàng, công ty cơ khí, công ty công trình xây dựng đường
thuỷ... Ngoài số vốn ngắn hạn đầu tư cho các đơn vị nói trên, ngân hàng còn ưu
tiên đầu tư vốn trung, dài hạn cho một số dự án. Dự án dây chuyền thiết bị sản
xuất dây cáp động lực và dây chuyền sản xuất thanh đồng dẹt của công ty cơ
điện Trần Phú. Dự án mua 20 côngtennơ Tex và đầu tư vận chuyển khí
amoniac hoá lỏng của công ty vận trung ương. Dự án mua tàu biển có trọng
tải lớn chở hàng quốc tế của công ty vận tải thuỷ bắc. Những dự án trên được
ngân hàng đầu tư đã góp phần tăng trưởng dư nợ lành mạnh mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp, tạo việc làm cho hàng vạn lao động.
Năm 2000 thực hiện theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đề ra, tỉ trong đầu tư trung, dài hạn tại ngân hàng chiếm 39% tổng dư nợ,
tăng so với cùng kì năm trước là 20%. Trong đó đầu tư cho công ty bóng đèn
phích nước Rạng Đông để đổi mới dây chuyền công nghệ là 36 tỉ đồng, kí hợp
đồg với công ty bưu chính viễn thông... Ngoài ra ngân hàng còn cho vay hiệu
quả các chườn trình VIệt Đức, chương trình Đài Loan, cho vay xuất nhập khẩu,
cho vay theo chương rình chỉ định của Chính Phủ. Ngoài ra ngân hàng còn cho
vay sinh viên của 5 trường đại học trên địa bàn. Trong năm ngân hàng đã thu
hút thêm 23 khách hàng mới có quan hệ tín dụng với dư nợ tăng thêm 289 tỉ
đồng .
Năm 2001 ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn ngắn hạn cho công
ty cơ điện Trần Phú, công ty cao su sao vàng, đầu tư vốn cho công trình thi
công đường bộ, đường thuỷ như : Tổng công ty xây dựng giao thông 8 và các
đơn vị thành viên để thi công các công trình đã thắng thầu như : tuyến đường
thành phố Hồ Chí Minh đi Phnômpênh, đường xuyên Á, đường mòn Hồ Chí
Minh, tuyến đường Hà Nội – Lạng Sơn, tuyến đường Đông Hà - Quãng Ngãi,
đầu tư cho công trình đường thuỷ thi công các cầu cảng như cầu Trần Hữu
Nghĩa, cảng Nhật Lệ, cảng Kì Hà. Dư nợ tín dụng trung, dài hạn đầu tư vào 36
dự án với tổng giá trị hợp đồng kí kết là 463.7 tỉ đồng. Vốn trung, dài hạn này
chủ yếu được sử dụng để đầu tư cho cac dự án cải thiện cơ sở vật chất, kĩ
thuật, mở rộng sản xuất như :đầu tư cho công ty bưu chính viễn thông 200 tỉ
đồng để mở rộng vùng phủ sóng Vinaphone, đầu tư cho công ty bóng đèn,
phích nước Rạng Đông theo dự án cải tạo lò thuỷ tinh Hungari với công suất
49 triệu vỏ bóng đèn tròn một năm và 12 triệu ống đèn huỳnh quang một năm
với số tiền 8.5 tỉ đồng, đầu tư cho công ty cơ điện Trần Phú với dự án thiết bị
máy kéo dây nhôm với số vốn đầu tư là 6 tỉ đồng. Trong năm ngân hàng đã
thu hút được thêm 171 hồ sơ vay vốn thuộc khối kinh tế quốc doanh.
Trên đây là danh sách các dự án cho vay lớn và có hiệu quả của ngân
hàng trong hai năm 2000 và 2001, tuy nhiên các dự án này chủ yếu nằm trong
khối kinh tế quốc doanh và một số chương trình của Chính Phủ. Để thấy rõ hơn
tình hình sử dụng vốn của ngân hàng ta hãy xem bảng sau đây.
Bảng 2 : Tình hình cho vay đối với các thành phần kinh tế tại ngân
hàng công thương Đống Đa.
Sử dụng vốn 1997 1998 1999 2000 2001
Tỉ % Tỉ % Tỉ % Tỉ % Tỉ %
+Doanh số cho vay 1472 100 1850 100 1120 100 1410 100 1740 100
-Quốc doanh 920 62.5 1400 75.5 1010 90.2 1250 88.6 1555 89.4
-Ngoài quốc doanh 552 37.5 450 24.3 110 9.8 160 11.4 185 10.6
+Doanh số thu nợ 1404 100 1565 100 1230 100 1160 100 1100 100
-Quốc doanh 880 62.7 1055 67.4 1100 89.4 1020 86.8 935 85
-Ngoài quốc doanh 524 37.3 510 32.6 130 10.6 140 13.2 165 15
+Dư nợ 525 100 810 100 700 100 950 100 1490 100
-Quốc doanh 315 60 660 81.5 570 81.4 800 84.2 1320 88.6
-Ngoài quốc doanh 210 40 150 18.5 130 18.6 150 15.8 170 11.4
+Nợ quá hạn 8 100 12 100 20 100 16 100 14 100
-Quốc doanh 1.8 22.5 2.5 20.8 6 30 4 25 3 21.4
-Ngoài quốc doanh 6.2 77.5 9.5 79.2 14 70 12 75 11 78.6
Nguồn : Phòng tổng hợp.
Năm 1997, doanh số cho vay là 1472 tỉ, trong đó cho vay kinh tế quốc
doanh chiếm 62.5%, còn lại là cho vay ngoài quốc doanh. Doanh số thu nợ
cũng xấp xỉ với doanh số cho vay 1404 tỉ, trong đó tỉ lệ thu nợ quốc doanh là
62.7% và ngoài quốc doanh là 37.3%. Tuy nhiên dư nợ trung bình của năm
1997 có 60% kinh tế quốc doanh và 40% kinh tế ngoài quốc doanh nhưng
trong số dư nợ này thì nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỉ lệ lớn
77.5% .
Năm 1998, doanh số cho vay tăng lên 378 tỉ, tương ứng với tốc độ tăng
là 25.7%. Cả doanh số thu nợ và dư nợ bình quân cũng tăng hơn so với năm
1997 là 11.5% (doanh số thu nợ ) và 54.3% (dư nợ bình quân). Như vậy là toàn
bộ hoạt động cho vay đều được mở rộng. Tuy nhiên trong cơ cấu doanh số cho
vay thì cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh cũng giảm 60 tỉ đồng so với
năm 1997. Đặc biệt là tỉ lệ nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh tăng
nhanh.
Năm 1999 một điều đáng buồn là toàn bộ doanh số cho vay, doanh số
thu nợ, dư nợ đều giảm đáng kể so với năm 1998, doanh số thu nợ giảm 335 tỉ
bằng 78.6% doanh số thu nợ năm 1998, dư nợ cũng giảm 110 tỉ đồng tương
đương với 86.4% dư nợ bình quân năm1998. Nguyên nhân chính là do năm
1999 ngân hàng công thương Đống Đa đã tách 1/3 nguồn lực hiện có để hình
thành ngân hàng công thương Thanh Xuân và chịu sự quản lí trực tiếp của
ngân hàng công thương Việt Nam.
Tuy nhiên, mặc dù sự giảm sút của doanh số cho vay, doanh số thu nợ và
dư nợ bình quân thì nợ quá hạn lại gia tăng (8 tỉ so với năm1998), không chỉ
nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh ia tăng mà kinh tế quốc doanh cũng
gia tăng. Nguyên nhân của tình trạng này là các điều kiện bất ổn của nền kinh
tế. Tiêu dùng giảm, sản xuất đình trệ, vì vậy các doanh nghiệp không có nhu
cầu vốn để mở rộng sản xuất, do đó doanh số cho vay giảm đáng kể. Thêm vào
đó, lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm, thậm chí còn lỗ và có nhiều doanh
nghiệp phá sản, vì vậy họ không có khả năng trả nợ ngân hàng, tỉ lệ nợ quá
hạn tăng. Đặc biệt năm 1999, tỉ lệ vay của kinh tế ngoài quốc doanh là rất nhỏ
chỉ chiếm 9.8% trong tổng doanh số cho vay vì kinh tế ngoài quốc doanh có đến
90% doanh nghiệp vưà và nhỏ nên bị tác động của những biến động kinh tế.
Năm 2000 nền kinh tế đã được cải thiện hơn, chính vì vậy doanh số cho
vay đã tăng lên 290 tỉ so với năm 1999 nhưng vẫn thấp hơn năm 1998. Về cơ
cấu vốn vay đã cải thiện hơn so với năm 1999. Các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh đã bắt đầu đến vay ngân hàng, tỉ trọng cho vay kinh tế ngoài quốc
doanh đã cao hơn so với năm 1999. Dư nợ bình quân năm 2000 cao nhất so
với những năm trước đạt 950 tỉ. Tuy nhiên năm 2000 lại là năm có doanh số
thu nợ thấp nhất, do doanh số cho vay năm 1999 để lại là khá thấp, nợ quá hạn
tính đến 31/12/2000 chiếm 2.4% trong tổng dư nợ chưa kể nợ quá hạn liên
quan đến vụ án, so với cuối năm 1999 giảm được 1.4%.
Qua nhưng phân tích ở trên, ta nhận thấy, tỉ trọng dư nợ đối với kinh tế
ngoài quốc doanh giảm một cách đột ngột và doanh số cho vay của khu vực
này có xu hướng giảm đi, tuy vậy doanh số thu nợ giảm không đáng kể. Điều
này có thể khẳng định rằng ngân hàng thu hẹp cho vay đối với kinh tế ngoài
quốc doanh nhưng vẫn đảm bảo các khoản đã cho vay thu hồi được nợ. Thực
ra điều này cũng có nguyên nhân của nó. Trước năm 1995 tỉ trọng cho vay
kinh tế ngoài quốc doanh của ngân hàng công thương Đống Đa có lúc chiếm
60% tổng doanh số cho vay. Nhưng từ năm 1995 trở lại đây, tỉ trọng vốn vay
của khu vực ngoài quốc doanh liên tục giảm qua các năm. Lí do là trước năm
1995 thời kì nước ta thực hiện mở cửa nền kinh tế, ban hành những chính sách
có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Điều đó làm cho khối kinh tế ngoài
quốc doanh phát triển mạnh, nhu cầu vốn cho kinh tế ngoài quốc doanh tăng.
Nhưng ngay lập tức những khoản cho vay này tạo ra tỉ lệ nợ quá hạn cao.
Thêm nữa trong vài năm gần đây, kiểu làm ăn thiếu tin tưởng của khu vực này
khiến ngân hàng không muốn mở rộng cho vay đối với họ nữa. Mặc dù tư