Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực Chương Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.22 KB, 61 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng thương mại
(NHTM) ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt,
kể cả số lượng, qui mô và chất lượng. Trong những năm qua, hoạt động ngân hàng
nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản
xuất phát triển. Như vậy hệ thống ngân hàng thương mại thực sự là ngành tiên
phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, đóng góp to lớn vào công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế xã hội ở nước ta.
Hiện nay ở nước ta thị trường chứng khoán chưa phải là kênh dẫn vốn
hiệu quả và chủ yếu, vậy nên vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của nền kinh tế vẫn phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống
ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại với lợi thế về mạng lưới,
đối tượng khách hàng của các ngân hàng thương mại không phải chỉ là các
công ty, doanh nghiệp mà còn có thành phần tư nhân hộ gia đình. Một mặt
họ là những người cho ngân hàng vay tiền, một mặt họ cũng chính là những
người vay tiền của hệ thống NHTM. Do vậy hệ thống NHTM trở thành
kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho nền kinh tế trong gian đoạn hiện nay. Từ
đó vấn đề nghiên cứu chất lượng hoạt động tín dụng thật sự trở thành vấn
đề đang rất được quan tâm.
Do phạm trù nghiên cứu chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng
rất rộng nên với thời gian và năng lực có hạn, em chỉ tập trung vào nghiên
cứu vấn đề chất lượng tín dụng ngắn hạn. Qua đó tìm hiểu thực trạng,
những kết quả đạt được và những hạn chế tồn tại. Từ đó để tìm ra những
nguyên nhân của hạn chế đó cũng như tìm ra những biện pháp để khắc phục
hạn chế đó.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu cùng với việc được xem xét,
tìm hiểu, quan sát tình hình thực tế tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương
Dương trong thời gian thực tập vừa qua. Đặc biệt với sự giúp đỡ, tạo điều
Trang 1
kiện của ban lãnh đạo ngân hàng, các cô chú, anh chị ở các phòng ban đã


giúp em hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp với đề tài “Nâng cao chất
lượng tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương”
Em xin gửi lời cám ơn tới các thầy cô giáo trường Đại học Kinh Tế
Quốc Dân - những người đã cung cấp cơ sở kiến thức về kinh tế và xã hội,
Tới ThS. Phan Hữu Nghị, người đã trực tiếp hướng dẫn để em có thể hoàn
thành bản đề án tốt nghiệp này.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương I: Tín dụng NHTM và chất lượng tín dụng ngắn hạn NHTM
trong nền kinh tế thị trường.
- Chương II: Thực trạng chất lượng hoạt động tính dụng ngắn hạn tại
Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương.
- Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng ngắn hạn tại Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương.
Trang 2
Chương I
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG NGẮN HẠN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Tín dụng ngân hàng thương mại.
1.1.1. Lịch sử ra đời và quá trình phát triển tín dụng NHTM.
Lịch sử ra đời và phát triển của tín dụng gắn liền với lịch sử phát triển
của phương thức sản xuất hàng hóa. Hình thức sơ khai nhất của tín dụng là
tín dụng nặng lãi. Người đi vay sẽ không những phải trả vốn mà còn phải
trả phần lãi rất lớn cho người cho vay. Hình thức này chỉ tồn tại ở xã hội
trước tư bản và mục đích của nó là để duy trì cuộc sống cho những người
cần vay.
Đến phương thức tư bản chủ nghĩa tín dụng nặng lãi không còn phù
hợp. Sản xuất phát triển, đi vay không những để cho tiêu dùng mà còn để
phát triển sản xuất. Lãi suất cho vay cũng phải thấp hơn do có nhiều người
cho vay hơn và để cho nhà tư bản đi vay đảm bảo việc sản xuất có lợi

nhuận. Vay mượn không chỉ đơn thuần là tiền mà còn là các máy móc thiết
bị, tư liệu sản xuất... Từ đó lãi suất không còn do người cho vay đơn
phương áp đặt nữa mà phải có sự thỏa thuận giữa người vay và người cho
vay.
Từ đó ta có thể hiểu tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc
hoàn trả. Đó là quan hệ giữa hai bên trong đó một bên chu cấp tiền hay
hàng hóa, dịch vụ cho bên kia và bên kia cam kết sẽ thanh toán lại trong
tương lai gồm cả khoản nợ gốc và khoản lãi.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và hàng hóa, tín dụng ngày càng có
những phát triển cả về nội dung và hình thức. Và hình thái phát triển cao
nhất là tín dụng ngân hàng.
Trang 3
Tín dụng ngân hàng là một quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tác
hoàn trả (cả vốn và lãi) sau một thời gian nhất định.
Tín dụng ngân hàng đã thực sự mở rộng các mối quan hệ, thay thế
quan hệ giữa các cá nhân với nhau bằng mối quan hệ giữa các cá nhân với
tổ chức, giữa các tổ chức với nhau và cao nhất là quan hệ tín dụng quốc tế.
Tuy tín dụng ngân hàng là hình thức phát triển cao của quan hệ tín
dụng nhưng nó vẫn giữ nguyên được những bản chất ban đầu của quan hệ
tín dụng. Vẫn là quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi vào một thời gian nhất định trong tương lai nhưng trong đó một
bên là ngân hàng thương mại và một bên là các cá nhân, các tổ chức kinh
tế, tổ chức chính trị xã hội hay là tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng thương
mại khác.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngắn hạn ngân hàng thương mại.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức phát triển cao của tín dụng. Nó
cơ bản giữ được những bản chất chung của tín dụng, ngoài ra còn có một số
đặc điểm sau:
Rủi ro tín dụng ngắn hạn thấp. Do khoản vay chỉ cung cấp trong thời
gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động không thể lường trước

của nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn. Ngoài ra, các
khoản vay được cung cấp cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hình
thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản bảo đảm, bảo lãnh chắc
chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro mang đến thường
thấp.
Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay
trả cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của người khác. Chính vì rủi ro mang
lại của khoản vay thường không cao do đó lãi suất người đi vay phải trả
thông thường nhỏ.
Trang 4
Vốn tín dụng ngắn hạn mà ngân hàng cấp cho khách hàng thường được
khách hàng dùng để mua nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động
nên số vốn vay thường là nhỏ.
Thời hạn thu hồi vốn nhanh, số vòng quay vốn tín dụng nhiều: Vốn tín
dụng ngắn hạn thường được sử dụng để bù đắp những thiếu hụt trong ngắn
hạn như đảm bảo cân bằng ngân quỹ, đối phó với chênh lệch thu chi trong
ngắn hạn... Thông thường những thiếu hụt này chỉ mang tính tạm thời hay
mang tính thời điểm, sau đó khoản thiếu hụt này sẽ sớm thu lại dưới hình
thái tiền tệ vì vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh.
Hình thức phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách
hàng, phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên thị
trường tín dụng, các ngân hàng thương mại không ngừng phát triển các hình
thức tín dụng ngắn hạn của mình. Điều đó đã làm cho các hình thức tín
dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp vụ ứng trước, nghiệp vụ thấu chi,
nghiệp vụ chiết khấu....
1.2. Chất lượng Tín dụng ngắn hạn Ngân hàng thương mại.
Trong quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng, dù môi trường kinh
doanh có thay đổi nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản,
chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động của các ngân hàng thương mại
và là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Cùng với

quá trình phát triển của thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được mở
rộng và phát triển đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Do
đó quan hệ tín dụng cũng được mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho
hoạt động tín dụng của NHTM càng trở nên khó khăn. Để hệ thống ngân
hàng thương mại thể tồn tại và đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày
càng gay gắt cũng như để phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế thì các NHTM
phải nâng cao chất lượng các khoản tín dụng.
1.2.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Trang 5
Ở phần trên ta đã có khái niệm chung về “Tín dụng ngân hàng thương
mại”. Căn cứ vào thời hạn của khoản tín dụng- kể từ khi cấp tín dụng đến
thời điểm hoàn trả ta có thể chia thành hai hình thức tín dụng. Đó là tín
dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn. Do khả năng và thời gian có hạn
nên trong bản Đề án tốt nghiệp này em chỉ đề cập đến vấn đề “Tín dụng
ngắn hạn”.
Ở mỗi quốc gia, thời hạn để xác định khoản tín dụng ngắn hạn là khác
nhau. Ở Mĩ người ta quan niệm những khoản tín dụng ngắn hạn là những
khoản cho vay có thời hạn dưới 3 năm. Nhưng ở Việt Nam, theo Quyết định
số 324 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tín dụng ngắn hạn là
hình thức mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay ngắn hạn nhằm đáp ứng
nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Thời hạn đối
với tín dụng ngắn hạn được tổ chức tín dụng khách hàng thoả thuận tối đa
là 12 tháng, được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả
năng trả nợ của khách hàng.
Từ đó ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngắn hạn là sự đáp ứng yêu
cầu trước mắt (thường là một năm) của khách hàng phù hợp với sự phát
triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại, phát triển của NHTM. Để có
được chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng ngắn hạn này phải có hiệu
quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín.
Trang 6

Chất lượng tín dụng ngắn hạn được thể hiện:
Đối với khách hàng: tín dụng ngắn hạn phải phù hợp với mục đích sử
dụng trong ngắn hạn của khách hàng, với lãi suất và kì hạn hợp lý, thủ tục
đơn giản, nhưng vẫn đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng.
Đối với các ngân hàng thương mại: phạm vi, mức độ, giới hạn của
khoản tín dụng ngắn hạn phải phù hợp với thực lực của ngân hàng, đảm bảo
được tính cạnh tranh trên thị trường, cũng như đảm bảo được nguyên tắc
hoàn trả đúng thời hạn và có lãi.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: tín dụng phục vụ sản xuất và lưu
thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, thúc đẩy quá trình
tập trung và tích tụ sản xuất, giải quyết tốt nhất mối quan hệ giữa tăng
trưởng tín dụng với tăng trưởng kinh tế.
Vậy ta phải hiểu thế nào là khoản tín dụng ngắn hạn có chất
lượng cao ?
Xét trên khía cạnh nền kinh tế, căn cứ vào sự thể hiện của chất lượng
tín dụng ta có thể hiểu khoản tín dụng ngắn hạn có chất lượng cao là khi
khoản vốn huy động được ngân hàng sử dụng đúng mục đích, tạo được số
tiền lớn, ngân hàng thu được cả vốn và lãi. Còn doanh nghiệp vừa trả được
nợ ngân hàng đúng hạn vừa bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Như vậy,
ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế, vừa đem lại hiệu quả xã hội.
Và ngược lại một khoản tín dụng ngắn hạn không có chất lượng, hay
chất lượng không cao là khi khách hàng không sử dụng khoản tín dụng
đúng theo mục đích ban đầu, không tạo ra số tiền để trả lãi, gốc đúng thời
hạn cho ngân hàng, không đem lại hiệu quả kinh tế xã hội nói chung.
Hiểu đúng bản chất, phân tích, đánh giá, xác định chính xác các
nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ giúp ngân hàng
tìm được các biện pháp quản lý thích hợp để có thể đứng vững trong nền
kinh tế thị trường.
Trang 7
1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn

ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường thì hoạt động tín dụng là kênh dẫn vốn chủ
yếu để thúc đẩy tiến trình phát triển của cả xã hội. Với đòi hỏi nền kinh tế
xã hội phát triển ngày càng mạnh mẽ thì vấn đề chất lượng tín dụng nói
chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng luôn và sẽ dành được sự
quan tâm lớn.
1.2.2.1. Đối với nền kinh tế xã hội:
Tín dụng ngắn hạn và nền kinh tế xã hội có mối quan hệ mật thiết hai
chiều. Tín dụng ngắn hạn góp phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế xã hội,
tạo điều kiện cho kinh tế xã hội phát triển, ngược lại để hoạt động tín dụng
ngắn hạn có chất lượng thì đỏi hỏi nền kinh tế xã hội phải ổn định, phải có
cơ chế phù hợp, có sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa các cấp các
ngành.
- Chất lượng tín dụng ngắn hạn được bảo đảm và nâng cao là điều
kiện cho Ngân hàng làm tốt vai trò trung gian tín dụng- cầu nối giữa tiết
kiệm và đầu tư- trong nền kinh tế, Từ đó điều hoà nguồn vốn cho đầu tư
ngắn hạn hợp lý, làm xã hội bớt được lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm
được khó khăn cho những nơi thiếu vốn.
- Chất lượng tín dụng ngắn hạn được nâng cao cũng sẽ tạo điều kiện để
NHTM làm tốt vai trò trung tâm thanh toán của nền kinh tế thị trường. Vì
khi chất lượng tăng lên nghĩa là các khoản tín dụng được thực hiện đúng
theo thời hạn, do đó số vòng quay của vốn tín dụng tăng lên với một lượng
tiền trong lưu thông là không đổi. Góp phần mở rộng hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt. Qua đó tiết kiệm chi phí phát hành tiền.
- Tín dụng là một trong những công cụ để Đảng và Nhà nước thực hiện
các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, lĩnh vực.
Nhờ chất lượng tín dụng nâng cao nghĩa là sự phân tích, đánh giá khả năng
phát triển của các đối tượng để ra các quyết định đầu tư đúng đắn để khai
Trang 8
thác khả năng tiềm tàng của tài nguyên, lao động, đảm bảo cho sự chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, phát triển cân đối giữa các ngành nghề, các khu vực
trong cả nước.
- Nâng cao chất lượng tín dụng còn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn
định tiền tệ, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như ta đã biết về khả
năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại. Đó là thông qua việc cho
vay chuyển khoản, thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng thương
mại có khả năng mở rộng số tiền ghi sổ lên rất nhiều lần so với số tiền thực
tế mà Nhà nước bỏ vào lưu thông. Như vậy khi chất lượng tín dụng được
nâng lên tạo khả năng giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, góp phần hạn
chế lạm phát, ổn định tiền tệ.
- Cuối cùng chất lượng tín dụng nâng cao góp phần làm lành mạnh hóa
quan hệ tín dụng. Giảm thiểu rồi đi đến xóa bỏ tình trạng cho vay nặng lãi,
tín dụng đen đang rất phổ biến hiện nay. Mà gắn liền với tình trạng tín
dụng không lành mạnh này là những vấn đề xã hội phức tạp.
1.2.2.2. Đối với khách hàng:
- Cung cấp kịp thời nhu cầu về vốn cho khách hàng: Chất lượng tín
dụng cao sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng thị trường, cung cấp tín
dụng kịp thời, đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách
hàng.
- Lành mạnh hoá tình hình tài chính của khách hàng: Để đảm bảo chất
lượng tín dụng thì Ngân hàng tiến hành việc kiểm tra, kiểm soát việc sử
dụng vốn tín dụng của khách hàng qua đó cùng với khách hàng uốn nắn và
chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong hoạt động tài chính và kinh doanh
của họ. Do vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần phát triển chất
lượng sản xuất kinh doanh cũng như làm lành mạnh hoá tình hình tài chính
của khách hàng.
1.2.2.3. Đối với ngân hàng thương mại:
Trang 9
Nâng cao Chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại
và phát triển lâu dài của hệ thống Ngân hàng thương mại:

- Nâng cao chất lượng tín dụng tức là tăng khả năng quay vòng vốn tín
dụng, qua đó mở rộng được các hình thức dịch vụ cung cấp cho khách hàng
cũng như mở rộng quy mô vốn tín dụng cho một khách hàng. Như vậy
không những duy trì được mối quan hệ với nhũng khách hàng truyển thống
mà còn mở rộng, thu hút thêm những khách hàng mới. Đó cũng là cách để
các ngân hàng thương mại mở rộng thị trường, nâng cao được lợi nhuận.
- Chất lượng tín dụng nâng cao sẽ giảm được chi phí nghiệp vụ, chi phí
quản lý, và đặc biệt là giảm được những chi phí, thiệt hại rất lớn do không
thu hồi được khoản tín dụng. Như vậy sẽ gia tăng khả năng sinh lời của các
sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Tăng được lợi
nhuận cho hệ thống ngân hàng thương mại.
Qua những phân tích trên ta thấy nâng cao chất lượng tín dụng có ý
nghĩa thật to lớn. Đối với ngân hàng thì đó là vì sự tồn tại, phát triển. Với
khách hàng thì đó là khả năng mở rộng sản xuất. Xét trên tầm vĩ mô thì
nâng cao chất lượng tín dụng là để đảm bảo cho nền kinh tế xã hội luôn
phát triển ổn đinh. Với sự phát triển và sản xuất lưu thông hàng hoá ngày
càng tăng, hoạt động tín dụng cần phải được phát triển tới mức độ nào đó
sao cho phù hợp, nhằm đáp ứng được những nhu cầu giao dịch cũng ngày
càng tăng trong xã hội. Vì thế, việc nâng cao chất lượng tín dụng không
những luôn được coi là chiến lược hàng đầu của các ngân hàng thương mại
mà còn của các nhà chức trách về kinh tế xã hội.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn ngân
hàng thương mại.
Qua những vấn đề được phân tích ở trên, ta thấy rõ sự cần thiết của
việc củng cố tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của các
Ngân hàng Thương mại vì sự tồn tại cũng như sự phát triển lâu dài của hệ
thống Ngân hàng Thương mại nói riêng và cho nền kinh tế xã hội nói
chung. Để thực hiện tốt công việc này, việc đi sâu phân tích, đánh giá để
Trang 10
thấy rõ được những nhân tố chủ yếu có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng

ngắn hạn là điều không thể thiếu và luôn luôn phải được cân nhắc để tìm ra
những hướng khắc phục hiệu quả.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Ta có thể
chia thành hai nhóm nhân tố là nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm nhân tố
bên trong.
1.3.1. Nhóm nhân tố bên ngoài:
Gồm 3 nhóm nhân tố là kinh tế, xã hội và pháp lý.
* Nhóm nhân tố kinh tế:
- Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng có hiệu
quả cao thì nền kinh tế phải ổn định. Hoạt động tín dụng là hoạt động “Vay
để cho vay”. Khi nền kinh tế phát triển ổn định thì các doanh nghiệp mới
hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, khi đó nhu cầu về vốn tín dụng
của doanh nghiệp mới thực sự là ổn định và an toàn. Mặt khác khi đó ngân
hàng cũng có thể huy động được nhiều nguồn vốn mở rộng hoạt động cho
vay, phục vụ cho việc phát triển kinh tế.
- Ngoài ra một nền kinh tế ổn định tạo điều kiện cho giá cả luôn giữ ở
mức ổn định, lành mạnh, tránh được tình trạng lạm phát hay giảm phát và
tránh cho ngân hàng khỏi phải chịu những thiệt hại lớn do mất giá của đồng
tiền, các doanh nghiệp không rơi vào khủng hoảng dẫn đến khó khăn không
trả được nợ tín dụng. Từ đó cũng tránh được sự giảm thấp chất lượng tín
dụng.
Tuy nhiên có một thực tế là hầu hết các quốc gia đều áp dụng mô hình
“ Mở rộng Ngân sách” , tức là các quốc gia này duy trì một mức lạm phát
vừa phải để kích thích đầu tư. Do vậy đây là vấn đề có tính hai mặt. Một
mặt là lạm phát sẽ làm phát sinh những rủi ro cho việc hoàn trả khoản nợ
tín dụng. Nhưng mặt khác, lạm phát kích thích đầu tư sẽ khiến nhu cầu về
vốn tín dụng tăng, tạo điều kiện kinh doanh tín dụng cho các ngân hàng
thương mại, khi đó sẽ có cơ hội tăng được lợi nhuận.
Trang 11
- Yếu tố Vốn nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng

ngắn hạn: Hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia kém phát triển đều
gặp khó khắn về vốn để đầu tư phát triển kinh tế. Do vậy thường phải sử
dụng “Vốn nước ngoài” để bù đắp. Nhưng việc huy động quá mức vốn nước
ngoài sẽ làm mất cân đối tổng cung và tổng cầu trong nền kinh tế, gây sức
ép về lạm phát cho nền kinh tế, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn
hạn.
- Nhân tố Chu kỳ phát triển kinh tế cũng tác động lớn tới chất lượng tín
dụng ngắn hạn. Trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh, sản xuất kinh doanh sẽ
được mở rộng, dẫn đến nhu cầu về vốn tăng, giảm bớt những rủi ro tín
dụng, từ đó hiệu quả tín dụng ngắn hạn cũng tăng lên. Tuy nhiên điều gì sẽ
xảy đến với chất lượng tín dụng ngắn hạn nếu các ngân hàng thương mại
cạnh tranh mở rộng khách hàng. Khi đó để dành các khách hàng về phía
mình các ngân hàng thường phải hạ thấp yêu cầu với khách hàng khi họ có
nhu cầu cấp tín dụng, đây chính là nguyên nhân khiến cho các khoản tín
dụng ngắn hạn gặp nhiều rủi ro hơn, chất lượng tín dụng ngắn hạn qua đó
cũng giảm xuống.
Khi nền kinh tế rơi vào khó khăn, khủng hoảng, nền sản xuất bị trì trệ
khiến nhu cầu tín dụng giảm do các doanh nghiệp thấy sẽ thật là mạo hiểm
nếu mở rộng sản xuất bởi nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm, sức mua
kém và hàng hóa sẽ bị tồn kho, lợi nhuận giảm hoặc thậm chí doanh nghiệp
có thể bị phá sản bởi không duy trì được sản xuất và không trả được nợ
ngân hàng. Trong khi hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn, các ngân
hàng vẫn phải trả tiền lãi để huy động nguồn vốn trước đó. Qua đó ta thấy
chất lượng tín dụng ở giai đoạn này thường là thấp.
- Một trong những nhân tố kinh tế có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
ngắn hạn là sự phù hợp giữa lãi suất huy động ngắn hạn, lãi suất cho vay
ngắn hạn và mức lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. Khi mức lợi nhuận
doanh nghiệp giảm xuống hay lãi suất huy động tăng lên sẽ ảnh hưởng tới
hiệu quả tín dụng ngắn hạn của hệ thông ngân hàng thương mại.
Trang 12

* Nhóm nhân tố xã hội,chính trị: Đó là các nhân tố khách hàng và
ngân hàng.
Quan hệ tín dụng được thực hiện dựa trên có sở sự tín nhiệm, lòng tin,
uy tín giữa khách hàng và ngân hàng thương mại. Vì vậy chất lượng tín
dụng ngắn hạn tùy thuộc vào sự kết hợp giữa ba yếu tố: Nhu cầu tín dụng
của khách hàng, khả năng của ngân hàng và sự tín nhiệm giữa hai bên. Uy
tín của ngân hàng trên thị trường càng cao thì sẽ thu hút được càng nhiều
khách hàng tin tưởng gửi tiền vào ngân hàng và thường có thể huy động
vốn với mức lãi suất thấp hơn mặt bằng chung. Uy tín ngân hàng nâng cao
cũng sẽ hấp dẫn được nhiều khách hàng đến xin vay ngân hàng thương mại.
Đây chính là biện pháp chiếm lĩnh thị trương của các ngân hàng thương
mại, tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt với các ngân hàng thương mại khác để
tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Khách hàng, với tư cách là người cung ứng vốn, Người gửi tiền có
lòng tin đối với ngân hàng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng huy động khoản
tiền gửi một cách ổn định, qua đó đáp ứng ổn đinh nhu cầu vốn tín dụng
ngắn hạn của người vay. Vì vậy chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ tăng lên.
Với tư cách là người đi vay vốn, nếu nhu cầu vay ngắn hạn của khách
hàng được thực hiện đơn giản, nhanh chóng thì Ngân hàng đã tạo được sự
hấp dẫn đối với khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng
ngắn hạn.
Về phía Ngân hàng, chất lượng tín dụng ngắn hạn phụ thuộc vào quy
mô, phạm vi hoạt động tín dụng, phụ thuộc vào nguồn vốn tự có của các
ngân hàng, khả năng huy động nguồn tiền gửi cả về quy mô cũng như thời
hạn tiền gửi.
Khi xét đến các nhân tố xã hội ta không thể không nhắc đến yếu tố tác
động đến chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn
nói riêng, đó là nhân tố “đạo đức xã hội”. Như ta đã biết quan hệ tín dụng
phải dựa trên sự tín nhiễm giữa hai bên. Nếu một trong hai bên xuát phát từ
sự lừa đảo thì đương nhiên chất lượng khoản tín dụng sẽ rất xấu.

Trang 13
Ngoài ra ta cũng có thể xét đến một số nhân tố xã hội khác có ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn. Đó là trình độ dân trí, sự ổn định
chính trị xã hội của quốc gia, tình hình biến động xã hội chính trị của quốc
tế hay là các yếu tố về môi trường như tình hình thiên tai, dịch bệnh…
* Nhóm nhân tố pháp lý:
Môi trường pháp lý được hiểu là hệ thống luật và văn bản pháp luật có
liên quan đến hoạt động của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động
tín dụng nói riêng. Đồng thời gắn liền với sự chấp hành pháp luật và trình
độ dân trí.
Hệ thống pháp luật sẽ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh cho mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh tiến triển thuận lợi đạt hiệu quả cao. Như
vậy để đảm bảo chất lượng tín dụng ngắn hạn cho các ngân hàng thương
mại thì hệ thống pháp luật về tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói
riêng phải được ban hành đầy đủ và đồng bộ.
Sự thay đổi trong các chủ trương, chính sách của nhà nước cũng gây
ảnh hưởng đến các khoản tín dụng. Nhất là về cơ cấu kinh tế, các chính
sách xuất nhập khẩu... bởi nếu có sự thay đổi đột ngột ấy thì sẽ gây xáo
trộn trong sản xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, hoặc
phương án kinh doanh sẽ không còn phù hợp... Nếu không kịp thời chuyển
đổi, doanh nghiệp sẽ không sản xuất kinh doanh được và không thể thanh
toán nợ dẫn đến nợ quá hạn, nợ khó đòi của ngân hàng tăng lên.
1.3.2. Nhóm nhân tố bên trong:
Các nhân tố bên trong là những nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng
liên quan đến hoạt động tín dụng ngắn hạn. Chúng gồm sáu nhân tố sau:
Chính sách tín dụng ngắn hạn; Công tác tổ chức ngân hàng; Quy trình tín
dụng; Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ; Thông tin tín dụng; Chất lượng
cán bộ công nhân viên.
1.3.2.1. Chính sách tín dụng ngắn hạn:
Trang 14

Không những chỉ có ngành ngân hàng mà tất cả các ngành, các lĩnh
vực muốn hoạt động hiệu quả để tồn tại và phát triển đều cần phải có một
chiến lược phù hợp với tình hinh thực tế. Do vậy ta có thể thấy chính sách
tín dụng ngắn hạn có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngắn hạn ngân
hàng.
Chính sách tín dụng ngắn hạn là hệ thống những biện pháp được ban
lãnh đạo Ngân hàng phổ biến tới từng cấp, từng bộ phận của ngân hàng liên
quan đến việc khuyếch trương hoặc hạn chế những khoản tín dụng ngắn hạn
để đạt được mục tiêu đã hoạch định của Ngân hàng Thương mại đó.
Chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tốt hay xấu là tuy thuộc vào
chính sách tín dụng ngắn hạn được ban lãnh đạo Ngân hàng xây dựng, ban
hành có đúng đắn hay không. Nếu chính sách tín dụng ngắn hạn được hoạch
định phù hợp với thực tế sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo được
khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro, tuân theo chấp
hành tốt luật pháp và đường lối chính sách của Nhà nước. Cũng vì lẽ đó nên
khi hoạch định chính sách tín dụng ngắn hạn, ban lãnh đạo của các ngân
hàng thương mại luôn coi trọng việc đảm bảo an toàn như là một mục tiêu
mà chính sách đó phải đạt được.
Ta rút ra kết luận là: Bất cứ ngân hàng thương mại nào nếu muốn nâng
cao chất lượng tín dụng ngắn hạn đều phải có chính sách tín dụng ngắn hạn
rõ ràng, thích hợp.
1.3.2.2. Công tác tổ chức ngân hàng:
Đây là hoạt động mà mọi NHTM đều phải quan tâm, luôn tiến hành
công tác đổi mới, hiện đại hóa tổ chức ngân hàng. Công tác tổ chức ngân
hàng được thức hiện tốt thể hiện là sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng
ban trong từng ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như giữa
ngân hàng với các tổ chức khác như tổ chức tài chính, tổ chức pháp lý... là
sự thống nhất từ trên xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến từng phòng ban, từng
cán bộ công nhân viên.
Trang 15

Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban sẽ tạo điều kiện cho việc
quản lý các khoản tín dụng ngắn hạn một cách kịp thời, sát sao. Đây là cơ
sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh, hiệu quả hơn.
1.3.2.3. Quy trình tín dụng:
Quy trình tín dụng là những quy định cần phải thực hiện trong quá
trình cho vay, thu nợ nhằm bảo đảm an toàn cho vốn tín dung. Nó được bắt
đầu kể từ khi chuẩn bị cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình cho vay và kết
thúc là giai đoạn thu hồi khoản vay. Chất lượng tín dụng tốt hay không là
phụ thuộc vào sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bước trong quy
trình tín dụng.
Chất lượng tín dụng phụ thuộc rất lớn vào công tác thẩm định tín dụng
trong quy trình tín dụng. Nếu công tác thẩm định dự án đưa ra những kết
luận sai lầm, đó là đồng ý cấp tín dụng cho những khách hàng không có khả
năng hoàn trả lại hoặc có ý định lừa đảo ngân hàng, hay là những quyết
định không đồng ý cấp tín dụng cho những khách hàng có phương án làm
ăn hiệu quả. Như vậy chắc chắn các khoản tín dụng cấp cho khách hàng là
không có hiệu quả.
Sau quá trình giải ngân cho khách hàng, các ngân hàng thương mại đều
liên tục kiểm tra, giám sát tình hình của số tiền đã cấp được sử dụng như
thế nào. Nếu việc giám sát là sát sao thì ngân hàng có thể phát hiện kịp thời
những rủi ro để từ đó đưa ra những điều chỉnh, can thiệp cần thiết. Như vậy
sẽ nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Một ngân hàng muốn tồn tại thì ngoài việc thu được các khoản lãi thì
điều quan trọng hơn là phải thu về đầy đủ khoản nợ gốc. Nếu ngân hàng có
những biện pháp xử lý nợ chính xác, nhanh chóng sẽ giảm thiểu những rủi
ro có thể xảy ra và hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại khi rủi ro tín dụng
xảy đến, qua đó chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ nâng cao.
1.3.2.4. Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ:
Trang 16
Kiểm soát nội bộ là một trong những nghiệp vụ giúp cho ngân hàng

nâng cao chất lượng tín dụng. Thực hiện tốt công tác này sẽ giúp cho ban
lãnh đạo ngân hàng có được nhanh chóng mọi thông tin về tình trạng kinh
doanh. Như vậy ngân hành có thể kịp thời phát hiện ra những sai phạm, sai
sót liên quan đến nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn để khắc phục, sửa chữa.
1.3.2.5. Thông tin tín dụng:
Thực tế là hoạt động tín dụng ngắn hạn có chất lượng luôn đòi hỏi phải
có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ nghiệp vụ tín dụng này đi kèm. Như
vậy Thông tin tín dụng có vai trò rất quan trọng trong quản lý chất lượng
tín dụng ngắn hạn. Việc nắm không vững và đầy đủ các thông tin có thể
khiến các ngân hàng gặp phải sai lầm lựa chọn đối nghịch. Vì trên thực tế,
không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng vốn vay có hiệu quả và đúng
mục đích. Đó là chưa kể tới những hàng vi lừa đảo để vay tiền ngân hàng,
gây tổn thất cho ngân hàng.
Việc nắm được thông tin về khách hàng, cảnh báo khách hàng kịp thời
sẽ khiến khách hàng suy nghĩ kỹ hơn khi sử dụng từng đồng vốn được ngân
hàng cho vay, sẽ khó có thể sử dụng sai mục đích ban đầu, do đó hiệu quả
kinh tế sẽ là cao hơn, lợi nhuận ngân hàng cũng vì thế mà được đảm bảo.
Thông tin cũng khiến cho ngân hàng có những giúp đỡ kịp thời, có những
gợi ý sáng suốt tháo gỡ những khó khăn cho khách hàng trước khi quá
muộn, đảm bảo cho hiệu quả kinh tế của khoản tín dụng ngắn hạn.
1.3.2.6. Chất lượng cán bộ công nhân viên:
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động tín
dụng ngân hàng. Trong mọi hoạt động có tính quyết định đến chất lượng tín
dụng ngắn hạn như thẩm định, phê duyệt các dự án tín dụng ngắn hạn… thì
con người là nhân tố chủ chốt, không thể thiếu.
Nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự
ngày càng cao, ngành ngân hàng cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Vì có
nâng cao chất lượng nhân sự thì mới có thể đối phó kịp thời và hiệu quả với
Trang 17
những tình huống tín dụng mới, tránh được những rủi ro có thể xảy ra.

Ngoài ra nâng cao chất lượng nhân sự thì mới có thể sử dụng những phương
tiện hiện đại, phù hợp với sự phát triển nghiệp vụ ngân hàng trong cơ chế
thị trường.
Như vậy nâng cao chất lượng cán bộ công nhân viên là nhân tố bảo
đảm cho chất lượng hoạt động tín dụng.
Như vậy, nhờ việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín
dụng ngắn hạn ta thấy: tùy vào từng điều kiện cụ thể mà các nhân tố trên có
những ảnh hưởng khác nhau tới chất lượng tín dụng ngắn hạn. Do đó việc
nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng là
phải giải quyết đồng bộ các nhân tố trên. Tuy nhiện, tùy vào tình hình mà ta
có thể nhấn mạnh hơn vào nhân tố nào đó.
Trang 18
1.4. Quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn của các Ngân hàng Thương
mại.
1.4.1. Mục đích, yêu cầu quản lý:
Như ta đã biết, tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng là
nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho hệ thống ngân hàng thương mại.
Do vậy mục tiêu của việc nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn là khả
năng mang lại lợi nhuận cao nhất của các khoản tín dụng ngắn hạn trong
giới hạn rủi ro cho phép.
Yêu cầu:
Trong quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn của các ngân hàng thương
mại ta có thể đưa ra ba yêu cầu chủ yếu sau.
- Giảm thiểu rủi ro đối với các khoản cho vay: Để phòng ngừa rủi ro,
các ngân hàng thương mại chỉ đồng ý cấp tín dụng ngắn hạn cho khách
hàng trên nguyên tắc phân tán rủi ro, dự đoán được tình hình tài chính và ý
chí trả nợ của khách hàng trong tương lai.
- Đảm bảo tính lành mạnh của khoản tín dụng ngắn hạn: Điều này có
nghĩa là không cấp tín dụng ngắn hạn giúp cho khách hàng làm giàu bất
chính. Yêu cầu đảm bảo tính lành mạnh của khoản tín dụng ngắn hạn liên

quan chặt chẽ tới quá trình thẩm định dự án của khách hàng và việc kiểm
tra tình hình sử dụng vốn tín dụng của khách hàng sau khi cấp tín dụng.
- Chiếm lĩnh được thị trường một cách hợp pháp: Thực hiện được yêu
cầu này sẽ giúp ngân hàng tồn tại và phát triển. Suy cho cùng thì đây là
mục đích cao nhất mà các ngân hàng đều hướng tới.
1.4.2. Các biện pháp quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân
hàng thương mại.
Việc quản lý chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng
ngắn hạn nói riêng phải mang tính đồng bộ vì chất lượng tín dụng có được
là nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa những con người trong ngân hàng, giữa
Trang 19
những ngân hàng với những chủ thế kinh tế, chính tri, xã hội với nhau trên
cơ sở nguồn lực hiện có.
1.4.2.1. Phân loại tín dụng ngắn hạn:
Thực hiện tốt việc phân loại tín dụng ngắn hạn sẽ giúp cho ngân hàng
nghiên cứu việc vận dụng vốn tín dụng trong từng loại hình cho vay và là
cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng. Từ đó có sự quản lý phù hợp
nhất để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn.
Ta có một số cách phân loại chủ yếu sau:
Căn cứ vào mục đích sử dụng: Tín dụng ngắn hạn bao gồm tín dụng
tiêu dùng và tín dụng kinh doanh.
- Tín dụng tiêu dùng: Việc cho vay của ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của các gia đình, cá nhân như chi tiêu thường xuyên, chi sửa chữa
nhà cửa, mua sắm tài sản…
- Tín dụng kinh doanh: Ngân hàng sẽ cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất
kinh doanh vay để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh ngắn hạn của họ. Lĩnh
vực kinh doanh ngắn hạn của khách hàng bao gồm:
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: Giúp khách hàng trang trải các
khoản chi phí hoạt động như chi phí mua hàng, trả lương…
+ Cho vay xây dựng ngắn hạn: Tạm ứng vốn cho bên thi công trong giai

đoạn thi công các công trình xây dựng.
+ Cho vay nông nghiệp: Nhằm hỗ trợ nông dân trong giai đoạn gieo
trồng, bảo quản sản phẩm.
+ Cho vay các tổ chức tín dụng:
+ Cho vay khác: Bao gồm các hình thức như kinh doanh chứng khoán…
Căn cứ vào đảm bảo tiền vay: Tín dụng ngắn hạn chia thành tín
dụng có bảo đảm và tín dụng không có bảo đảm.
- Tín dụng có bảo đảm: Lí do chủ yếu đòi hỏi một khoản tín dụng ngắn
hạn được đảm bảo là nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng giảm bớt rủi ro mất
Trang 20
vốn.Tín dụng ngắn hạn có đảm bảo được chia thành các dạng cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba, đảm bảo bằng tài sản được
hình thành từ vốn vay.
- Tín dụng không có đảm bảo: Tín dụng ngắn hạn không có đảm bảo
được dựa trên tính liêm khiết và tình hình tài chính của người vay, lợi tức
có thể có trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây. Tn dụng ngắn hạn
không có đảm bảo được chia thành tín chấp, bảo lãnh bằng tín chấp của bên
thứ ba.
Căn cứ vào đồng tiền cho vay: Tín dụng ngắn hạn bao gồm cho vay
bằng đồng nội tệ và cho vay bằng đồng ngoại tệ.
Căn cứ vào phương pháp cho vay: Tín dụng ngắn hạn được chia
thành tín dụng từng lần, tín dụng theo hạn mức.
Căn cứ vào tính chất của việc cấp vốn: Cho vay ngắn hạn gồm cho
vay thế vốn và cho vay ứng vốn.
- Cho vay thế vốn: Việc cho vay làm thay đổi hình thái vốn của khách
hàng sang tiền, như chiết khấu, bao thanh toán.
- Cho vay ứng vốn: Việc cho vay mang tính chất cấp thêm vốn cho
khách hàng như bổ sung vốn lưu động.
Căn cứ vào đối tượng sử dụng vốn vay: Tín dụng ngắn hạn chia
thành tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp.

- Tín dụng trực tiếp: Tiền vay được phát trực tiếp cho người vay
- Tín dụng gián tiếp: Tiền vay được phát đến một tổ chức trung gian,
sau đó mới tới tay người vay.
Căn cứ vào phương thức thanh toán: Người ta chia tín dụng ngắn
hạn thành tín dụng ngắn hạn hoàn trả một lần, tín dụng ngắn hạn hoàn trả
nhiều lần.
1.4.2.2. Tuân thủ 3 nguyên tắc tín dụng ngắn hạn:
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả.
Trang 21
- Vốn vay phải đảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương đương.
- Vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn.
1.4.2.3. Xây dựng tiêu chuẩn quản lý tín dụng ngắn hạn:
Đối với Ngân hàng, tiêu chuẩn quản lý tập trung vào sáu tiêu chuẩn
sau: Tình hình chấp hành các điều luật và nguyên tắc tín dụng ngắn hạn đã
quy định, Vòng quay vốn tín dụng, Khả năng sẵn sàng thanh toán, Mức độ
phân tác rủi ro, Tình hình chấp hành hạn mức tín dụng đã quy định, Kết quả
kinh doanh.
Đối với khách hành, tiêu chuẩn quản lý tập trung vào năm tiêu chuẩn:
Tư cách khách hàng, Khả năng sản xuất kinh doanh, Vốn tự có, Khả năng
thế chấp, Lĩnh vực kinh doanh sản xuất.
1.4.2.4. Thực hiện quy trình quản lý tín dụng ngắn hạn.
Quy trình quản lý tín dụng ngắn hạn là một quy trình tuần tự khép kín bắt đầu
từ việc đề ra chính sách tín dụng, đến việc khái quát thành các quy định cụ thể về
cho vay vốn, quy định cơ cấu tổ chức nghiệp vụ tín dụng. Giai đoạn cuối cùng của
quy trình tín dụng là sử dụng thông tin về khách hàng để phân tích nhận định tình
hình và ra quyết định tín dụng.
Trong quy trình quản lý chất lượng tín dụng ngắn hạn thì giai đoạn phân tích
nhận định tình hình của khách hàng là quan trọng nhất. Đây thực chất là việc phân
tích tín dụng. Nhờ việc phân tích và sử dụng hệ thống chỉ tiêu tín dụng giúp ngân
hàng đánh giá đúng khách hàng, hạn chế tới mức thấp nhất rủi ro tín dụng.

Nếu ngân hàng có quy trình quản lý tín dụng ngắn hạn đúng đắn thì chắc chắn
mục tiêu chất lượng tín dụng ngắn hạn sẽ được đảm bảo.
Kết luận
Việc sử dụng đồng bộ các biện pháp quản lý tín dụng ngắn hạn trên sẽ giúp cho
ngân hàng giảm thiểu được rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn vốn. Do vậy chất lượng
tín dụng ngắn hạn sẽ được bảo đảm. Đây chính là mục tiêu hàng đầu của các ngân
hàng thương mại hiện nay.
Trang 22
Chương II
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN
HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC
CHƯƠNG DƯƠNG
2.1. Giới thiệu chi nhánh ngân hàng công thương khu vực Chương
Dương.
2.1.1. Quá trình phát triển.
Theo quyết định 53 Hội Đồng Bộ Trưởng về việc thành lập hệ thống
Ngân hàng thương mại quốc doanh tháng 7 năm 1988. Hệ thống Ngân Hàng
Công Thương (NHCT) Việt Nam được thành lập trên toàn quốc.
Tháng 8 năm 1988 Ngân hàng Nhà Nước huyện Gia Lâm được tách
thành NHCT Chương Dương và Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông
thôn Châu Quỳ.
Trang 23
Ngân hàng Công thương Chương Dương có trụ sở tại số 32 Ngõ 289
đường Ngọc Lâm Quận Long Biên, Hà Nội. Nằm trên địa bàn tập trung
nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp, các hoạt động thương mại dịch vụ cũng
khá phát triển, mức sống dân cư cao so với mặt bằng chung của cả nước.
Là chi nhánh của NHCT Việt Nam nên chi nhánh NHCT Chương
Dương là đơn vị hạch toán phụ thuộc. Theo điều 30 của điều lệ về tổ chức
và hoạt động của NHCT Việt Nam thì chi nhánh NHCT Chương Dương là
đại diện uỷ quyền của NHCT, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp

của NHCT, chịu sự ràng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi đối với NHCT.
NHCT chịu trách nhiệm cuối cùng về nghĩa vụ phát sinh do sự cam kết của
các đơn vị này. Được phép kí kết các hợp đồng kinh tế, được chủ động thực
hiện các hoạt động kinh doanh, tổ chức và nhân sự theo sự phân cấp uỷ
quyền của NHCT.
Cho đến nay Chi nhánh NHCT khu vực Chương Dương đã trải qua 17
năm phát triển. Trong suốt 17 năm đó, Chi nhánh NHCT Chương Dương
luôn khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế, đứng vững và
phát triển trong cơ chế mới.
2.1.2. Mô hình tổ chức.
Để đáp ứng nhu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động ngân
hàng, và được sự cho phép của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam, bắt đầu
từ 1/4/2005 Chi nhành NHCT khu vực Chương Dương sẽ họat động theo
mô hình hiện đại mới gồm 11 phòng ban.
- Phòng kế toán giao dịch.
- Phòng Tài trợ thương mại.
- Phòng Khách hàng số 1.
- Phòng Khách hàng số 2.
- Phòng Khách hàng cá nhân.
- Phòng Thông tin điện toán.
Trang 24
- Phòng Tổ chức hành chính.
- Phòng tiền tệ - kho quỹ.
- Phòng Kiểm soát nội bộ.
- Phòng Tổng hợp tiếp thị
- Phòng Kế toán tài chính.
Và 11 quỹ tiết kiệm
Với tổng số 132 cán bộ công nhân viên. Trong đó:
- Thạc sĩ: 2 người
- Đại học: 83 người

- Cao đẳng: 14 người
- Trung cấp và chứng chỉ nghiệp vụ Ngân hàng: 22 người
- Sơ cấp, chưa đào tạo: 11 người.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY CHI NHÁNH NHCT KHU VỰC
CHƯƠNG DƯƠNG
Trang 25

×