Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.61 KB, 21 trang )

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I/ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1- Khái quát về Ngân hàng Thương mại:
Ngân hàng Thương mại trước hết là một doanh nghiệp,vì Ngân hàng
thương mại hoạt giống như các doanh nghiệp khác: có vốn riêng, mua vào, bán
ra,có chi phí và thu nhập, có nghĩa vụ nộp thuế cho Ngân hàng Nhà nước, có thể
lãi hoặc lỗ, có thể giầu nên hoặc phá sản.
Ngân hàng Thương mại kinh doanh dịch vụ tiền tệ, không trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất như các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh
doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho qúa trình sản xuất , lưu thông và phân
phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh góp phần tăng nhanh tốc độ phát
triển kinh tế.
Nói tóm lại Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền gửi đó để cho vay đầu tư thực hiện nghiệp vụ triết
khấu và làm các phương tiện thanh toán.
Ngân hàng Thương mại có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân về nền
kinh tế càng phát triển cao, hoạt động của Ngân hàng Thương mại càng đi sâu
vào đời sống kinh tế của đất nước.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại mang tính cạnh tranh cao độ.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật hoạt động tự nhiên, không
lệ thuộc vào nhuận thực hoặc chọn lựa chủ quan của con người. Mục tiêu của
kinh doanh, là tối đa hoá lợi nhuận, an toàn trong kinh doanh không ngừng gia
tăng doanh thu. Nên cạnh tranh không ngừng xảy ra nên thị trường đây chính là
chìa khoá của mỗi doanh nghiệp để đạt được tham vọng trong thương trường và
cạnh trạnh là điểu không tránh khỏi. Ngân hàng Thương mại ra đời trên cơ sở
sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển và nền kinh tế ngày càng cần đến
hoạt động của Ngân hàng Thương mại với các chức năng , vai trò của mình
nhất là chức năng trung gian tín dụng.Ngân hàng Thương mại đã trở thành bộ


phận thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại
hoạt động một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình
sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt
động tín dụng Ngân hàng Thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền
cung ứng trong lưu thông . Tiền tệ là kết của quá trình phát sinh lâu dài của sản
xuất hàng hoá. Nó ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của việc mở rộng giao lưu kinh
tế, mở rộng thị trường làm cho kinh tế hàng hoá phát triển của quá trình sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Trong quá trình đó đã phát triển yêu cầu vay mượn
vốn lẫn nhau giữa các thương gia nhằm đáp ứng cho sản xuất và lưu thông hàng
hoá. Vốn được chuyển từ người thừa vốn sang người thiếu vốn và phải có một
Ngân hàng đứng ra làm trung gian để cho người thừa vốn và người thiếu vốn
gặp nhau. Thông qua hoạt động tín dụng là chiếc“cầu nối” đưa họ đến với nhau,
dần dần thiết lập nên mối quan hệ mật thiết với nhau đó là quan hệ vay mượn.
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên
cơ sở “đi vay” để “cho vay”. Đây là hình thức sơ khai của tín dụng. Chính trên
cơ sở của sự phát triển đó Ngân hàng cũng đồng thời xuất hiện, trong cuốn Tư
Bản (Tập III, phần II) Các Mác đã viết “Một mặt Ngân hàng là sự tập trung tư
bản tiền tệ của những người có tiền cho vay, mặt khách nó là sự tập trung của
những người đi vay”.
Như vậy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng từ buổi sơ khai bắt đầu từ
hoạt động tín dụng và cho đến nay vẫn bằng con đường đó.
Trong qúa trình hoạt động của Ngân hàng Thương mại đáp ứng nhu cầu
của thị trường dẫn tới sự phân chia và hình thành nên hệ thống Ngân hàng hai
cấp: Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ quản lý vĩ mô hoạt động Ngân hàng
và các Ngân hàng Thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Như
vậy hoạt động của Ngân hàng Thương mại rất đa dạng phong phú và có phạm vi
rộng lớn ở quy mô, tính toàn cầu, tính hiện đại trong công nghệ Ngân hàng.
2. Nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Nghiệp vụ Ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc Ngân hàng

thường làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. Các nghiệp vụ Ngân hàng
Thương mại có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động,
tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Các nghiệp vụ cơ bản, chủ yếu của Ngân hàng Thương mại bao gồm:
- Nghiệp vụ huy động vốn.
- Nghiệp vụ sử dụng vốn.
- Một số nghiệp vụ khác.
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là nghiệp vụ chủ yếu để tạo nên nguồn vốn
kinh doanh của Ngân hàng, Ngân hàng có thể huy động vốn bằng một trong hai
cách sau:
Nhận tiền gửi: Đây là nghiệp vụ mang tính truyền thống, đây là nghiệp vụ
nhận tiền gửi một cách thụ động, nó phụ thuộc vào ý muốn của người có tiền
gửi vào Ngân hàng.
- Phát hành các phiếu nợ: Có thể ngắn hạn và có thể là dài hạn, đây là
hình thức huy động vốn chủ động tức là Ngân hàng có kế hoạch ấn định được
thời gian và số lượng cần phát hành. Để thực hiện được nghiệp vụ này, Ngân
hàng sử dụng công cụ chính lãi suất.
Vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại chủ yếu là vốn đi vay và vốn
tự tạo, vốn tự chỉ có thể chiếm một phần nhỏ trong tổng số vốn tín dụng.
Vốn đi vay của Ngân hàng Thương mai bao gồm: Tiền vay trên thị
trường, tiền gửi, tiền vay trên thị trường tiền tệ, tiền vay trên thị trường trái
phiếu, tiền vay chiết khấu của Ngân hàng Trung ương tất cả gộp lại thành nguồn
vốn tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Trong quá trình sử dụng các nguồn vốn tiền gửi và vay trên thị trường,
công nghệ Ngân hàng đã tạo ra một nguồn vốn mới gọi là tự tạo để có thêm bổ
sung chho nhu cầu tín dụng và đầu tư cho các ngành kinh tế, cung ứng thêm
phương tiện thanh toán cho các doanh nghiệp, việc tổ chức kinh tế để mở rộng
sản xuất kinh doanh trong cả nước.
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn: Đây là nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Thương
mại, nó thể hiện ở nhiều Ngân hàng, dư nợ chiếm trên 70% tổng tài sản có. Đây

là nghiệp vụ sinh lời cao nhất mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho Ngân hàng.
Song đây cũng là nghiệp vụ mang lại rủi ro nhiều nhất cho Ngân hàng.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, Ngân hàng quan tâm nhiều hơn đến lợi
nhuận có tính thanh khoản của các hợp đồng cho vay chỉ ở vào vị trí thứ yếu vì
Ngân hàng không thể đòi nợ trước hạn nếu quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng
với khách hàng vẫn diễn ra bình thường.
Ngoài ra Ngân hàng còn đầu tư vào mua công trái, trái phiếu, tín phiếu
kho bạc giấy tờ có giá do Kho bạc Nhà nước đại diện cho Chính phủ phát hành
và các giấy tời có giá có khả năng thanh toán cao và trách nhiệm cao của các
Công ty lớn.
Bất cứ chứng khoán nào cũng có thể đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng
nếu Ngân hàng chủ yếu quan tâm đến việc nâng cao thanh khoản thì đầu tư vào
các tín phiếu do Kho bạc phát hành.
Mặt khác Ngân hàng đầu tư vào các chứng khoán nhằm phân tán.
2.3. Một số nghiệp vụ khác: Ngân hàng thực hiện kinh doanh và làm dịch vụ
hưởng hoa hồng theo sự uỷ thác của khách hàng, các nghiệp vụ này bao gồm:
- Nghiệp vụ thu hộ, chi hộ.
- Nghiệp vụ uỷ thác.
- Mua hộ bán hộ.
- Môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại tập trung chủ yếu vào nhận tiền
gửi và cho vay. Đó là hai mặt hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng nhằm đáp
ứng nhu cầu tạm thời thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp,các tổ chức kinh tế
hoặc cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng hàng ngày.
Xét trên góc độ khác, khi hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng và
phát triển một cách đa dạng , phong phú, với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh
tế, quan hệ tín dụng hàng ngày càng mở rộng về đối tượng và quy mô thì hoạt
động của tín dung của Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Để các Ngân hàng Thương mại có tồn tại và phát triển đứng vững trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường và để phục vụ nền kinh tế ngày một

tốt hơn, đòi hỏi các Ngân hàng phải thực hiện có hiệu quả các hoạt động tín
tụng hay nói cách khác là phải nâng cao chất lượng tín dụng.
3. Vai trò của Ngân hàng Thương mại:
- Ngân hàng thương mại giúp doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản
xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia,
tạo điều kiện phát triển kinh tế.
- Ngân hàng Thương mại tạo môi trường cho việc thực hiện chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
- Ngân hàng Thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại
giữa các quốc gia.
II. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
Quan niệm về chất lượng tín dụng không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng trực tiếp mà nó còn được thể hiện qua hiệu quả sử dụng vốn tín
dụng của khách hàng vay, nói rộng hơn nó được thể hiện qua sự tăng trưởng và
phát triển của các ngành cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Chỉ có trên cơ sở
hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của khách hàng thì chất lượng tín dụng ngân
hàng mới được đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ nét ở một số khía cạnh sau
đây:
a - Chất lượngtín dụng nhìn từ phía khách hàng vay vốn:
Một khoản tín dụng được đánh giá có chất lượng đối với người vay khi
khoản tín dụng đó bù đắp một cách kịp thời, đầy đủ nhu cầu thiếu hụt về vốn
của khách hàng vay. Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn
ra nhịp nhàng, làm tăng sản lượng hàng hoá sản xuất ra, tăng vòng quay vốn và
do đó tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b - Nhìn từ lợi ích xã hội:
Dưới giác độ này, tín dụng được coi là có chất lượng khi nó hỗ trợ và làm
tăng hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp đơn lẻ, tạo điều kiện để những
doanh nghiệp này thực hiện tốt nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước giải quyết

được việc làm cho người lao động, tạo nên tốc độ phát triển chung của nền kinh
tế. Đồng thời, chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng sẽ góp phần tích cực vào
việc thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Bên cạnh đó, khi sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhu cầu của
xã hội và của từng thành viên sẽ được đáp ứng một cách tốt hơn.
c - Từ phía ngân hàng:
Với ngân hàng, chất lượng tín dụng được xác định thông qua các chỉ tiêu
cơ bản sau đây:
- Phục vụ tốt sự phát triển của các ngành, các địa phương theo định
hướng của Nhà nước qua từng thời kỳ.
- Các khoản tín dụng được thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng, có
hàng hoá, vật tư tương đương làm đảm bảo.
- Các khoản tín dụng được thu hồi đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi góp
phần tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm thiểu các khoản
nợ quá hạn, nợ khó đòi, trên cơ sở đó, tăng doanh lợi cho hoạt động của các
ngân hàng thương mại.
2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại:
Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư tín dụng, góp phần điều hoà
nguồn vốn trong xã hội từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Giúp cho Ngân hàng có
một nguồn vốn nhất định và giải quyết quan hệ cung cầu về vốn. Đồng thời làm tăng
tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền vốn. Chính vì vậy, chất lượng tín dụng tạo điều
kiện cho Ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế. Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền
mặt tronglưu thông. Thông qua cho vay bằng chuyển khoản các Ngân hàng có khả
năng mở rộng tiền ghi sổ bấp nhiều lần so với số tiền thực có. Vì vậy tín dụng còn là
nguyên nhân của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các
Ngân hàng cung cấp đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Tín dụng là công cụ để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước về phát triển kinh tế. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu

quả sản xuất xã hội, đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiền tàmg về tài
nguyên, lao độg, tiền vốn, đảm bạ chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển cân đối giữa
các ngành nghề, các vùng trong cả nước theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât
nước.
2.1. Đối với Ngân hàng:
Chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hoá quan hệ tín dụng, các thủ
tục về tín dụng được đơn giản hoá, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc sẽ
tạo điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng, từ đó đi đến hạn chế và xoá bỏ nạn
cho vay nặng lãi, góp phân lành mạnh hoá quan hệ tín dụng.
Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng
thương mại: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp, Ngân hàng muốn tồn
tại và phát triển thì hoạt động phải sinh lời. Bởi vậy cũng như tất cả các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển thì Ngân
hàng phải giải quyết được các mâu thuẫn trong quá trình kinh doanh: mâu
thuẫnvề giá cả, mức cung cầu của vốn...
Bởi vì chất lượng tín dụng cho phép Ngân hàng có những khách hàng
trung thành, khách hàng có quan hệ thường xuyên và gắn bó lâu dài với Ngân
hàng vì đối với Ngân hàng tạo lập củng cố và phát triển được ngày càng nhiều
khách hàng truyền thống. Ngân hàng phải thiết lập được nhiều khách hàng trung
thành, các khách hàng trung thành này sẽ không bỏ Ngân hàng mà ra đi với các
Ngân hàng khác vì thế Ngân hàng phải quan tâm đến lợi ích, nhu cầu của họ.
2.2. Đối với khách hàng:
Chất lượng tín dụng tạo lòng tin đối với khách hàng, trong điều kiện nền
kinh tế mở cửa khách hàng có thể lựa chọn Ngân hàng này làm đối tác cho
mình. Vì tiền họ gửi vào Ngân hàng là đồng tiền quay vòng và sinh lời. Nếu là
một Ngân hàng uy tín trên thị trường thì Ngân hàng đó gặp rất nhiều thuận lời
và giao dịch với những khách hàng lớn thậm chí có cả khách hàng nước ngoài.
Để tạo uy tín hay lòng tin nào đó củanhg thì ko khó nhưng Ngân hàng phải làm
sao tạo được tin tưởng khi khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng, khi khách
hàng đến giao dịch mà Ngân hàng đó để lại ấn tượng sâu sắc như thái độ giao

tiếp niềm nở, phục vụ chu đáo nhiệt tình thì khách hàng đó sẽ tuyên truyền cho
Ngân hàng. Đây là điều thuận lợi nhất cho Ngân hàng. Điều này có nghĩa là
khách hàng chỉ đến với Ngân hàng mà tạo điều kiện giúp đỡ họ thực hiện có hiệ
quả hoạt động thông qua quan hệ tín dụng, dịch vụ so với Ngân hàng khác. Và
điều này cũng có tác dụng tích cực trở lại đối với Ngân hàng trong việc tăng
thêm số lượng khách hàng, thu hút nguồn vốn và mở rộng tín dụng dịch vụ.
Chất lượng tín dụng góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh và lành
mạnh tình hình tài chính của khách hàng, chất lượng tín dụng được đảm bảo
cũng có nghĩa là Ngân hàng phát triển tốt nhờ vậy Ngân hàng có điều kiện cung
cấp vốn tín dụng đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt
khác để đảm bảo chất lượng tín dụng thì Ngân hàng tiến hành việc kiểm tra,
kiểm soát hoạt động vốn tín dụng của khách hàng, qua đó cùng với khách hàng
uốn nắn và chấn chỉnh những sai sót trong hoạt động tài chính của họ.
Việc kiểm tra, kiểm soát sử dụng vốn tín dụng của khách hàng là việc cần
thiết vì nếu như khách hàng xin vay vốn của Ngân hàng mà Ngân hàng không
biết khả năng thanh toán của họ trong những năm tới hay tài chính của họ làm
ăn sa sút hay khách hàng xin vay vốn không đúng mục đích vì họ xin vay vốn
vào mục đích sản xuất kinh doanh nhưng họ lại sử dụng vào mục đích khác. Nếu
Ngân hàng không biết được mà vẫn cho vay đó là sai lầm. Cho nên để tránh sai lầm
thì Ngân hàng phải tiến hành kiểm tra, khiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của
khách hàng để tránh gây khó khăn cho cả hai bên. Qua phân tích ta thấy được việc
củng cố và tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách hàng vì sự
tồn tại và phát triển lâu dài của Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
3.1- Chỉ tiêu định tính
• Chính sách tín dụng: Bao gồm các chủ trương, đường lối đảm bảo cho
hoạt động tín dụng đi đúng mục tiêu của ngân hàng đồng thời tuân thủ tốt qui
định của Chính phủ, NHNN, nó có liên qua đến việc mở rộng hay thu hẹp tín
dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng trong từng thời kỳ và có ý nghĩa quyết định sự
thành bại của một ngân hàng. Bất cứ một ngân hàng nào muốn có được chất

lượng tín dụng cao đều phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của
ngân hàng, phải căn cứ vào đòi hỏi của thị trường.
1* Công tác huy động vốn: Huy động vốn đối với ngân hàng được coi như
hoạt động cung cấp đầu vào cho sản xuất để tạo ra sản phẩm đầu ra ở các
doanh nghiệp. Nếu nguồn vốn không được huy động đầy đủ về số lượng
và phù hợp về thời hạn cũng như loại tiền thì ngân hàng khó có thể đáp
ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng một cách nhanh chóng và
đầy đủ. Do vậy, chất lượng tín dụng khó có thể được nâng cao, thậm chí
còn trở nên kém hơn.
2* Công tác tổ chức của ngân hàng: Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức khoa
học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ
nhân viên trong cùng một phòng, giữa các phòng ban với nhau và cao
hơn là giữa các ngân hàng trong cùng hệ thống, từ đó nắm bắt và triển
khai tốt việc đáp ứng nhu cầu khách hàng, nâng cao được chất lượng hoạt
động tín dụng và đảm bảo được tính thống nhất và hiệu quả trong quá
trình hoạt động.
3* Trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên tín dụng: Đây có thể coi là một
trong những yếu tố quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến sự thành
bại của không chỉ hoạt động tín dụng mà cả sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng. Hoạt động kinh tế đối ngoại càng phức tạp, công nghệ ngân
hàng càng hiện đại thì đòi hỏi trình độ, năng lực của cán bộ ngân hàng
phải được nâng cao. Với một đội ngũ cán bộ nhân viên có nghiệp vụ giỏi,
có đạo đức và năng lực trong sáng tạo - quản lí sẽ giúp ngân hàng hạn chế
được những rủi ro, nắm bắt được những cơ hội tốt để cho vay và tất yếu
sẽ dẫn đến nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng .
4* Qui trình tín dụng: Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước,
công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho
vay bắt đầu từ việc xem xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ
nhằm bảo đảm an toàn vốn tín dụng . Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào
việc lập ra một qui trình tín dụng đảm bảo tính khoa học vừa nhanh

×