VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI
QUỐC DOANH Ở VIỆT NAM
1.1. KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
Trước năm 1986, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta là xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất với hai hình thức chủ yếu là kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể. Trên thực tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã không
được thừa nhận và làm cho nền kinh tế mất cân đối và rơi vào trạng thái trì
trệ trong một thời gian dài.
Từ Đại hội VI (1986), Đảng và Nhà nước đã khẳng định và nhất quán
thực hiện chiến lược nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị thường có sự quản lý của Nhà nước định hướng XHCN. Theo đó sở hữu
tư nhân được công nhận, kinh tế ngoài quốc doanh được tồn tại và phát triển
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Hiện nay, nhất là sau Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX và Quốc hội khoá X đã thông qua sửa đổi Hiến pháp thì
kinh tế ngoài quốc doanh càng được tôn trọng và đối xử bình đẳng trong nền
kinh tế.
1.1.1.Khái niệm và phân loại.
Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế dựa trên sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Các đơn vị, doanh nghiệp ngoài quốc doanh
bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công tyTNHH, công ty Cổ phần, công ty liên
doanh và các đơn vị theo hình thức Hợp tác xã.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh đã có
sự phát triển nhanh chóng và đạt một số kết quả nhất định. Với chính sách
khuyến khích và hỗ trợ hoạt động cho thành phần này, số lượng các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta đã tăng lên nhanh chóng. Năm 1991 mới
chỉ có 123 doanh nghiệp với số vốn điều lệ là 63 tỷ đồng thì đến năm 1996 đã
có 26.091 doanh nghiệp với số vốn điều lệ lên tới 8.257 tỷ đồng. Đến năm 1998,
kinh tế ngoài quốc doanh đã có 2.990 hợp tác xã, 24.667 doanh nghiệp tư nhân
và 1.217.300 hộ kinh tế cá thể.Và theo thống kê 2002,cả nước có 3.218 hợp tác
xã, 32.985 doanh nghiệp tư nhân ,1.326 công ty cổ phần.
Ở nước ta hiện nay,xét cụ thể về loại hình doanh nghiệp,thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá thể và cá nhân kinh doanh.
Công ty là loại hình doanh nghiêp hoạt động theo luật công ty,là đơn vị
kinh tế do các cá nhân bỏ vốn thành lập theo luật doanh nghiệp,trách nhiệm
quyền hạn cũng như lợi nhuận được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.Công ty có
hai loại:
*Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần.
- Cổ đông có thể là một tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là
ba và không hạn chế tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo
quy định pháp luật về chứng khoán.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách
nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn góp vào
công ty.
*Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của
tất cả các thành viên phải được đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty. Các
phần góp vốn được ghi trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát
hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn góp giữa các
thành viên được thực hiện tự do. Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người
không phải là thành viên phải được sự nhất trí của các thành viên đại diện với
ít nhất 3/4 số vốn điều lệ của công ty.
*Hợp tác xã là đơn vị kinh tế do nhiều lao động cùng nhau góp vốn để
sản xuất kinh doanh. Hợp tác xã hoạt động theo luật hợp tác xã và trên nguyên
tắc bình đẳng, dân chủ, cùng hưởng lợi, cùng chịu rủi ro với mọi thành viên
nhằm kết hợp sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề
sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ quan cao nhất là Đại hội xã viên, cơ quan
quản lý các hoạt động của hợp tác xã là ban chủ nhiệm hợp tác xã được xã viên
bầu theo luật hợp tác xã.
*Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình trong quá trình sản xuất kinh
doanh.
*Hộ kinh doanh cá thể là một thực thể kinh doanh do một cá nhân
hoặc hộ gia đình làm chủ, kinh doanh tại một địa điểm cố định, không thường
xuyên thuê lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Bộ phận kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và từng bước
hoàn thịên đã và đang thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế.Tuy
nhiên,sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh cần sự quan tâm rất nhiều
của Đảng và Nhà nước và sự nỗ lực của mọi ngành, mọi cấp.
1.1.2.Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
- Những đặc điểm về khả năng tài chính
Do sự phát triển của thành phần kinh tế này mới được thừa nhận hơn
15 năm và hoạt động trong môi trường luật pháp đang được tạo dựng nên
kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều vướng mắc trong quá trình phát triển.
Mặc dù trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước khuyến khích tạo
điều kiện thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng nhìn chung độ
tập trung vốn của thành phần này chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở nước ta đều có quy mô nhỏ và chủ yếu thuộc loại hình doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Nếu như kinh tế Nhà nước vốn phần lớn được hỗ trợ từ ngân sách thì
kinh tế ngoài quốc doanh thì không nhận được sự hỗ trợ này mà nguồn vốn
kinh doanh chủ yếu được khai thác từ các nguồn: vốn tự có, vốn huy động trên
thị trường bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các nguồn vốn đi vay.
Do vậy, khả năng tài chính của kinh tế ngoài quốc doanh còn nghèo nàn, vốn tự
có nhỏ bé không thể đáp ứng được cho nhu cầu sản xuất kinh doanh.
Điều này thể hiên rõ do nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, sự tích
luỹ tư bản không được nhiều do đó vốn tự có khi đưa vào sản xuất kinh doanh
không đáp ứng đủ. Với cách giải quyết huy động trên thị trường đòi hỏi doanh
nghiệp phải có quy mô lớn, có uy tín trên thị trường, hơn nữa cũng yêu cầu có
một thị trường vốn hoàn chỉnh với một hệ thống các tổ chức trung gian đủ
mạnh để có khả năng đảm đương việc bảo lãnh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu
công ty, nó còn phụ thuộc vào trình độ dân trí và sự sôi động của thị trường
thứ cấp. Ở nước ta, hình thức này vẫn chưa được áp dụng rộng rãi mà chỉ
dừng ở việc phát hành cổ phiếu trong nội bộ công ty cổ phần. Kinh tế ngoài
quốc doanh mới hình thành với quy mô còn nhỏ, uy tín còn hạn chế do đó chưa
đáp ứng được các yêu cầu trên. Vì vậy chỉ còn cách là vay các Ngân hàng
thương mại, đây là nguồn vốn dồi dào có thể đáp ứng được quá trình sản xuất
kinh doanh của kinh tế ngoài quốc doanh.
Mặc dù hạn chế ở khả năng tài chính song họ hoàn toàn có quyền tự chủ
trong kinh doanh và với sự năng động và khả năng nhạy bén,thành phần kinh
tế này lại sử dụng vốn hết sức hiệu quả, do đó có sức cạnh tranh lớn trên thị
trường.
- Đặc điểm về trình độ, công nghệ sản xuất.
Do hạn chế về vốn nên năng lực sản xuất thấp kéo theo trình độ kỹ thuật
công nghệ của kinh tế ngoài quốc doanh còn lạc hậu, chủ yếu vẫn là kỹ thuật
công nghệ sử dụng nhiều lao động. Theo số liệu điều tra của Viện nghiên cứu
kinh tế Trung ương năm 2000 thì chỉ có 26% doanh nghiệp và 21% số công ty
sử dụng công nghệ tương đối hiện đại, 39,5% doanh nghiệp và 21,2% công ty
sử dụng công nghệ cổ truyền, 36,5% doanh nghiệp và 61,3% công ty kết hợp cả
công nghệ hiện đại và cổ truyền. Công nghệ lạc hậu là một trong những nguyên
nhân chính làm cho các sản phẩm kém sức cạnh tranh và thị phần hàng hoá bị
giới hạn trong khuôn khổ chật hẹp. Tuy nhiên đây cũng là đặc điểm chung của
các doanh nghiệp nước ta, kể cả doanh nghiệp Nhà nước phù hợp với đặc điểm
của nền kinh tế còn kém phát triển,thiếu năng động,mang nặng tính thuần
nông của nước ta.
-Đặc điểm về trình độ quản lý, kinh doanh, kỹ năng người lao
động.
Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp thuộc kinh tế ngoài
quốc doanh có từ nhiều nguồn khác nhau: nông dân, thợ thủ công, tầng lớp trí
thức. Hơn nữa, kinh tế nước ta mới chuyển sang kinh tế thị trường nên những
kiến thức về kinh tế, những hiểu biết về quy luật kinh doanh không phải ai
cũng có thể nắm bắt được. Điều này trước hết gây khó khăn trong việc điều
hành doanh nghiệp cho chính những người làm chủ. Họ gặp nhiều hạn chế,
vướng mắc trong công tác tổ chức nhân sự, trong việc hoạch định kế hoạch
cũng như phân tích dự án, các cơ hội đầu tư.Bên cạnh đó,đội ngũ người lao
động phần lớn xuất thân từ dân nghèo, nông thôn, trình độ học vấn còn nhều
hạn chế nên kĩ năng cũng như kỉ luật lao động còn thấp,chưa đáp ứng đủ nhu
cầu cho công việc.
Việc thực hiện Pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nước trong
các doanh nghiệp này chưa được thực hiện nghiêm túc. Phần lớn, các doanh
nghiệp hạch toán kế toán chủ yếu bằng kinh nghiệm bản thân. Do đó, họ gặp
nhiều khó khăn khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vì không chứng thực được
năng lực kinh doanh cũng như tình hình tài chính của bản thân một cách rõ
ràng.
-Đặc điểm về môi trường kinh doanh.
Các chính sách chế độ của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ,
chưa có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi đầu tư
vốn vào sản xuất kinh doanh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động. Các văn kiện
của Đảng các chủ trương của Nhà nước và Chính phủ đã nêu rõ và công nhận
vai trò quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ chế thị trường
nhưng việc cụ thể hoá thành quy định và hướng dẫn chi tiết thi hành để tạo
môi trường thuận lợi đối với kinh tế ngoài quốc doanh đến nay vẫn còn nhiều
hạn chế.
Tính ổn định của chính sách kinh tế- tài chính còn thấp, thiếu tính kích
thích mà chủ yếu là chính sách thuế và pháp luật còn nặng tính ràng buộc về
nguyên tắc, chế độ.
Chính sách thuế còn nhiều ưu đãi, chiếu cố cho thành phần kinh tế
Nhà nước, chưa đảm bảo công bằng, bình đẳng và sự cạnh tranh lành mạnh
giữa các thành phần kinh tế. Tình trạng còn nhiều đơn vị kinh tế ngoài quốc
doanh phải ngụy trang núp bóng dưới danh nghĩa kinh tế Nhà nước hòng
mong thu được lợi nhuận cao là bằng chứng rõ ràng về sự bất bình đẳng trong
cư xử ,thể hiện ở việc ưu đãi quá mức đối với kinh tế Nhà nước.
Các chính sách Nhà nước chưa thực sự khuyến khích kinh tế ngoài
quốc doanh tăng cường sử dụng công nghệ mới, đào tạo cán bộ quản lý, nâng
cao trình độ khoa học kỹ thuật. Thiếu chính sách bảo hộ quyền lợi chính đáng
của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân về các chế độ người lao
động BHXH, BHYT trong thời gian làm việc, khi về già.
Thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nhũng nhiễu.Tình trạng quan
liêu, cửa quyền trong quản lý kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc
doanh nói riêng vẫn đang là nhân tố cản trở không nhỏ đối với sản xuất kinnh
doanh.Mặt khác, môi trường sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm cũng gặp
nhiều khó khăn do sức cạnh tranh còn kém.
Tóm lại, các đặc điểm nói chung và môi trường kinh doanh của thành
phần kinh tế này nói riêng còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này.Do đó, cần có sự quan
tâm đúng mực của các ngành các cấp và đặc biệt là của ngành ngân hàng tạo
để điều kiện cho họ trong việc tiếp cận vốn ngân hàng phục vụ nhu cầu chính
đáng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.3.Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam.
Trong xu thế mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần được thừa nhận và tạo điều kiện để phát triển. Kinh tế ngoài
quốc doanh đã và đang chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trong nền
kinh tế nước ta hiện nay.Điều này được thể hiện ở:
1.1.3.1. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo điều kiện khai thác tối đa nguồn
lực của đất nước.
Sau hơn 15 năm đổi mới, mặc dù đạt được nhiều thành tựu nhưng trình
độ nền kinh tế nước ta vẫn còn thấp trong khi tiềm năng phát triển của nền
kinh tế còn rất lớn, kinh tế Nhà nước không thể khai thác và tận dụng hết được
những tiềm năng này. Vì vậy cần phải phát triển kinh tế ngoài quốc doanh mới
có thể khai thác tốt các nguồn lực của đất nước. Việc khuyến khích thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh phát triển sẽ huy động được một lượng vốn lớn đang
nằm trong dân, tạo điều kiện cho năng lực con người được giải phóng và phát
huy mạnh mẽ. Mọi cá nhân, tổ chức đều cố gắng phát huy tối đa khả năng của
mình, tìm kiếm, khai thác các nguồn lực vì lợi ích của chính bản thân. Đó là
động lực kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát
triển.
1.1.3.2. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tạo điều kiện thu hút lao động, góp phần giảm tỷ
lệ thất nghiệp trong xã hội.
Việt nam là một nước có dân số trẻ, lực lượng lao động đông đảo, kinh tế
Nhà nước không thể tạo ra đầy đủ công ăn việc làm cho tất cả. Hơn nữa trải
qua một giai đoạn nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp đã bộc
lộ rõ những mặt non kém của công tác quản lý và sử dụng lao động cho nên với
chủ trương giảm biên chế, kinh tế ngoài quốc doanh là đối trọng để thu hút lao
động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan Nhà nước và hành chính sự nghiệp. Bên
cạnh đó, do tính đa dạng trong loại hình của kinh tế ngoài quốc doanh, nó có
mặt trong tất cả mọi nghành nghề lĩnh vực, có mặt ở cả nông thôn và thành
thị, có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân, một gia đình, hay một số cổ
đông liên kết lại dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần cùng
với việc sử dụng kỹ thuật sản xuất cần tương đối nhiều lao động. Do vậy, kinh
tế ngoài quốc doanh là nơi tạo việc làm nhanh nhất, dễ dàng hơn so với kinh
tế Nhà nước.
1.1.3.3. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển
nhanh chóng, đóng góp ngày càng lớn vào tỷ trọng GDP của quốc gia .
Mặc dù còn lép vế hơn so với kinh tế Nhà nước song sự đóng góp vào GDP của kinh tế ngoài
quốc doanh trong những năm qua đã chứng tỏ được vai trò cần thiết của thành phần kinh tế này
đối với sự phát triển của đất nước.Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước phân theo ngành kinh tế
Đơnvị:tỷđồng
Thành phần kinh tế Năm200
0
% Năm200
1
% Năm200
2
%
1. Kinh tế Nhà nước
2.Kinh tế ngoài quốc
doanh
117.818
176.727
40
60
120.840
224.416
35
65
124.732
267.865
32
68
Tổng số 294.545 10
0
345.256 10
0
392.597 10
0
Nguồn:Niên giám thống kê 2002
Với tỷ trọng GDP tăng dần qua các năm: 60% năm 2000, 65% năm 2001
và 68% năm 2002, hoạt động của kinh tế ngoài quốc doanh đã khẳng định
được vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ,khác với kinh tế Nhà
nước, thành phần kinh này phải tự thân vận dộng để vươn lên mà không hề có
một sự ưu đãi nào từ phía Nhà nước, do đó, họ đã cố gắng phát huy mọi nhân
tài vật lực nhằm khẳng định vị trí của mình trên thị trường.Trong mấy năm
qua, sự phát triển mạnh mẽ loại hình kinh tế này đã góp phần làm tăng GDP,
tăng ngân sách Nhà nước, qua đó thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện
cho lực lượng sản xuất phát triển.
1.1.3.4 Kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra sự cạnh tranh, góp phần tạo ra sự phát triển sôi động
của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã làm tăng sức
cạnh tranh trên thị trường. Bởi vì, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển trên
nhiều lĩnh vực, ngành nghề làm cho thị trường hàng hoá trở nên phong phú, đa
dạng, sôi động, tạo ra sự thu hút. Trước sự tồn tại và phát triển của kinh tế
ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước buộc phải phân tích, hoạch
định chiến lược kinh doanh cho phù hợp hơn nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của mình. Điều này càng khẳng định rằng việc phát triển kinh tế ngoài
quốc doanh không những không làm suy yếu kinh tế Nhà nước mà còn thúc
đẩy thành phần này phát triển mạnh mẽ hơn. Thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh đóng vai trò hỗ trợ cho kinh tế Nhà nước phát triển, giải quyết những
yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà kinh tế quốc doanh không đảm nhận hết.
Kinh tế ngoài quốc doanh vừa là đối thủ cạnh tranh quyết liệt vừa là đối
tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ
sản phẩm, cung cấp đầu vào cho kinh tế Nhà nước. Sự kết hợp sản xuất- tiêu
thụ giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền
sản xuất mới của xã hội, giúp cho thời gian sản xuất tiêu thụ được rút ngắn và
sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng ngày càng tốt hơn.
Như vậy, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và tăng
cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các
thành phần kinh tế buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể nói
riêng phải luôn đổi mới hoàn thiện để tồn tại và phát triển. Kinh tế ngoài quốc
doanh còn là môi trường thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Trong nền kinh tế mở cửa hiện nay, giao lưu kinh tế giữa các nước phát triển
mạnh, nếu không có một chính sách đúng đắn thì chúng ta sẽ không thể khai
thác hết được tiềm năng của thành phần kinh tế này.
1.1.3.5 Sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh góp phần vào quá trình Công nghiệp hoá - Hiện
đại hoá đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra mục tiêu đến
năm 2010, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Bên cạnh đó cũng đặt
ra mục tiêu đến năm 2005 có khoảng 60% doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần
hoá. Như vậy với vai trò của mình, trong những năm tới kinh tế ngoài quốc
doanh sẽ được mở rộng và là nơi tập trung vốn, nhân lực vào các ngành kinh
tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin, điện tử... cũng
như có thể lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
không cần nhiều vốn, có mức lợi nhuận không cao mà các nhà đầu tư lớn ít
quan tâm tới. Đây cũng là quan điểm của Đảng ta trong quá trình Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước.
1.2.Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng của ngân hàng được
sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất lượng tiền
nhàn rỗi vào quá trình sản xuất xã hội,phù hợp với quá trình vận động liên tục
của vốn.
Ở nước ta, tín dụng ngân hàng không chỉ đóng vai trò quan trọng trong
sự phát triển các thành phần kinh tế nói chung mà còn phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, góp phần vào sự nghiệp CNH-
HĐH đất nước.
1.2.1 Khái niệm Tín dụng ngân hàng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là sản phẩm của nền kinh tế
hàng hoá. Nó là động lực thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên giai
đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, ngày
nay tín dụng được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là quan hệ vay mượn dựa
trên những nguyên tắc:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất
định. Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như
hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản...
- Người đi vay chỉ sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau
khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
người cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay nói cách khác
người đi vay phải trả thêm phần lãi vay.
Trong quá trình phát triển lâu dài của nền sản xuất và lưu thông hàng
hoá quan hệ tín dụng đã hình thành và phát triển thông qua các hình thức: tín
dụng Nhà nước, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển
quyền sử dụng tạm thời một lượng vốn giữa Ngân hàng với khách
hàng trong một thời gian nhất định và sau thời gian đó lượng vốn
được hoàn trả cộng thêm phần lãi trên lượng vốn theo một lãi suất
nhất định.
Tín dụng Ngân hàng được biểu hiện qua các quan hệ sau: quan hệ tín
dụng Ngân hàng với kinh tế Nhà nước, giữa Ngân hàng với kinh tế NQD, với
các cá nhân, quan hệ tín dụng giữa các nước trên thế giới. Trong nền kinh tế,
Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài chính trung gian. Vì vậy, trong quan
hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, Ngân hàng đồng thời vừa là
người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng
nhận tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền
gửi, trái phiếu để huy động trong xã hội. Trái lại với tư cách là người cho vay,
Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp và các cá nhân. Khác với
tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hóa, còn tín dụng
Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ bao gồm tiền mặt và bút tệ -
chủ yếu là bút tệ.
1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau tùy
theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng, sau đây là
một số cách phân loại phổ biến hiện nay:
Căn cứ vào thời gian cho vay, tín dụng gồm có: