Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.29 KB, 25 trang )

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
I - TÍN DỤNG VÀ CÁC HÌNH THỨC TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. Tín dụng - Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
quốc dân :
Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay
và người đi vay trong điều kiện có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian
nhất định. Hay nói một cách khác tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh
mối quan hệ kinh tế mà trong đó mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền
sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện vật cho một cá nhân hay một tổ chức
khác với những ràng buộc nhất định về thời gian hoàn trả, lãi suất, cách thức
vay mượn và thu hồi.
Trải qua quá trình phát triển đã có nhiều hình thức tín dụng khác nhau.
Đầu tiên là tín dụng nặng lãi xuất hiện ở thời kỳ tan rã của chế độ công xã
nguyên thuỷ. Trong thời kỳ này do lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao
động xã hội mở rộng, xã hội đã có sự phân chia giai cấp kẻ giàu người nghèo.
Trong quá trình đầu tiên chủ yếu là cho vay bằng hiện vật, về sau chủ yếu cho
vay bằng tiền. Đây là hình thức cho vay nặng lãi với lãi suất rất cao, không có
giới hạn và là hình thức tín dụng tiêu dùng, chủ yếu để giải quyết nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày.
Sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản cho thấy tín dụng nặng lãi
không còn phù hợp nữa, nó cản trở sự phát triển của nền kinh tế bởi các nhà tư
bản kinh doanh với mục đích lợi nhuận không thể vay với mức lãi suất cao hơn
tỷ suất lợi nhuận. Vì vậy hoạt động của nó ngày càng thu hẹp và tín dụng
thương mại xuất hiện. Đây là hình thức tín dụng giữa các nhà sản xuất kinh
doanh với nhau do đó chủ thể tham gia quá trình vay mượn này cũng là các
nhà sản xuất kinh doanh.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao
hơn giá bán bằng tiền mặt, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem
bán chịu. Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp
với nhau. Vì vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng


của nền sản xuất hàng hoá và tín dụng ngân hàng ra đời.
Mặt khác do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội
thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân
này và nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa, thiếu
vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời gian. Trong khi đó số lượng các khoản
thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi
phải được tiến hành một cách liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ
có ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải
quyết được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì ?.
"Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên
là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với
một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong đó ngân hàng
giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay "
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn
luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp
thời.
Thật vậy, chúng ta xem xét trường hợp sau:
Giả sử: Đã vào đầu mùa hè, nhu cầu về nước giải khát rất lớn và nếu tôi
biết tận dụng cơ hội này thì việc sản xuất ra nước giải khát phục vụ trong hè
không những đem lại lợi nhuận cho tôi mà còn đem lại sự phát triển của nền
kinh tế. Song để mua được một dây chuyền sản xuất nước giải khát thì phải
cần một lượng vốn rất lớn mà nếu một mình tôi sẽ không đủ vốn. Trong khi đó
có một số người khác có một món tiết kiệm do tích luỹ được trong nhiều năm.
Nếu tôi, những người đó gặp nhau và những người đó cung cấp vốn cho tôi thì
kế hoạch của tôi sẽ trở thành hiện thực.
Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu tôi - người thiếu vốn và những
người thừa vốn đó có gặp nhau không? Và trong nền kinh tế thị trường hàng
ngày hàng giờ diễn ra không biết bao nhiêu mối quan hệ như vậy? Nó đã hình
thành nên: một bên là những người có tiền tích luỹ, có khả năng cung cấp và

phía bên kia là những ngưòi có nhu cầu vay cho đầu tư phát triển. Như vậy nảy
sinh vấn đề là làm thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và làm thế nào để
cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các
nguồn tiết kiệm còn đang nằm phân tán trong xã hội. Không phải bất kỳ ai
cũng có khả năng đầu tư hoặc vay vốn trên thị trường tài chính, ngoài ra khi
giao dịch trên thị trường tài chính đòi hỏi chi phí về tiền bạc và thời gian rất
lớn. Do đó các ngân hàng thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tài
chính, hoạt động như một chiếc cầu nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu
cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải quyết được những vấn đề nẩy
sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian tín dụng ngân hàng đóng vai
trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là
người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện pháp
kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại
tiên tiến ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết
kiệm dự trữ trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu
cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà
những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã trở thành tiền hoạt động, biến những
đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung phục vụ cho nhu cầu kinh
doanh. Qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho nền kinh tế
ngày càng phát triển.
2. Các hình thức tín dụng ngân hàng :
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế với xu hướng tự do hoá, các ngân
hàng phải luôn luôn nghiên cứu và đưa ra các hình thức tín dụng khác nhau để
có thể đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của quá trình tái sản xuất, từ đó đa
dạng hóa danh mục đầu tư để mở rộng tín dụng, thu hút khách hàng, tăng lợi
nhuận và thực hiện phân tán rủi ro.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau mà chúng ta tiến hành phân loại các hình
thức tín dụng ngân hàng:
- Căn cứ vào mục đích sử dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây

dựng bất động sản nhà ở đất đai, bất động sản trong lĩnh vực thương mại dịch
vụ.
+ Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệp, thương
mại, dịch vụ.+ Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí
sản xuất như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao
động...
+ Cho vay tiêu dùng cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu
dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn thực hiện
cho vay để trang trải chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành
thẻ tín dụng.
- Căn cứ vào tài sản thế chấp có các hình thức tín dụng ngân hàng sau:
+ Cho vay có tài sản thế chấp: Ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách
hàng để đảm bảo cho việc trả nợ của khách hàng.
. Cho vay cầm cố: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản khách hàng
mang đến cầm cố tại ngân hàng. Tài sản của khách hàng do ngân hàng bảo
quản, trong suốt thời gian cầm cố khách hàng không được sử dụng nhượng
bán, cho thuê...
. Cho vay thế chấp: Là việc ngân hàng căn cứ vào tài sản của khách
hàng để đảm bảo cho khả năng trả nợ của khách hàng. Tài sản không cần
mang đến ngân hàng, khách hàng có quyền sử dụng nhưng không có quyền bán
và cho thuê.
+ Cho vay không có tài sản thế chấp (Tín chấp): Ngân hàng cho vay trên cơ
sở tin tưởng khách hàng, tài sản thế chấp là uy tín, danh dự của khách hàng.
Ngoài ra còn có hình thức cho vay thông qua việc bảo lãnh bằng tín chấp của tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn.
Ví dụ: Hội nông dân Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam.
- Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng có các hình thức tín dụng
ngân hàng sau:
+ Cho vay bằng tiền: Là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được

cung cấp bằng tiền như: Thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp...
+ Cho vay bằng tài sản: Phổ biến là tài trợ thuê mua.
- Căn cứ vào xuất xứ tín dụng có các hình thức tín dụng sau:
+ Cho vay trực tiếp: Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho khách hàng và khách
hàng trực tiếp trả lãi và gốc cho ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua
lại các khế ước hoặc các chứng từ nợ đã phát sinh và còn lại trong thời hạn
thanh toán gồm các hình thức:
• Chiết khấu thương mại.
• Mua các khoản nợ của các doanh nghiệp ( factoring): Là dịch vụ mua các
yêu cầu ( giấy đòi nợ) của các công ty sau đó nhận tiền thanh toán về các
yêu cầu này. Các yêu cầu ở đây thường là các giấy đòi nợ ngắn hạn phát
sinh do cung cấp hàng hoá.
• Tín dụng chứng từ...
- Căn cứ vào thời hạn cho vay có các hình thức tín dụng sau:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn không quá 12
tháng (1 năm). Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động phát sinh
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân...
+ Tín dụng trung hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ trên 12
tháng đến 60 tháng (5 năm). Mục đích là vay vốn để sửa chữa, khôi phục, thay
thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất, đổi mới quy
trình công nghệ và xây dựng mới những công trình loại nhỏ, thời hạn thu hồi
vốn nhanh.
+ Tín dụng dài hạn: Là những khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở
lên. Mục đích sử dụng là để sửa chữa, khôi phục, thay thế tài sản cố định, đổi
mới công nghệ và xây dựng mới đối với những công trình mới... thời hạn thu
hồi vốn lâu.
II - VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ :
Cho đến hiện nay, mọi người đều thống nhất ý kiến cho rằng kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần tạo ra động lực lớn, đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế,
tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, đưa lại sự phồn vinh kinh tế cho
nước ta trong những năm qua. Và để đạt được những kết quả như vậy thì phải
kể đến một nhân tố góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế đất nước đó
chính là tín dụng ngân hàng. Khác so với tín dụng trước đây, trong thời kỳ bao
cấp tín dụng được coi như là một công cụ cấp phát thay ngân sách, vì lẽ đó mà
đã xảy ra tình trạng có nơi cần vốn sản xuất thì không có hoặc không kịp thời
để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong khi đó vẫn có nơi lại có một lượng vốn ứ
đọng tương đối lớn trong xã hội. Ngày nay khi chúng ta chuyển sang nền kinh
tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước thì tín dụng ngân hàng được sử
dụng như một đòn bẩy kinh tế, điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu một
cách hiệu quả, giúp cho nền kinh tế ngày một phát triển.
Biểu hiện:
1. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn nhàn rỗi
trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn :
Sự ra đời của tín dụng ngân hàng đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp
phát triển kinh tế trong những thập kỷ qua. Với chức năng là trung gian tài
chính đứng giữa người gửi tiền và người đi vay ngân hàng đã biến mọi nguồn
ngoại tệ phân tán trong xã hội thành nguồn vốn tập trung, qua đó điều hoà
quan hệ cung cầu về tiền tệ trong xã hội, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách
hàng.
Là một đơn vị kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với mục đích lợi nhuận, các
ngân hàng thương mại luôn tìm cách để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Lợi tức
thu được của các ngân hàng được hình thành từ hai hoạt động đó là: Hoạt
động tín dụng và các dịch vụ của ngân hàng trong đó thu từ hoạt động tín
dụng là chủ yếu. Tín dụng ở đây chúng ta hiểu là hoạt động cho vay của ngân
hàng. Vậy ngân hàng lấy vốn ở đâu ra để cho vay? Phải chăng là vốn tự có của
ngân hàng. Ơ đây các ngân hàng phải huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, cá
nhân và các tầng lớp dân cư trong xã hội sau đó phân phối vốn trở lại một cách
hợp lý. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà các chủ thể “thừa“ vốn có cơ hội

không những bảo tồn vốn mà còn tạo thu nhập (thu lãi), còn đối với chủ thể
thiếu vốn tín dụng ngân hàng giúp họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh hoặc đời sống. Trong công tác huy động vốn một mặt các ngân
hàng phải cố gắng đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn đối với khách hàng mặt
khác phải đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Nguồn vốn nhàn rỗi mà ngân hàng huy động bao gồm:
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế: Đó là thu nhập bằng tiền
của xí nghiệp để bù đắp hao phí vật chất trong quá trình sản xuất, thu nhập
thuần tuý sáng tạo từ các xí nghiệp sản xuất...
+ Vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư...
Bằng các hình thức khác nhau ngân hàng đã động viên, tập trung các
nguồn vốn đó về một mối. Trên cơ sở các nguồn tài chính tạm thời ngân hàng
sẽ tiến hành khai thác và sử dụng một cách triệt để nhằm mang lại hiệu quả
kinh tế cao tránh tình trạng vốn chết, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Thông qua công tác tín dụng, ngân hàng đã đáp ứng được hầu hết các nhu
cầu về vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội, giúp cho quá trình sản xuất
được liên tục, đẩy mạnh quá trình tái sản xuất. Đồng thời việc tập trung và
phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế quốc dân
từ nơi thừa đến nơi thiếu. Bên cạnh việc đáp ứng vốn kịp thời đầy đủ cho các
doanh nghiệp, các ngân hàng còn có những ý kiến đóng góp cho phương án sản
xuất kinh doanh, lựa chọn đối tác thông qua quá trình sử dụng vốn của doanh
nghiệp...
Ngoài ra khi sử dụng vốn vay ngân hàng các doanh nghiệp bị ràng buộc
bởi trách nhiệm hoàn trả vốn gốc + lãi trong thời gian nhất định khi ký kết hợp
đồng tín dụng. Do đó buộc các doanh nghiệp phải hết sức nỗ lực, tận dụng hết
khả năng của mình để sử dụng một cách có hiệu quả nhất nguồn vốn tín dụng
bằng cách động viên vật tư hàng hoá, thúc đẩy quá trình ứng dụng khoa học kỹ
thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội đem lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp và đảm bảo nghĩa vụ với ngân hàng. Như vậy hoạt động tín dụng của
ngân hàng góp phần đẩy lùi lạm phát,thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế

quốc dân.
2. Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở
rộng, đẩy mạnh đầu tư phát triển :
Thực tế cho thấy bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn hoạt động và sản
xuất kinh doanh cũng phải cần có một lượng vốn nhất định, trong trường hợp
muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì cần phải có một lượng vốn lớn hơn.
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt
giữa các doanh nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn phải đổi mới và mở
rộng sản xuất. Vậy lấy vốn ở đâu ra? Và tín dụng ngân hàng là nguồn vốn cơ
bản hình thành nên vốn cố định và vốn lưu động của doanh nghiệp. Thông qua
việc đầu tư tín dụng tín dụng ngân hàng sẽ góp phần hình thành cơ cấu vốn
hợp lý cho các doanh nghiệp.Ơ nước ta hiện nay cơ cấu kinh tế đang chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, mở cửa thông thương với nhiều
nước trên thế giới do vậy nhu cầu về vốn ngày càng cao, các thành phần kinh tế
đang rất cần vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp
với sự phát triển của xã hội đòi hỏi các ngân hàng cần phải nỗ lực hơn nữa để
đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng lớn của các doanh nghiệp. Muốn vậy các
ngân hàng cần phải làm tốt công tác huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và xây
dựng cho mình những chiến lược kinh doanh hợp lý, phù hợp với xu thế phát
triển của các thành phần kinh tế. Có như vậy các ngân hàng mới có thể đáp
ứng một cách tốt nhất nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần đẩy nhanh
quá trình tái sản xuất đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển.
3. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong tổ chức điều hoà lưu
thông tiền tệ :
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng của mình, các ngân hàng đã
huy động và tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, đồng thời rút ra khỏi
lưu thông một bộ phận tiền tệ không cần thiết góp phần giảm lạm phát. Bởi
việc Ngân hàng Nhà nước phát hành tiền để tạo ra nguồn vốn đầu tư phát
triển sẽ làm tăng khối lượng tiền tệ trong lưu thông, gây mất cân đối trong
quan hệ tiền hàng dẫn đến lạm phát cho nền kinh tế. Mặt khác, dựa vào quy

luật của lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu
cầu vay mà Ngân hàng Nhà nước Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền
vào lưu thông. Do đó sự vận động của vốn tín dụng là dựa trên nguyên tắc đảm
bảo hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ.
Hơn nữa quá trình hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với việc thanh
toán không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trôi
nổi trên thị trường mà không có sự quản lý của nhà nước nhằm mục đích ổn
định lưu thông tiền tệ. Điều này đồng nghĩa với việc làm giảm lạm phát - một
vấn đề mà nền kinh tế phải đương đầu khi có tốc độ tăng trưởng gia tăng
nhanh.
Như vậy tín dụng ngân hàng được coi là một công cụ có thể điều hoà vốn
trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
4. Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường việc chấp hành chế độ
hạch toán trong các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn :
Trong quá trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng trước khi cho vay ngân
hàng có nghiệp vụ giúp đỡ các đơn vị vay vốn xây dựng kế hoạch vay vốn dựa
trên cơ sở các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Khi xét duyệt cho vay ngân
hàng còn căn cứ vào tình hình chấp hành các nguyên tắc cơ bản của chế độ tín
dụng ngân hàng, tình hình thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kinh tế đối với các đơn
vị bạn cũng như tôn trọng các quy chế thủ tục cho vay. Đặc biệt cần phải có các
báo cáo tài chính kế hoạch sản xuất kinh doanh trong đó nêu rõ mục đích và
khẳng định tính khả thi và mức sinh lợi của dự án. Như vậy muốn vay được vốn
các doanh nghiệp cần phải thực hiện chế độ hạch toán thật tốt. Tất cả những
công tác trên giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, ngân hàng có
khả năng thu hồi được vốn.
Đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng là sự vận động trên cơ sở hoàn
trả cả gốc lẫn lãi của các con nợ đối với ngân hàng. Các đơn vị kinh tế, cá nhân
khi vay vốn ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện mà
ngân hàng đưa ra nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, phù

hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị và hoàn trả vốn + lãi đúng
thời hạn. Trong trường hợp các đơn vị vay vốn không thực hiện đúng cam kết
thì ngân hàng sẽ dùng đến các biện pháp chế tài tín dụng. Do vậy các đơn vị sản
xuất kinh doanh luôn luôn tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn
như: Đẩy nhanh vòng quay vốn, tăng năng xuất, giảm giá thành nhằm tạo ra
nhiều lợi nhuận, để có thể hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn. Điều này đã thúc
đẩy đơn vị sản xuất kinh doanh tăng cường khâu hạch toán kế toán một cách
chặt chẽ đảm bảo doanh lợi ngày càng cao, tăng hiệu quả sử dụng vốn tín
dụng.
5. Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để đầu tư, tài trợ cho các
ngành kinh tế then chốt và các ngành, vùng kinh tế kém phát triển :
Hoạt động tín dụng của ngân hàng là tập trung lượng vốn nhàn rỗi trong
xã hội của các tổ chức, cá nhân để cho các đơn vị kinh tế vay. Nhưng không
phải tất cả các chủ thể có nhu cầu vay đều được ngân hàng đáp ứng, bởi để

×