Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

NHỮNG ĐỀ CHUNG VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.51 KB, 23 trang )

NHỮNG ĐỀ CHUNG VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH
DỰ ÁN ĐẦU TƯ
I. DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
1. Dự án đầu tư.
1.1. Khái niệm về dự án đầu tư.
a. Khái niệm.
Hoạt động đầu tư là một hoạt động cần lượng vốn lớn, thời gian tiến
hành đầu tư cũng như vận hành kết quả đầu tư kéo dài và mang tính rủi ro
cao. Mặt khác, hoạt động đầu tư vừa phải mang lại lợi ích kinh tế cho nhà đầu
tư vừa phải phù hộp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó,
để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc. Sự
chuẩn bị đó biểu hiện bằng việc nghiên cứu, soạn thảo các giải pháp kinh tế, kỹ
thuật nhằm tiến hành hoạt động đầu tư. Kết quả của việc nghiên cứu và soạn
thảo đó được thể hiện qua dự án. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc mọi công
cuộc đầu tư đều phải tiến hành theo dự án.
Dự án đầu tư được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau:
* Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng
vốn, vật tư lao động để tạo ra các kết quả kinh tế, tài chính trong một thời gian
dài.
* Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một
cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch của
một công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh
doanh nhằm đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất
định trong tương lai lâu dài.
* Trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế
hoạch chi tiết của mỗi công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế
xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một
hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất, là khâu đầu tiên trong công tác kế hoạch
hoá nền kinh tế nói chung.
* Về mặt nội dung: Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên
quan với nhau được kế hoạch nhằm đạt được các mục tiêu đã định trong việc


tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử
dụng các nguồn lực xác định.
Mặc dù dự án đầu tư được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau song
chúng ta có thể khái quát bản chất và hình thức một dự án đầu tư. Về bản chất,
dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng
hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số
lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó
trong một khoảng thời gian xác định. Về hình thức trình bày, dự án đầu tư là
tài liệu do chủ đầu chịu trách nhiệm lập, trong đó có thể hiên một cách đầy đủ,
khoa học và toàn diện và toàn bộ nội dung các vấn đề có liên quan đến công
trình đầu tư. Nhằm giúp cho việc ra quyết định đầu tư được đúng đắn và bảo
đảm hiệu quả của vốn đầu tư.
Tóm lại, dự án đầu tư bao gồm 4 phần chính:
-Mục tiêu của dư án;
-Các kết quả;
-Các hoạt động;
-Các nhuồn lực.
Trong 4 thành phần trên thì kết quả chính là thành phần đánh dấu tiến độ
của dự án. Kết quả có thể được biểu hiện dưới dạng kết quả tài chính, kết quả
kinh tế và kết quả xã hội. Kết quả tài chính là các lợi ích về tài chính thu được
từ dự án biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá thị trường. Kết quả kinh tế là các
lợi ích về kinh tế biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá kinh tế. Giá kinh tế là giá
trị chi phí các nguồn lực hoặc các khoản thu nhập từ dự án xét trên góc độ
chung của quốc gia. Kết quả xã hội là kết quả được biểu hiện dưới dạng các lợi
ích xã hội (trình độ dân trí, khả năng phòng chống bệnh tật, bảo đảm môi
trường...) kết quả này biểu hiện rất phong phú và thường không thể đo lường
một cách chính xác.
b.Vai trò của dự án đầu tư.
Dự án đầu tư có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với chủ đầu tư
mà còn đối với Nhà nước và các bên liên quan. Cụ thể là:

* Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định việc bỏ vốn đầu tư.
* Dự án là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm
tra qua trình thực hiện đầu tư.
* Dự án là cơ sở quan trọng để thuyết phục các tổ chức tài chính, tín
dụng cho vay vốn để tiến hành đầu tư.
* Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá và có những điều chỉnh kịp
thời những tồn tại và những vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác
công trình.
* Dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý khi có tranh
chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư.
Riêng đối với chủ đầu tư, dự án còn là cơ sở để: xin phép được đầu tư,
xin phép nhập khẩu vật tư máy móc, xin hưởng các ưu đãi về đầu tư, xin gia
nhập khu chế xuất-khu công nghiệp...
c. Yêu cầu cơ bản của dự án.
Với vai trò quan trọng của mình, dự án đầu tư khi được soạn thảo phải
đảm bảo những tính chất sau:
* Tính khoa học, được thể hiện:
-Thông tin, số liệu phải đảm bảo trung thực;
- Hình thức phải đảm bảo rõ ràng sạch đẹp;
- Phương pháp lý giải phải đảm bảo tính logic và chặt chẽ giữa
các nội dung đã nêu trong dự án;
- Phương pháp tính toán phải đảm bảo sự chính xác.
* Tính thực tiễn: Các nội dung của dự án phải được nghiên cứu và xác
định trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá đúng mức các điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đầu tư (về thời gian
và không gian).
* Tính thống nhất: Được thể hiện từ những bước tiến hành đến nội
dung, hình thức, cách trình bày của dự án cần tuân thủ những qui định chung
mang tính quốc tế.
2.2. Nội dung của dự án đầu tư

Một dự án đầu tư thông thường bao gồm những nội dung chính sau đây:
* Một là: Các căn cứ lập dự án, sự cần thiết phải đầu tư xây dựng dự án.
Cần nêu căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn của toàn bộ quá trình hình thành
và thực hiện toàn bộ dự án.
* Hai là: Nghiên cứu về thị trường của dự án. Cần đề cập đến các vấn đề:
- Giới thiệu sản phẩm, dịch vụ được lựa chọn đưa vào sản xuất kinh doanh
theo dự án
- Các luận cứ về thị trườngđối với sản phẩm được lựa chọn.
- Dự báo nhu cầu hiện tại, tương lai của sản phẩm, dịch vụ đó.
- Xác định nguồn và các kênh đáp ứng nhu cầu đó.
- Xem xét, xây dựng mạng lưới để tổ chức tiêu thụ sản phẩm của dự án.
* Ba là: Nghiên cứu về phương diện kỹ thuật - công nghệ của dự án theo
các nội dung chủ yếu sau.
- Xác định địa điểm xây dựng dự án.
- Xác định qui mô chương trình sản xuất.
- Xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất, nguồn và phương
thức cung cấp
- Lựa chọn công nghệ và thiết bị.
*Bốn là: Nghiên cứuvề tổ chức quản trị dự án. Tuỳ theo từng dự án cụ thể
để xác định mô hình tổ chức bộ máy cho thích hợp, từ đó làm cơ sở cho việc
tính toán nhu cầu nhân lực.
*Năm là: Nghiên cứu về phương diện tài chính của dự án. Cần giải quyết
các nội dung chủ yếu sau:
- Xác định tổng vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn và nguồn tài trợ.
- Đánh giá khả năng sinh lời của dự án.
- Xác định khả năng hoàn vốn của dự án
- Đánh giá mức độ rủi ro của dự án
*Sáu là: Nghiên cứu mặt kinh tế - xã hội của dự án. Cần đánh giá so sánh
giữa lợi ích do các dự án tạo ra mà cái giá mà xã hội phải trả cho việc sử dụng
các nguồn lực trên các mặt chủ yếu sau:

- Khả năng tạo ra nguồn thu cho ngân sách
- Tạo công ăn việc làm
- Nâng cao mức sống của nhân dân
- Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ
*Bảy là: Kết luận và kiến nghị. Thông qua các nội dung nghiên cứu trên
cần kết luận tổng quát về khả năng thực hiện của dự án, những khó nhăn và
những thuận lợi trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án, đồng thời đề
xuất những kiến nghị đối với các tổ chức có liên quan đến dự án.
2.3. Các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư.
Để hình thành và vận hành một dự án đầu tư phải trải qua nhiều bước,
nhiều giai đoạn kế tiếp nhau được gọi là chu trình của dự án.
Có nhiều cách phân chia, xem xét liên quan đến quá trình hình thành và
quản lý dự án. Để phù hợp với yêu cầu của công tác chuẩn bị đầu tư và các
hoạt động chủ yếu trong quá trình hình thành và quản lý vận hành dự án, có
thể phân chia chu trình dự án thành các giai đoạn được mô tả theo sơ đồ sau
đây:
Nghiên cứu cơ hội đầu tư
Nghiên cứu tiền khả thi
Nghiên cứu khả thi
Thực hiện dự án
Vận hành khai thác
Đánh giá sau dự án
Kết thúc dự án
a. Nghiên cứu cơ hội đầu tư.
Giai đoạn này có nhiều ý tưởng ban đầu về dựa án được hình thành dựa
trên cơ sở cảm tính trực quan hoặc là dựa trên cơ sở quy hoạch định hướng
phát triển của vùng, khu vực hay của quốc gia. Kết thúc giai đoạn này có kết
quả là một kế hoạch mang tính chỉ đạo về phương hướng đầu tư và hình thành
tổ chức nghiên cứu.
b. Nghiên cứu tiền khả thi.

Là giai đoạn nghiên cứu sơ bộ về các yếu tố cơ bản của dự án đầu tư như
vị trí, quy mô, thiết bị, công nghệ, nhu cầu về vốn cũng như tổ chức thực hiện
dự án. Trong giai đoạn này, người ta cũng xác định chỉ tiêu cơ bản để đánh giá
hiệu quả cơ bản của dự án để làm cơ sở cho việc xem xét lựa chọn dự án.
Kết quả của giai đoạn này làm cơ sở cho việc quyết định tiếp tục hoặc
chấm dứt việc nghiên cứu dự án ở các bước tiếp theo.
c. Nghiên cứu khả thi.
Qua công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá các kết quả nghiên cứu tiền
khả thi nếu thấy dự án có những dấu hiệu khả quan theo các chỉ tiêu phân tích
thì có thể nghiên cứu khả thi.
Trong giai đoạn này cần phải nghiên cứu toàn diện và chi tiết các yếu tố
của dự án. Ngoài ra trong giai đoạn này cần thực hiện một số nghiên cứu riêng
như nghiên cứu địa chất, thuỷ văn, thị trường và các điều kiện pháp lý, chính
sách. . .trong trường hợp các nghiên cứu này có tính chất quyết định đối với sự
thành công của dự án hoặc điều kiện tiên quyết để thực hiện dự án.
Nghiên cứu khả thi được thực hiện trên cơ sở các thông tin chi tiết có độ
chính xác cao hơn giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi. Đây là cơ sở quyết định
đầu tư và làm căn cứ để triển khai thực hiện dự án trên thực tế.
d. Thực hiện dự án đầu tư.
Giai đoạn này là giai đoạn biến các dự định đầu tư thành hiện thực nhằm
đưa dự án và hoạt động trong thực tế của đời sống kinh tế-xã hội. Giai đoạn
này bao gồm một các loạt quá trình kế tiếp hoặc xen kẽ nhau từ khi thiết kế
đến khi đưa dự án vào vận hành khai thác. Nó bao gồm các công đoạn chính
sau:
- Thiết kế: Bao gồm tất cả các khâu khảo sát, tính toán, thiết kế và thực
hiện các nội dung thiết kế trong hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Một số khâu thiết kế có thể thực hiện trong quá trình xây dựng.
- Xây dựng: Gồm các khâu chuẩn bị mặt bằng (giải phóng mặt bằng), tổ
chức đấu thầu, xây dựng, mua sắm và lắp đặt kết cấu, trang thiết bị đến khâu
vận hành thử trước khi đưa vào vận hành chínhh thức.

Đây là giai đoạn hết sức quan trọng có liên quan chặt chẽ với việc đảm
bảo chất lượng, ảnh hưởng đến quản lý chi phí và tiến độ thực hiện của dự án
và cả hiệu quả đầu tư.
e. Vận hành dự án đầu tư.
Giai đoạn này kể từ khi đưa dự án đầu tư vào hoạt động, khai thác cho
đến khi kết thúc dự án. Giai đoạn này bao gồm các hoạt động theo chức năng
của dự án và quản lý dự án theo các kế hoạch đã tính trước.
Tuy nhiên, có một số dự án có thể vận hành và khai thác ngày cả trong
thời đoạn thực hiện ( sử dụng từng phần, từng công đoạn). Một số dự án được
chia thành các giai đoạn phát triển nên quá trình khai thác và sử dụng có thể
tiến hành xen kẽ nhau.
f. Đánh giá sau dự án.
Thực chất của giai đoạn này là việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kinh
tế-kỹ thuật của dự án trong giai đoạn vận hành và khai thác. Đánh giá trong
giai đoạn này nhằm:
- Hiệu chỉnh các thông số kinh tế-kỹ thuật để đảm bảo mức đã dự kiến
trong nghiên cứu khả thi trên cơ sở phát hiện và tìm các biện pháp cần thiết để
đảm bảo các thông số vận hành của dự án.
- Tìm kiếm cơ hội phát triển, mở rộng dự án hoặc điều chỉnh các yếu tố
của dự án cho phù hợp với tình hình thực tế để đảm bảo hiệu quả của dự án.
Dựa vào kết quả đánh giá, phân tích tình hình vận hành khai thác dự án để có
quyết định đúng đắn về sự cần thiết kéo dài hoặc chấm dứt thời hạn hoạt động
của dự án.
g. Kết thúc dự án.
Tiến hành các công việc cần thiết để chấm dứt hoạt động của dự án như
thanh toán công nợ, thành lý tài sản và hoàn thành các thủ tục pháp lý khác.
Trong công tác nghiên cứu soạn thảo một dự án đầu tư, các giai đoạn
được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, tỷ mỷ nhưng không tránh được khỏi những sai
xót. Do đó, chúng ta cần có một quy trình thẩm định các dự án đầu tư nhằm
phát hiện và sửa chữa những sai xót đó đồng thời bổ sung thêm các biện pháp

để đảm bảo tính khả thi cao cho việc thực hiện dự án
2. Khái niệm và sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư.
2.1. Khái niệm.
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan có
khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi
của một dự án. Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư nhằm phân tích và làm sáng tỏ về một loạt vấn
đề có liên quan tới tính khả thi trong quá trình thực hiện dự án: thị trường,
công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính của dự án để đứng vững trong thời
gian hoạt động, về quản lý dự án, góp phần đóng góp kinh tế của dự án vào sự
tăng trưởng của nền kinh tế. . .với các thông tin về bối cảnh các giả thiết sử
dụng trong dự án này. Đồng thời đánh giá để xác định xem dự án có giúp cho
đất nước những lợi ích về mặt kinh tế-xã hội hay không, nếu có thì bằng cách
nào và liệu có đạt được mục tiêu về hiệu quả tài chính hay không để có thể
mang lại lợi ích cho chủ đầu tư và các đơn vị và các tổ chức có liên quan khác.
Thông thường, công tác thẩm định các dự án và chương trình đầu tư
thường xem xét ảnh hưởng của dự án về mặt tài chính (ngân sách) kinh tế và
phân phối thu nhập như là ba kết quả độc lập. Tuy nhiên, khía cạnh này của dự
án đầu tư thường liên quan chặt chẽ với nhau và xem xét như ba phần trong
một thể thống nhất. Một điều kiện cần thiết trước khi một dự án có thể cho tác
dụng phân phối lại thu nhập là tính khả thi về tài chính của dự án hoặc là dự
án tự hạch toán được hoặc là dự án có cơ chế phân bổ nguồn ngân sách cho
dự án sao cho nó có khả năng vận hành một cách có hiệu quả nhất.
Việc phân tích tài chính, kinh tế và xã hội của một dự còn phải được liên
kết mật thiết với nhau, bởi vì cơ sở thông tin thu được sau mỗi giai đoạn thẩm
định có thể rất cần thiết để hoàn tất việc thẩm định một khía cạnh khác của dự
án.
Thực chất của việc thẩm định dự án là việc phân tích, đánh giá tính khả
thi của dự án trên tất cả các phương diện: công nghệ, tài chính, kinh tế-xã hội. .
. trên cơ sở các tiêu chuẩn, định mức, quy định của các cơ quan quản lý Nhà

nước, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách
độc lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án đã tạo ra cơ
sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá
trình thẩm định là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ra quyết
định đầu tư và cho phép đầu tư.
2.2. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ mô
của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Một Nhà nước luôn có trách nhiệm
đảm bảo cho việc đầu tư do mình tiến hành hoặc được mình cho phép tiến
hành đóng góp vào lợi ích chung. Nhà nước với chức năng công quyền của
mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư. Tất cả các dự án
đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi
ích chung của đất nước. Bởi vậy, trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép
đầu tư các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần phải biết xem các dự án
đó có góp phần đạt được mục tiêu của quốc gia hay không ? Nếu có thì bằng
cách nào và đến mức độ nào ?
Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng
mang tính chủ quan của người soạn thảo, vẫn có thể có những sai xót trong
việc xác định mục tiêu, phạm vi hoạt động hay lựa chọn các giải pháp kinh tế
kỹ thuật, phân tích lợi ích và chi phí vốn còn mang tính chủ quan. Người soạn
thảo thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận các vấn đề của dự án. Các nhà
thẩm định thường có cái nhìn rộng hơn trong việc đánh giá dự án nhằm làm rõ
phải chuẩn xác đánh giá tính đúng đắn hợp lý của dự án trên cơ sở phân tích
về một loạt các vấn đề có liên quan đến tính khả thi trong quá trình thực hiện
dự án: thị trường, công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính của dự án để đứng
vững trong vòng đời hoạt động, về quản lý thực hiện dự án. Họ xuất phát từ lợi
ích chung của toàn xã hội, của cả cộng đồng để xem xét phần đóng góp kinh tế
của dự án vào sự tăng trưởng kinh tế và các lợi ích xã hội mà dự án đem lại.
Mặt khác, khi soạn thảo dự án có thể có những sai xót, các ý kiến có thể

mâu thuẫn, không logic, thậm trí có những từ ngữ sơ hở gây ra những tranh
chấp giữa các đối tác tham gia vào quá trình hoạt động đầu tư. Thẩm định dự
án đầu tư sẽ phát hiện ra những sai xót đó và sửa chữa.
Qua đó chúng ra thấy rằng, thẩm định dự án đầu tư là cần thiết và là một
bộ phận quan trọng trong hoạt động đầu tư nhằm đem lại hiêụ quả cao cho dự
án và tránh được những thiệt hại đáng tiếc xảy ra.
2.3. Mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của thẩm định dự án đầu tư.
2 a. Mục đích của thẩm định dự án đầu tư.
Công tác thẩm định dự án đầu tư được tiến hành nhằm mang lại hiệu quả
kinh tế-xã hội, lợi ích vật chất cho chủ đầu tư và các tổ chức khác có liên quan.
Trên cơ sở thì mục đích của thẩm định dự án đầu tư được thể hiện như sau:
* Đánh giá tính hợp lý của dự án: Tính hợp lý của dự án được biểu hiện
một cách tổng hợp (biểu hiện trong tính hiệu quả và tính khả thi) và được biểu
hiện ở từng nội dung và cách thức tính toán của dự án.
* Đánh giá tính hiệu quả của dự án: Hiệu quả của dự án được xem xét
trên hai phương diện, hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án.
* Đánh giá tính khả thi của dự án: Đây là mục đích hết sức quan trọng
trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi.
Tất nhiên hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả
thi. Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của
dự án như xem xét các kế hoạch tổ chức thực hiện, môi trường pháp lý của dự
án. . .
Ba mục đích trên cũng đồng thời là yêu cầu chung đối với mọi dự án đầu
tư. Một dự án muốn được đầu tư hoặc tài trợ vốn thì dự án phải đảm bảo
được những yêu cầu trên. Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của việc thẩm định dự
án còn tuỳ thuộc vào chủ thể thẩm định dự án. Có các chủ thể thẩm định dự án
khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi chức năng riêng mà các chủ thể thẩm định thực
hiện công tác thẩm định của mình để đạt được mục đích mà minh muốn đạt
được:
- Các chủ đầu tư trong và ngoài nước thẩm định dự án khả thi để đưa ra

các quyết định đầu tư.
- Các định chế tài chính (Ngân hàng, Tổng cục Đầu tư phát triển. . .) thẩm
định dự án để ra quyết định tài trợ hoặc cho vay vốn.

×