Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tiểu luận, quản lý xã hội trên các lĩnh vực, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân các cấp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.22 KB, 52 trang )

1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền Xã hội
chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân
dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua cơ quan đại diện là Quốc hội và
Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, trong đó HĐND được xác định là cơ quan quyền
lực Nhà nước ở địa phương. HĐND có quyền quyết định các vấn đề quan trọng ở địa
phương đồng thời thực hiện chức năng giám sát đối với toàn bộ hoạt động của các cơ
quan cùng cấp khác; giám sát việc thực hiện Nghị quyết của HĐND và hoạt động của
các tổ chức, công dân ở địa phương. Việc thực hiện chức năng giám sát của HĐND có ý
nghĩa hết sức quan trọng thể hiện vai trò của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương,
cơ quan đại biểu của nhân địa phương góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan Nhà nước ở địa phương, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân địa
phương. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND hiện nay còn bộc lộ nhiều
hạn chế.
Vì vậy việc chọn và nghiên cứu đề tài “ Nâng cao chất lượng hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay”có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc,
vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tiễn, vừa đảm bảo thực hiện chủ trương của
Đảng và Nhà nước đó là: “Thực hiện cải cách thể chế và phương thức hoạt động của
Nhà nước” [2,tr.48]. Trong đó có việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của
HĐND các cấp nói chung và hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND nói riêng, nhằm
mục tiêu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân được đề cập
dưới rất nhiều hình thức khác nhau trong đó phải kể đến:
-Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
1



2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm phân tích, đánh giá việc thực hiện chức
năng giám sát của HĐND các cấp, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những cơ sở lý luận về hội đồng nhân dân và hoạt động giám sát của hội
đồng nhân dân.
- Làm rõ những mặt mạnh, mặt yếu, chỉ rõ những bất cập, hạn chế trong hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND, góp
phần vào việc hoàn thiện những quy định pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam
hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ những vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phân tích tài liệu, nghiên cứu lý luận kết hợp
với nghiên cứu thực tiễn, phân tích tổng hợp những quy định pháp luật, rút ra những
nhận xét khái quát từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện những quy định pháp luật về
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
6. Kết cấu tiểu luận luận
2



3
- Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh muck tài liệu tham khảo, tiểu luận chia làm
chia 2 chương, 5 tiết.

3


4
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP
1.1. Khái niệm giám sát
1.1.1.Cơ sở pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp:
a. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân:
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân là chủ thể, nguồn gốc tối cao
của quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước được thực hiện theo chế độ tập quyền,
theo nguyên tắc tập trung dân chủ.Vì vậy Quốc hội và Hội đồng nhân dân có vị trí, vai
trò đặc biệt quan trọng trong bộ máy Nhà nước.
Khác với Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng quyền
lực Nhà nước trên phạm vi toàn quốc. HĐND các cấp thay mặt nhân dân địa phương sử
dụng quyền lực Nhà nuớc trong phạm vi địa phương. Điều này quyết định phạm vi, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND. Điều 119 Hiến pháp 1992 quy định: “Hội
đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”.
Cho đến nay mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về tính quyền lực của HĐND
nhưng hiến pháp 1992 vẫn tiếp tục khẳng định Hội đồng nhân dân là cơ quan Nhà nước

ở địa phương, có thẩm quyền quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương trên các
lĩnh vực: kinh tế, văn hoá-xã hội, quốc phòng,an ninh…Hội đồng nhân dân cùng với
Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước. Điều này hoàn toàn phù hợp
với quan điểm của Chủ tịch Hồ chí Minh về cơ quan chính quyền địa phương.
Với thiết chế cơ quan chính quyền địa phương như hiện nay, quyền lực của nhân dân
địa phương được thực hiện thông qua cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền
làm chủ của nhân dân-đó là HĐND.
4


5
Theo quy định pháp luật, chỉ HĐND mới có thẩm quyền thay mặt cho nhân dân địa
phương quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng ở địa phương, giám sát việc tuân
theo pháp luật và Nghị quyết của HĐND đối với các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
và nhân dân ở địa phương.
b. Chức năng của Hội đồng nhân dân:
Với vị trí, vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Quyền lực của HĐND xuất phát từ quyền
lực của Quốc hội. Do vậy Quốc hội( thông qua Hiến pháp) trao cho HĐND thực hiện ba
chức năng:
- Quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương như quyết định chủ trương, biện
pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa
phương về kinh tế-xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với
cả nước.
- Đảm bảo thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan Nhà nước cấp trên.
- Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực
hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ
quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công

dân địa phương.
Thông qua các Nghị quyết tại kỳ họp, HĐND quyết định những nhiệm vụ phát triển
kinh tế-xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương. Việc giám sát thực hiện các văn bản
của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND nhằm đảm bảo cho Nghị
quyết được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Do đó quá trình thực hiện chức năng
quyết định những vấn đề quan trọng và giám sát của Hội đồng nhân dân có mối liên hệ
chặt chẽ với nhau.
Trước hết chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương tạo cơ sở
pháp lý cho hoạt động giám sát. Các quyết định của HĐND về các vấn đề kinh tế-xã hội,
an ninh quốc phòng…được thể hiện dưới hình thức Nghị quyết. Nghị quyết của HĐND
5


6
chính là căn cứ pháp lý để các cơ quan Nhà nước (đặc biệt là Uỷ ban nhân dân) tổ chức
triển khai thực hiện trong thực tế. Để khẳng định các Nghị quyết của HĐND có sát với
thực tế hay không? Có được các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân chấp hành
nghiêm chỉnh hay không? thì hoạt động giám sát đóng vai trò hết sức quan trọng. Thông
qua giám sát, HĐND kịp thời phát hiện cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có hành vi
vi phạm pháp luật, Nghị quyết của HĐND…trên cơ sở đó có biện pháp xử lý kịp thời,
nghiêm minh. Đồng thời thông qua giám sát HĐND kịp thời điều chỉnh Nghị quyết cho
phù hợp với thực tiễn. Quá trình giám sát thuờng xuyên tình hình thực hiện các Nghị
quyết của HĐND giúp HĐND đôn đốc, kiểm tra qua đó yêu cầu các chủ thể thực hiện
đúng nội dung, yêu cầu đã được quy định trong Nghị quyết.
1.1.2. Khái niệm giám sát:
a. Theo từ điển Tiếng Việt: “ Giám sát là theo dõi ,kiểm tra xem có thực hiện đúng
những điều quy định không”.
Dưới góc độ ngôn ngữ thông thường “giám sát” được hiểu là: Việc theo dõi, xem
xét, kiểm tra của chủ thể có thẩm quyền đối với chủ thể khác đế qua đó có được các
nhận định về các chủ thể này. Tuy nhiên, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban

nhân dân (UBND) 2003 chưa đưa ra khái niệm giám sát.
Giám sát là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước mà HĐND là cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương, cho nên giám sát là chức năng của HĐND. Trong bộ
máy Nhà nước chỉ Quốc hội và HĐND có chức năng giám sát việc thực hiện pháp luật.
Chức năng giám sát của HĐND được cụ thể hoá qua các hoạt động giám sát.
Mục đích của giám sát: Thông qua hoạt động giám sát HĐND kiểm tra, đánh giá
việc chấp hành Hiến pháp, Luật và những văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên ở địa
phương, việc thực hiện các Nghị quyết của HĐND nhằm đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong phạm vi địa phương, đảm bảo tính pháp chế
Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
b. Phân biệt hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân với hoạt động kiểm tra,
kiểm sát của một số cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội:
6


7
Hoạt động giám sát của HĐND là một nội dung của hoạt động quản lý Nhà nước và
xã hội. Đó là hoạt động không thể thiếu của cơ quan lãnh đạo đối với cơ quan chịu sự
lãnh đạo, của nguời lãnh đạo đối người chịu sự lãnh đạo.
Giám sát là hoạt động đặc thù của HĐND các cấp nhằm thể chế hoá chức năng của
HĐND. Giám sát không những đảm bảo tính thống nhất của quyền lực Nhà nước, tính
pháp chế Xã hội chủ nghĩa mà còn đẩy mạnh sự phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND các cấp thực chất là hoạt động giám sát thể hiện sự
uỷ quyền của nhân dân cho Nhà nước, vì vậy nó vừa mang tính quyền lực Nhà nước,
vừa mang tính quyền lực nhân dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân.
Căn cứ để thực hiện quyền giám sát: Khi thực hiện quyền giám sát, HĐND căn cứ
vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên, Nghị
quyết của HĐND.
Đối tượng chịu sự giám sát của HĐND bao gồm: Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức

kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân địa phương. HĐND giám sát hoạt
động thực tiễn và nội dung văn bản của các đối tượng chịu sự giám sát.
Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân khi thực hiện quyền giám sát:
- Bãi nhiệm, miễn nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do
Hội đồng nhân dân bầu.
- Khi phát hiện những văn bản của đối tượng chịu sự giám sát có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên, Nghị quyết của HĐND thì HĐND
xem xét, quyết định việc bãi bỏ văn bản đó.
- Khi phát hiện có vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. HĐND có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật,
xem xét, đánh giá, xử lý vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm.
* Hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân:
7


8
- Về căn cứ: Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân phải căn cứ
vào các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát và các quy định của pháp
luật tố tụng có liên quan.
- Đối tượng chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đó là hoạt động của các cơ
quan tư pháp như: Cơ quan điều tra, cơ quan xét xử, cơ quan thi hành án, cơ quan giam
giữ và cải tạo.
- Thẩm quyền: Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát có quyền
ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các
văn bản đó. Các quyết định, kháng nghị, yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát phải được
cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định
của pháp luật.

* Hoạt động kiểm tra, giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của mặt trận.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị và liên hiệp tự nguyện các
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân tiêu biểu trong các
tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Điều 9 Hiến pháp 1992 xác định :"Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân".
Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tiến hành trong sự phối
hợp với các cơ quan quyền lực Nhà nước, để tổng hợp ý kiến của nhân dân và các tổ
chức thành viên, kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền biểu dương, khen
thưởng, xử lý những tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tham gia "giám
sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ viên chức Nhà
nước". (Điều 9 Hiến pháp 1992) nhằm hỗ trợ công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra trong
nội bộ cơ quan Nhà nước. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám
sát mang tính nhân dân, không mang tính quyền lực Nhà nước, không có thẩm quyền xử
lý đối với các cơ quan Nhà nước hay người chịu trách nhiệm. Tuy nhiên những kiến nghị
của Mặt trận đối với nhiều vấn đề qua giám sát lại rất có giá trị, “có sức nặng”. Đó chính
8


9
là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết vướng mắc phát sinh trong quá
trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, giám sát- xét đến cùng chính là việc xem xét, kiểm tra, theo dõi việc tuân
theo Hiến pháp, pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công
dân nhằm có được những nhận định xác đáng về những việc làm được, những vấn đề
còn tồn tại trong hoạt động của các cơ quan này. Từ đó có biện pháp để xử lý nghiêm
minh hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế
và cá nhân nhằm khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra. Thông qua

hoạt động giám sát bảo đảm cho pháp luật được thực hiện thống nhất, nâng cao pháp chế
Xã hội chủ nghĩa, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, chế độ xã hội.
c. Giám sát là một trong ba chức năng của Hội đồng nhân dân:
Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp được quy định cụ thể trong Luật
tổ chức HĐND và UBND 2003. Đây là một bước tiến mới so với các văn bản pháp luật
trước đó. Sự cụ thể hoá chức năng giám sát của HĐND trong luật đã cho thấy trong tổ
chức và hoạt động của HĐND hiện nay thì giám sát đóng một vai trò quan trọng và
không thể thiếu trong quá trình HĐND thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Thực hiện tốt chức năng giám sát góp phần bảo đảm cho đường lối chính sách của Đảng,
Nghị quyết của HĐND được triển khai nghiêm túc và có hiệu quả. Ngược lại nếu chức
năng giám sát không được chú trọng và thực hiện tốt sẽ dẫn đến hiện tượng quan liêu, xa
rời quần chúng, hiệu lực thực thi pháp luật không cao, xã hội khó có tính ổn định.
Từ khi thành lập đến nay, Hội đồng nhân dân luôn được xác định là cơ quan quyền
lực Nhà nước ở địa phương mà giám sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động mang tính
quyền lực Nhà nước. Lênin khẳng định:
“Phải tập trung toàn bộ quyền lực chính trị vào tay cơ quan đại diện của nhân
dân”. Ở nước ta “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội
đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân” . Do đó hoạt động giám sát của
HĐND các cấp thực chất là sự giám sát uỷ quyền của nhân dân. Thông qua hoạt động
giám sát của HĐND các cấp, vai trò chủ thể quyền lực Nhà nước của nhân dân được
9


10
đảm bảo thực hiện, từ đó hướng hoạt động của các cơ quan Nhà nước vào việc phục vụ
cho lợi ích của nhân dân.
Quốc hội (thông qua Hiến pháp) đã trao cho HĐND các cấp thẩm quyền thay mặt
cho nhân dân địa phương quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng ở địa phương.
Những quyết định của HĐND được thể hiện dưới hình thức văn bản pháp luật đó là

Nghị quyết. Nghị quyết của HĐND thể chế hoá đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương.
HĐND có thẩm quyền ban hành Nghị quyết quyết định những vấn đề cơ bản, quan
trọng ở địa phương và giám sát việc thực hiện Nghị quyết đó. Đây cũng là một nhiệm vụ
quan trọng cuả HĐND thể hiện tính quyền lực Nhà nước. Vì thế có thể nói quá trình
thực hiện các chức năng của HĐND luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, hỗ
trợ lẫn nhau. Nghị quyết của HĐND muốn được triển khai thực hiện có hiệu quả thì phải
chú trọng đến hoạt động giám sát, bởi lẽ chỉ có thông qua giám sát, HĐND mới có căn
cứ để hoàn thiện Nghị quyết của mình, kịp thời điều chỉnh những quy định trong Nghị
quyết cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Ngược lại việc
ban hành Nghị quyết là cơ sở để HĐND các cấp tiến hành hoạt động giám sát của mình.
Thực tế cho thấy hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HĐND phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động giám sát của nó. Những yêu cầu, kiến nghị của HĐND đối với các cơ quan
Nhà nước nếu như không được bảo đảm thực hiện thì chức năng, vai trò cơ quan quyền
lực tuy được ghi nhận trong Hiến pháp cũng không có ý nghĩa gì, thậm chí sẽ trở thành
“Hữu danh vô thực”. Nếu Nghị quyết của HĐND phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tếxã hội ở địa phương sẽ giúp cho việc giám sát có hiệu quả, góp phần thúc đẩy hoạt động
của HĐND các cấp, tạo điều kiện cho HĐND các cấp hoàn thành tốt nhiệm vụ, quyền
hạn được giao.
Như vậy, nhìn nhận một cách khách quan về chức năng giám sát của HĐND có thể
thấy đây là một chức năng quan trọng của HĐND, thể hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền địa phương, đảm bảo quyền lực
Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, góp phần tất yếu vào việc thực hiện mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
10


11
1.1.3. Mục đích giám sát:
Hoạt động giám sát của HĐND nhằm đạt những mục đích sau:
- Phát hiện kịp thời hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng chịu sự giám sát, qua đó

đề ra biện pháp khắc phục, sửa chữa kịp thời.
- Kịp thời biểu dương cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt những nhiệm vụ được
giao.
- Bảo đảm Nghị quyết của HĐND được thực hiện tốt trên phạm vi địa phương. Qua
việc tiến hành giám sát, các kết luận, kiến nghị của Thường trực HĐND, các Ban
HĐND, đại biểu HĐND được UBND các cấp, các ngành tiếp thu, chỉ đạo thực hiện theo
đó những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện Nghị quyết của HĐND sẽ
được khắc phục kịp thời.
- Bảo đảm pháp luật của Nhà nước được thực hiện thống nhất trong cả nước.
- Củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, chế độ xã hội. Bởi lẽ giám sát
góp phần làm cho chính quyền các cấp vững mạnh. Phát huy tiềm lực ở địa phương.
Phát hiện và có biện pháp ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng
trong quản lý kinh tế, xã hội ở địa phương. Qua đó tạo điều kiện cho địa phương phát
triển về mọi mặt. Thể hiện tính dân chủ trong cơ chế xây dựng chính quyền Nhà nước,
làm cho chính quyền ngày càng vững mạnh.
1.2. Nội dung giám sát
1.2.1. Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của thường trực Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
Đối với các cơ quan Nhà nước này, giám sát của HĐND được thực hiện thông qua
việc: Tại các kỳ họp HĐND, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban hội đồng nhân
dân, UBND, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân phải báo cáo công tác trước
HĐND. HĐND giám sát hoạt động của các cơ quan này thông qua việc xem xét các báo
cáo công tác tại kỳ họp. Thông qua việc xem xét, thảo luận các báo cáo công tác, HĐND
nắm bắt thông tin một cách đầy đủ, toàn diện về hoạt động của các cơ quan này. Từ đó
đánh giá chính xác, khách quan kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
Nhà nước theo quy định của Pháp luật và Nghị quyết của HĐND.
11


12

Khi xem xét các báo cáo công tác, HĐND phải tập trung làm sáng tỏ tính chính xác
và thực tiễn của các báo cáo công tác nhằm xác định đúng thực trạng của tình hình được
nêu ra, vấn đề cần tập trung giải quyết, kết quả đạt được cùng những khó khăn, yếu kém.
Đây là một phương thức giám sát quan trọng giúp HĐND nhận thông tin chính thức từ
phía cơ quan đó.
Chất vấn tại kỳ họp là một hình thức chất vấn trực tiếp, có hiệu quả cao. HĐND xem
xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, các
thành viên khác của UBND, thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cùng cấp. Thông qua chất vấn,
HĐND xem xét trách nhiệm cá nhân của những người được chất vấn.
1.2.2. Giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
Nghị quyết của HĐND ban hành nhằm triển khai thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của cấp uỷ, phản ánh ý chí, nguyện vọng
của nhân dân. Nghị quyết của HĐND có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng
phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Do đó giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của
HĐND là một nội dung không thể thiếu trong hoạt động giám sát của HĐND các cấp
nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện
Nghị quyết, đảm bảo cho Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống.
Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện có những văn bản của UBND cùng cấp,
Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp có dấu hiệu trái với văn bản của cơ quan Nhà
nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND thì HĐND xem xét, quyết định bãi bỏ một phần
hoặc toàn bộ văn bản đó.
1.2.3. Giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương
Đây là quá trình HĐND xem xét việc áp dụng pháp luật trong tổ chức và hoạt động
thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền giám sát. Vì vậy phạm vi giám
sát của HĐND trong lĩnh vực này rất rộng. Trên thực tế pháp luật của Nhà nước, Nghị
quyết của HĐND có đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực hay không không chỉ thông
qua hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn, thi hành bảo đảm đúng đắn, phù hợp,
12



13
kịp thời mà còn phụ thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện có hợp hiến, hợp pháp hay
không? Có hiệu quả hay không? Do vậy giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa phương là
một nội dung giám sát của HĐND, nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật
trong hoạt động thực tiễn của các đối tượng này để từ đó nhanh chóng có biện pháp ngăn
chặn, đảm bảo cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.3. Hình thức thực hiện quyền giám sát
Hình thức thực hiện quyền giám sát là cách thức mà mỗi chủ thể giám sát tổ chức
hoạt động giám sát cuả mình. Mỗi chủ thể thực hiện quyền giám sát có những hình thức
giám sát khác nhau, thực hiện theo yêu cầu, trình tự, thủ thục riêng. Hình thức thực hiện
quyền giám sát của HĐND các cấp được quy định trong chương III Luật tổ chức HĐND
và UBND 2003. Có bốn hình thức thực hiện quyền giám sát.
1.3.1.Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân:
Với vị trí là cơ quan thường trực, Thường trực Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ dự
kiến chương trình giám sát của HĐND trình HĐND xem xét và quyết định tại kỳ họp
cuối năm. HĐND quyết định chương trình giám sát hàng năm theo đề nghị của Thường
trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, ban
thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và kiến nghị của cử tri ở địa phương.
Hoạt động giám sát của HĐND là hình thức giám sát quan trọng nhất và được tiến
hành tại kỳ họp Hội đồng nhân dân. Theo quy định Điều 58 Luật tổ chức HĐND và
UBND 2003 thì Hội đồng nhân dân giám sát thông qua các hoạt động sau:
- Xem xét báo cáo công tác của thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân,Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
- Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn
thuộc Uỷ ban nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân
cùng cấp.

- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, Nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp khi có dấu hiệu trái với Hiến pháp, Luật, Nghị
13


14
quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản
quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp.
- Thành lập đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết.
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu.
Chất vấn là quyền đặc biệt của đại biểu Hội đồng nhân dân. Quyền chất vấn của Đại
biểu Hội đồng nhân dân có thể được tiến hành tại kỳ họp hoặc giữa hai kỳ họp Hội đồng
nhân dân. Nhưng chất vấn tại kỳ họp là chất vấn trực tiếp cho nên có vai trò đặc biệt
quan trọng.Theo quy định Điều 61 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 thì tại kỳ họp,
đại biểu Hội đồng nhân dân ghi những nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu
ghi chất vấn và gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân để thường trực Hội đồng nhân
dân chuyển đến người bị chất vấn. Người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy đủ nội
dung mà đại biều chất vấn và xác định trách nhiệm, biện pháp khắc phục. Nếu Đại biểu
Hội đồng nhân dân không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Hội đồng
nhân dân tiếp tục thảo luận. Hội đồng nhân dân ra nghị quyết về trả lời chất vấn và trách
nhiệm người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Tại kỳ họp, HĐND xem xét các văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân
cùng cấp, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp, nếu có dấu hiệu trái với
văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thì Hội
đồng nhân dân xem xét quyết định bãi bỏ văn bản đó (Điều 62 Luật tổ chức HĐND và
UBND 2003).
Căn cứ vào tình hình thực tiễn và theo yêu cầu nhiệm vụ giám sát, HĐND thành lập
đoàn giám sát để thực hiện nhiệm vụ giám sát do HĐND giao cho.
Để nâng cao hoạt động giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay, Luật tổ chức

HĐND và UBND 2003 bổ sung thẩm quyền cuả Hội đồng nhân dân (trong lĩnh vực
giám sát) trong việc quyết định bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội
đồng nhân dân bầu.
Khi thực hiện quyền giám sát, căn cứ vào kết quả giám sát, pháp luật quy định Hội
đồng nhân dân có thẩm quyền:
14


15
- Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân
cùng cấp, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp;
- Ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét
thấy cần thiết;
- Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch, Phó chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân
dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Hội thẩm nhân
dân của Toà án nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật.
Như vậy, hoạt động giám sát của HĐND tại kỳ họp là hình thức giám sát quan trọng
nhất, giám sát theo định kỳ. Nó mang tính chất tổng hợp, toàn diện đối với tất cả các đối
tượng thuộc phạm vi giám sát của HĐND. Mặt khác cũng tại kỳ họp các báo cáo, đề án
được trình HĐND xem xét thảo luận, qua đó tạo điều kiện để HĐND nắm bắt được tình
hình thực tế.
1.3. 2. Giám sát của thường trực Hội đồng nhân dân
Là hình thức giám sát mang tính thường xuyên của HĐND. Theo quy
định Điều 52 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003: Thường trực Hội đồng

nhân

dân do Hội đồng nhân dân bầu ra và có ở ba cấp: tỉnh, huyện, xã.
Hoạt động giám sát của Thường trực HĐND tập trung vào Ủy ban nhân dân và
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng

cấp, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, các văn bản của cơ
quan Nhà nước cấp trên và các Nghị quyết của HĐND cùng cấp.
Căn cứ vào chương trình giám sát của HĐND, theo đề nghị của các Ban của Hội
đồng nhân dân, Đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng
cấp và ý kiến, kiến nghị của cử tri địa phương. Thường trực Hội đồng nhân dân quyết
định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình phù hợp với nhiệm vụ, quyền
hạn và điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương. Trên cơ sở chương trình giám sát đã
được thông qua, Thường trực HĐND phân công các thành viên của mình thực hiện các
nội dung trong chương trình giám sát, có thể giao cho các Ban của Hội đồng nhân dân
15


16
thực hiện một số nội dung theo chương trình và báo cáo kết quả với Thường trực khi cần
thiết.
Pháp luật quy định Thường trực Hội đồng nhân dân có thể thành lập Đoàn giám
sát trong trường hợp cần thiết trên cơ sở căn cứ vào chương trình giám sát của Thường
trực Hội đồng nhân dân hoặc theo yêu cầu của HĐND, đề nghị của các Ban của Hội
đồng nhân dân, Đại biểu Hội đồng nhân dân.
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ở địa phương, Thường trực
Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì Thưòng trực Hội đồng nhân dân có quyền yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết kịp thời
chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý vi phạm.
Đối với kiến nghị, chất vấn cuả Đại biểu Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng
nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận để chuyển đến người bị chất vấn; thông báo cho
người bị chất vấn thời hạn và hình thức trả lời chất vấn.
Để tăng cường mối quan hệ giữa Thường trực Hội đồng nhân dân và Uỷ ban

nhân dân cùng cấp trong việc thực hiện quyền giám sát, Thường trực Hội đồng nhân dân
có thẩm quyền trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành viên UBND theo đề
nghị của Uỷ ban mặt trận Tổ quốc và khi có ít nhất một phần ba tổng số Đại biểu Hội
đồng nhân dân yêu cầu.
Mối quan hệ giữa Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân
và Đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện quyền giám sát được thể hiện ở
nhiệm vụ của Thường trực Hội đồng nhân dân trong việc điều hoà, phối hợp hoạt động
giám sát của các cơ quan đó; tổng hợp kết quả giám sát trình Hội đồng nhân dân xem
xét, xử lý theo thẩm quyền. Thường trực Hội đồng nhân dân có trách nhiệm báo cáo Hội
đồng nhân dân về hoạt động giám sát của mình giữa hai kỳ họp.
Hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân là hình thừc giám sát
thường xuyên góp phần tháo dỡ những khó khăn, vướng mắc cho cơ sở trong việc tuân
thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
16


17
1.3.3. Hoạt động giám sát của các Ban của Hội đồng nhân:
Các Ban của Hội đồng nhân dân là sự tham gia của tập thể các Đại biểu Hội
đồng nhân dân vào việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND. Theo quy định Luật
tổ chức HĐND và UBND 2003 thì các Ban của Hội đồng nhân dân đượcthành lập ở
HĐND cấp tỉnh và cấp huyện để giúp HĐND trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của HĐND. Trong lĩnh vực giám sát, theo quy định Điều 74 Luật tổ chức HĐND và
UBND 2003 thì các Ban của Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ giúp Hội đồng nhân dân
giám sát đối với các đối tượng sau:
- Giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
- Giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, Luật, văn bản của cơ quan
Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Hoạt động giám sát của các

Ban Hội đồng nhân dân được thể hiện thông qua các hình thức:
- Thẩm tra các báo cáo, đề án do Hội đồng nhân dân hoặc thường trực Hội đồng
nhân dân phân công.
- Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, Nghị quyết
của Hội đồng nhân dân cấp dưới thực hiện trong trường hợp có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp.
- Trong trường hợp cần thiết, yêu cầu Uỷ ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn
thuộc Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp báo cáo về
những vấn đề thuộc lĩnh lực Ban phụ trách.
- Tổ chức đoàn giám sát.
- Cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề
thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Ban.
- Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân.
17


18
Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ giám sát, các Ban sẽ giám sát được quá trình xây
dựng kế hoạch hoạt động của Ban, phân công việc cụ thể cho thành viên, thẩm tra các
báo cáo, đề án được phân công. Trên cơ sở đó HĐND và các Đại biểu HĐND có thông
tin nhiều chiều, chính xác về những vấn đề ở địa phương, đảm bảo tính thống nhất trong
hoạt động chấp hành pháp luật ở địa phương.
Trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định, các Ban của HĐND có nhiệm vụ
thường xuyên theo dõi việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp,
Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật, có quyền
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung, đình chỉ thi
hành hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
Căn cứ vào chương trình giám sát của các Ban hoặc qua giám sát việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo của công dân, theo yêu cầu của HĐND hoặc thường trực HĐND trong
trường hợp cần thiết các Ban có thể thành lập các đoàn giám sát để tiến hành giám sát
khi phát hiện có vi phạm pháp luật. Đồng thời yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp để chấm dứt hành vi vi phạm, xử lý vi phạm, khôi
phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm.
Nếu người có trách nhiệm không xem xét, thực hiện yêu cầu của các Ban hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ, các Ban có thể đưa vấn đề đó ra kỳ họp HĐND xem xét, giải
quyết. Nếu người có trách nhiệm đó là đối tượng chịu sự chất vấn của Đại biểu HĐND
thì với tư cách là Đại biểu HĐND, thành viên các Ban có quyền chất vấn. Vì vậy có thể
coi đây là hình thức thực hiện “Quyền chất vấn mang tính tập thể” gắn với chức năng
giám sát của các Ban HĐND.
Các Ban của HĐND là hình thức tổ chức tập hợp các Đại biểu cơ quan dân cử ở địa
phương có cùng chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm về lĩnh lực nhất định, giúp
HĐND thẩm tra các báo cáo, đề án trình tại kỳ họp HĐND, giúp HĐND giám sát, kiểm
tra thực tế liên quan đến lĩnh vực hoạt động được giao. Hình thức giám sát của các Ban
chuyên môn chủ yếu được thực hiện giữa hai kỳ họp HĐND. Các Ban của HĐND không
chỉ giám sát tính hợp pháp với những văn bản, báo cáo, đề án mà còn tập trung vào việc
tổ chức các đoàn giám sát thực tế tại cơ sở, thực hiện giám sát theo chuyên đề.
18


19
Thông qua hoạt động giám sát của các Ban chuyên môn, giúp HĐND nắm bắt được
tình hình hoạt động của các cơ quan, tổ chức từ đó có biện pháp đôn đốc, kiểm tra và xử
lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, văn bản trái với pháp luật Nhà nước và
Nghị quyết của HĐND.
1.3.4. Hoạt động giám sát của Đại biểu Hội đồng nhân dân:
Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương
tham gia vào công tác quản lý Nhà nước tại địa phương. Hoạt động của Đại biểu HĐND
(trong đó có hoạt động giám sát) góp phần quan trọng vào việc xây dựng và thực hiện

các chủ trương, biện pháp của HĐND.
Theo quy định của Pháp luật hiện hành, hoạt động giám sát của Đại biểu HĐND
được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó chất vấn là hình thức giám sát
quan trọng nhất.
Giải thích thuật ngữ chất vấn, Từ điển Việt Nam ghi: “Chất vấn là câu hỏi và yêu
cầu phải giải thích rõ ràng”.
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 chưa có sự giải thích thuật ngữ chất vấn nhưng
theo Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội thì chất vấn là một hoạt động giám sát
trong đó Đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc trách nhiệm của người trả lời chất
vấn và yêu cầu những người này phải trả lời. Như vậy chất vấn là quyền đặc biệt của Đại
biểu Quốc hội và Đại biểu HĐND. Giám sát thông qua chất vấn là quyền đặc biệt của
Đại biểu Hội đồng nhân dân, là biểu hiện của nền dân chủ.
Theo quy định Điều 41 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 thì:
“Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ
tịch và các thành viên khác của Ủy ban nhân dân, Chánh án toà án nhân dân, Viện
trưởng viện kiểm sát nhân dân vàThủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cùng
cấp. Người bị chất vấn phải trả lời về những vấn đề mà Đại biểu Hội đồng nhân dân
chất vấn”.
Như vậy, đối tượng chịu sự chất vấn của Đại biểu Hội đồng nhân dân là những người
đứng đầu các cơ quan Nhà nước ở điạ phương. Quyền chất vấn của Đại biểu Hội đồng
nhân dân có thể được tiến hành tại kỳ họp HĐND hoặc giữa hai kỳ họp.
19


20
Tại kỳ họp HĐND, Đại biểu Hội dồng nhân dân gửi chất vấn đến Thường trực Hội
đồng nhân dân. Người bị chất vấn phải trả lời trước HĐND tại kỳ họp đó. Trường hợp
cần điều tra, xác minh thì HĐND có thể quyết định cho trả lời tại kỳ họp sau hoặc trả lời
bằng văn bản gửi đến Đại biểu đã chất vấn và Thường trực Hội đồng nhân dân.
Giữa hai kỳ họp HĐND, chất vấn của Đại biểu Hội đồng nhân dân được gửi đến

Thường trực Hội đồng nhân dân để chuyển đến người bị chất vấn và quyết định thời hạn
trả lời chất vấn.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân, Đại biểu Hội đồng
nhân dân có nghĩa vụ tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, nghiên cứu và
kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết. Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết
và thông báo cho người khiếu nại, tố cáo biết.
Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong hoạt động của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức, Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền “ Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân kịp thời chấm dứt những việc làm trái pháp
luật, chính sách của Nhà nước trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cán bộ, công chức,
nhân viên cơ quan, tổ chức đơn vị đó”. (Điều 42 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân 2003)
Khi thực hiện quyền giám sát, pháp luật quy định Đại biểu Hội đồng nhân dân có
quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước về việc thi hành pháp luật, chính sách của Nhà
nước. Cơ quan hữu quan phải có trách nhiệm trả lời kiến nghị của đại biểu. Đại biểu
HĐND có quyền đề nghị HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do
HĐND bầu.
Từ những phân tích trên cho thấy, hình thức giám sát của HĐND thông qua các Đại
biểu Hội đồng nhân dân là hình thức giám sát trực tiếp, thường xuyên vì suy cho cùng
hoạt động giám sát tại kỳ họp, thông qua Thường trực, các Ban của Hội đồng nhân dân
cũng chính là giám sát của các Đại biểu Hội đồng nhân dân. Vì vậy để nâng cao hiệu quả
giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay, phải đồng thời chú trọng nâng cao hiệu
quả các hình thức giám sát của HĐND, trong đó chú trọng hình thức giám sát của Đại
biểu Hội đồng nhân dân.
20


21
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG GIÁM

SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp.
2.1.1. Những thành tựu đạt được từ hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân:
a. Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 đã bổ sung những quy định về hoạt động
giám sát - Cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của
HĐND.
So với các văn bản pháp luật trước đó, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 quy định: “Hội đồng nhân dân thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với hoạt động của thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa
phương”( Điều 1 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2003).
Như vậy giám sát được xác định là một trong ba chức năng của HĐND, được quy
định trong Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003. Điều đó cho thấy vai trò quan
trọng của việc thực hiện chức năng giám sát và mối quan hệ giữa chức năng giám sát với
chức năng còn lại của HĐND các cấp trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở các quy định của Luật tổ chức HĐND và UBND 1994 cùng các văn bản
có liên quan, từ thực tiễn về hoạt động giám sát của HĐND trong thời gian qua cho thấy
yêu cầu đặt ra phải xác định rõ phạm vi, phương thức và cơ chế giám sát của
HĐND.Trước tình hình đó, việc sửa đổi và ban hành Luật tổ chức của HĐND và UBND
mới tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho hoạt động giám sát của HĐND đạt hiệu quả là yêu
cầu cấp thiết. Qua một thời gian lấy ý kiến của nhân dân (đặc biệt là những người làm
công tác thực tiễn trong cơ quan chính quyền địa phương ), ngày 26-11-2003 Quốc hội
đã thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND mới trong đó bổ sung Chương III quy định
về: “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các
Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân ”(Gồm 25 điều).
21



22
Theo quy định Chương III Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 thì phạm vi, thẩm
quyền giám sát của mỗi chủ thể được xác định rõ ràng. Song hoạt động giám sát của
HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND luôn có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Mỗi chủ thể thực hiện tốt hoạt động giám sát của mình tạo điều
kiện cho các chủ thể khác hoàn thành nhiệm vụ giám sát trong lĩnh vực được giao. Hiệu
quả giám sát của HĐND phụ thuộc vào hiệu quả giám sát của từng chủ thể trong quá
trình thực hiện hoạt động giám sát.
Những quy định cụ thể về chức năng, quyền hạn, phạm vi giám sát của HĐND trong
Chương III Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hoạt
động giám sát của HĐND muốn đạt hiệu quả cao thì trước hết các cơ quan, bộ phận thực
hiện nhiệm vụ đó phải đồng bộ, thống nhất nội tại với nhau tạo nên một hệ thống chỉnh
thể. Đồng thời khi xác định rõ thẩm quyền hoạt động của từng cơ quan, bộ phận, từng
khâu trong giám sát thì giữa chúng nhất thiết phải có một đầu mối chỉ đạo tập trung cho
mọi sự liên hệ, phối hợp. Quy định mới của Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 đã đáp
ứng về cơ bản các yêu cầu này. Hơn thế để tránh sự chồng chéo, trùng lặp trong hoạt
động giám sát của từng chủ thể giám sát thì pháp luật phải phân biệt rõ phạm vi thẩm
quyền mỗi chủ thể giám sát. Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 đã đáp ứng yêu cầu đó
mà trước hết thể hiện quy định về: Thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là cấp xã). Theo quy định Luật tổ chức HĐND và
UBND 1994 thì: Thường trực HĐND chỉ được thành lập ở HĐND cấp tỉnh và cấp
huyện. Ở cấp xã không có Thường trực HĐND. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của
HĐND trong nhiều năm qua cho thấy: Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND cấp xã mặc dù
không phải là thành viên Thường trực HĐND nhưng về chức năng, nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật thì về cơ bản, đã thực hiện nhiệm vụ của Thường trực HĐND. Song
chính vì Luật chưa có quy định về việc thành lập Thường trực HĐND ở cấp xã nên hoạt
động của HĐND cấp xã còn mờ nhạt, nhất là hoạt động giám sát. Để đáp ứng với yêu
cầu thực tiễn, tại kỳ họp thứ IX Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật tổ chức HĐND và
UBND mới trong đó bổ sung quy định Thường trực HĐND được thành lập ở cả ba cấp
tỉnh, huyện, xã. Từ đây thẩm quyền hoạt động của HĐND cấp xã được đề cao. Điều đó

22


23
có nghĩa là pháp luật đã bổ sung một hình thức giám sát của HĐND cấp xã - giám sát
thường xuyên thông qua Thường trực HĐND.
Thành phần Thường trực HĐND theo Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 có sự
thay đổi. Theo Luật tổ chức HĐND và UBND 1994 thì thành phần Thường trực HĐND
cấp tỉnh và cấp huyện bao gồm Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND. Vì thế trong cơ cấu
Thường trực HĐND ở các địa phương chỉ có một thành viên hoạt động chuyên trách.
Trong khi đó bí thư (hoặc phó bí thư) cấp uỷ kiêm Chủ tịch HĐND, do đó Thường trực
HĐND không thể bao quát hết công việc, càng không thể đa năng và có đủ thời gian để
thực hiện hoạt động giám sát của mình. Hoạt động giám sát của HĐND thông qua
Thường trực cũng vì thế mà bị hạn chế rất nhiều. Theo Điều 52 Luật tổ chức HĐND và
UBND 2003 thì: “Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện gồm Chủ tịch,
Phó chủ tịch và Uỷ viên thường trực. Thường trực Hội đồng nhân dân cấp xã gồm Chủ
tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân. Thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân
không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp”.
Như vậy, thành phần Thường trực HĐND cấp tỉnh và cấp huyện có sự thay đổi (kế
thừa Luật tổ chức HĐND và UBND sửa đổi 30-6-1989) bổ sung chức danh Uỷ viên
Thường trực. Việc tăng số lượng thành viên Thường trực HĐND cấp tỉnh và cấp huyện
nhằm đáp ứng yêu cầu của hoạt động giám sát. Cùng với quy định: “Thành viên của
Thường trực Hội đồng nhân dân không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân
dân cùng cấp” nhằm đảm bảo cho hoạt động giám sát được khách quan hơn, góp phần
từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND cho tương xứng với vị trí, vai trò
của HĐND trong giai đoạn hiện nay.
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 đề cao vai trò của Thường trực HĐND các cấp,
nhất là cấp xã là cần thiết, đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Là cơ sở pháp lý quan
trọng để thông qua Thường trực, HĐND thực hiện quyền giám sát thường xuyên của
mình đối với UBND, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, các tổ chức

kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân ở địa phương, đảm bảo cho các văn
bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và Nghị quyết của HĐND được thực hiện
một cách nghiêm túc và có hiệu quả.
23


24
b. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đã đạt được những thành tựu
sau:
- Đảm bảo thực hiện Nghị quyết của HĐND, chủ trương, chính sách của Nhà nước ở
địa phương.
Giám sát việc chấp hành pháp luật là chức năng của cơ quan quyền lực Nhà nước.
Với vị trí là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, HĐND được Quốc hội trao
quyền thực hiện chức năng giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương nhằm mục
đích bảo đảm cho các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên, Nghị quyết của HĐND,
chủ trương chính sách của Nhà nước ở địa phương được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Hoạt động giám sát của HĐND không chỉ đảm bảo cho chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước thực sự đi vào cuộc sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội, an ninh
quốc phòng được giữ vững, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên mà còn kịp thời
bổ sung, sửa đổi Nghị quyết HĐND cho phù hợp với tình hình cụ thể ở địa phương và
văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên.
Công tác giám sát của HĐND đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thường trực
HĐND phối hợp với các Ban của HĐND bám sát tình hình triển khai thực hiện Nghị
quyết của HĐND. Tổ chức thường xuyên các cuộc giám sát theo chuyên đề. Tập trung
vào các lĩnh vực chủ yếu đã được đề ra trong Nghị quyết của HĐND và các văn bản của
cơ quan Nhà nước cấp trên như: lĩnh vực thu chi ngân sách, an ninh quốc phòng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí, quản lí đất đai, bảo vệ và phát triển rừng, xoá đói giảm
nghèo, chống các tệ nạn xã hội…
Tại kỳ họp, HĐND đã chú trọng xem xét, thảo luận các đề án, báo cáo công tác của

các cơ quan Nhà nước ở địa phương; các đại biểu HĐND đã tích cực thực hiện quyền
chất vấn đối với người đứng đầu các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Theo báo cáo của
40 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tại Hội nghị toàn quốc về tổ chức và hoạt động
của HĐND và UBND diễn ra ở Hà Nội (từ 19/03/2003 đến 21/03/2003) thì từ đầu nhiệm
kỳ 1999-2004, đại biểu HĐND các cấp đã có 75.434 chất vấn, trong đó: Cấp tỉnh 2.927
chất vấn, cấp huyện 14.118 chất vấn, cấp xã 58.398 chất vấn [20,tr.15]. Thực hiện hoạt
24


25
động giám sát qua việc chất vấn giúp cho đại biểu HĐND phát hiện và có biện pháp xử
lý đối với hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng chịu sự giám sát.
Thông thường sau mỗi kỳ họp, thường trực HĐND có cuộc họp với UBND bàn biện
pháp triển khai thực hiện các Nghị quyết của HĐND. Đồng thời Thường trực HĐND
cũng giữ mối quan hệ công tác với UBND, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
thành viên của Mặt trận trong việc triển khai quán triệt các văn bản pháp luật của các cơ
quan Nhà nước cấp trên.
Theo số liệu thống kê của Hội nghị Toàn quốc về tổ chức và hoạt động của HĐND
và UBND 2003 cho thấy: HĐND các địa phương luôn luôn cải tiến các phương pháp
hoạt động, từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát góp phần thực hiện
thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các Nghị quyết của
HĐND. Điển hình như: ở Lạng Sơn, Ban thường vụ tỉnh uỷ đã ra chỉ thị về việc tăng
cường hoạt động giám sát của HĐND các cấp. Thường trực HĐND tỉnh Hà Tây, Thanh
Hoá tổ chức nghiên cứu đề tài nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát của HĐND.
Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập nhiều Đoàn giám sát các công
trình xây dựng quan trọng, giải toả đền bù cho nhân dân, có nhiều kỳ họp chuyên đề về
công tác đô thị.
Ở một số tỉnh từ nhiệm kỳ (1999-2004) HĐND đã tổ chức được nhiều cuộc giám sát
trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng như: Bình Định 272 cuộc; Phú
Yên 437 cuộc; Trà Vinh 385 cuộc; Tiền Giang 268 cuộc; Bà Rịa - Vũng Tàu 424 cuộc…

Thông qua giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và các đại biểu
HĐND, nhiều kiến nghị đã được UBND các nghành, các cấp triển khai thực hiện.
HĐND ở nhiều địa phương đã có sự phối hợp với các đoàn khảo sát, giám sát
của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức thành viên, mời đại diện UBND, ban, ngành cùng cấp tham gia đoàn
để tiến hành các cuộc giám sát. Sự phối hợp, kết hợp này mang lại hiệu quả hơn, nhiều
kiến nghị của HĐND qua công tác giám sát được các cơ quan, tổ chức triển khai kịp
thời. Theo báo cáo của 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì trong nhiệm kỳ
1999-2004 HĐND đã tổ chức được 606.814 đoàn giám sát, khảo sát trong đó: cấp tỉnh
25


×