Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.37 KB, 20 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1. 1Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngân hàng
Có nhiều thuyết nói về sự hình thành và phát triển của hoạt động
kinh doanh Ngân hàng trong lịch sử nhưng theo các nhà nghiên cứu kinh
tế hiện đại thì nghề ngân hàng ra đời vào khoảng thế kỷ XV. Sự ra đời
của nó là một tất yếu khách quan do yêu cầu phát triển của nền kinh tế
và do sự phát triển của phân công lao động xã hội. Trong thời kỳ đó, chế
độ phong kiến đã tạo ra những nền kinh tế khép kín trong từng lãnh
địa.Việc buôn bán trao đổi hàng hoá giữa các vùng, các lãnh địa với
nhau bằng các loại tiền khác nhau đã làm xuất hiện nghề kinh doanh
tiền tệ sơ khai đó là đổi tiền. Một bộ phận thương nhân nhậy bén đã
phát hiện ra một hoạt động kinh doanh mới “buôn bán tiền” với khả
năng kiếm lời cao.
Hình thức ban đầu của ngân hàng là: “ ngân hàng của ngưòi thợ
vàng” hay ngân hàng tiền gửi với mục đích cất giữ, bảo quản hộ tài sản
và tiền cho những người giầu có cũng như các thương gia. Nhưng phải
đến khi một số thương nhân chuyển hẳn từ kinh doanh hàng hoá sang
kinh doanh tiền tệ thì ngân hàng mới thực sự hình thành. Buôn bán các
phát triển hoạt động ngân hàng cũng mở rộng theo. Các ngân hàng
không chỉ dừng lại ở việc cất giữ và quản lý tài sản hộ cho khách hàng
mà còn thực hiện việc thanh toán tiền hộ giữa các nhà kinh doanh, điều
này giúp cho các nhà kinh doanh hạn chế được chi phí kinh doanh về
thời gian, chuyên chở cùng những rủi ro rất phổ biến như trộm cướp,
lừa đảo...và như vậy việc kinh doanh sẽ trở lên dễ dàng hơn thuận tiện
và an toàn hơn. Về phía các ngân hàng do sự chuyên môn hoá trong hoạt
động nên đã giảm được chi phí và có hiệu qủa hơn trong hoạt động.
Bên cạnh đó, trong quá trình nhận gửi và thanh toán, các ngân hàng
nhận thấy luôn có một lượng tiền gửi ổn định trong két sắt của mình
trong thời gian dài. Đó là tiền của những người tiết kiệm, những nhà
kinh doanh thu được tiền bán hàng nhưng lại chưa phải trả tiền mua


hàng....trong khi đó lại có nhiều nhà kinh doanh khác đang có cơ hội kinh
doanh song lại thiếu tiền để thực hiện. Nắm được nhu cầu đó, các ngân
hàng thực hiện việc cho vay. Hiệu quả đem lại rất lớn và các ngân hàng
đã khuyến khích việc gửi tiền của các khách hàng bằng việc trả lãi cho
họ thay vì thu phí bảo quản như trước. Qua đó các ngân hàng đã biến
các khoản vay, tiết kiệm thành các khoản đầu tư trực tiếp nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp sang nơi có tỷ suất lợi
nhuận cao.
Như vậy, có thể thấy rằng các ngân hàng chỉ hình thành trong
những điều kiện nhất định của sự phát triển nền kinh tế, các nghiệp vụ
mà một ngân hàng thực hiện cũng được phát triển dần từng bước theo
đà phát triển của các hoạt động khác trong nền kinh tế.
Từ đó đến nay, có thể khái quát quá trình phát triển của nghề
ngân hàng như sau:
- Giai đoạn từ TK XV đến TK XVIII: các ngân hàng đầu tiên ra đời,
hoạt động riêng lẻ và thực hiện các nghiệp vụ giống nhau.
- Giai đoạn từ TK XVIII đến TK XIX: các ngân hàng phát triển thành
hệ thống bao gồm:
+ Các ngân hàng phát hành: là những ngân hàng chuyên môn phát
hành giấy bạc ngân hàng để cho vay.
+ Các ngân hàng chuyên doanh: chuyên môn hoá vào các hoạt động
kinh doanh cụ thể như ngân hàng công nghiệp, ngân hàng thương
nghiệp , ngân hàng địa ốc, ngân hàng cho vay cầm cố, ngân hàng tiết
kiệm...
- Giai đoạn từ TK XIX đến nay: Hệ thống ngân hàng được tồn tại
dưới dạng hệ thống hai cấp
+ Ngân hàng Trung ương: được hình thành bằng sự hợp nhất hoá
và quốc hữu hoá các ngân hàng phát hành.
+ Các tổ chức tín dụng
Từ những phân tích trên đây ta có thể rút ra khái niệm NHTM

NHTM là một tổ chức kinh tế chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ, tín dụng mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên nhất cuả nó là nhận
tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó
để cho vay, đầu tư, chiết khấu và thực hiện một số dịch vụ khác.
Ngày nay, các ngân hàng là một bộ phận không thể tách rời tồn tại
một cách tất yếu trong đời sống kinh tế xã hội. Trình độ phát triển của
hệ thống ngân hàng của một quốc gia thể hiện trình độ phân công lao
động xã hội và phát triển của nước đó. Những thông tin có liên quan đến
hoạt động ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của tầng lớp dân
cư, các doanh nghiệp và chính phủ.
Nước ta trước năm 1998 chúng ta xây dựng hệ thống ngân hàng
một cấp theo mô hình của Liên Xô cũ. Mô hình này trên thực tế chỉ có
một ngân hàng và thích hợp với thời kỳ chiến tranh vì dễ quản lý, dễ
thực hiện được ý chí của nhà nước, huy động nguồn vốn phục vụ cho
công cuộc kháng chiến chống Mỹ thống trị các thành phần kinh tế khác.
Tuy nhiên, nó đã bộc những điểm yếu như không có hiệu quả không
quan tâm đến việc làm công cụ phát triển kinh tế, không kiểm soát được
khi có những biến động về kinh tế (lạm phát) sự phát triển của thị
trường “ chợ đen” với đầy dẫy những rủi ro, tiêu cực. Nguyên nhân là do
sự mất cân bằng giữa chức năng quản lý và chức năng kinh doanh của
ngân hàng nhà nước. Đến năm 1989 chúng ta đã chuyển sang hệ thống
ngân hàng hai cấp và từ đó ngành ngân hàng đã không ngừng phát triển
lớn mạnh đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, tạo sự hiệu quả cho nền
kinh tế cao. Các ngân hàng thương mại ở nước ta đã thực sự trở thành
một hệ thống tăng cương sức mạnh về số lượng, loại hình và nâng cao
chất lượng hoạt động . Ngày nay, chúng ta đã có một hệ thống ngân
hàng bao gồm: 16 ngân hàng thương mại quốc doanh, 51 ngân hàng
thương mại cổ phần, ( trong đó 31 ngân hàng thương mại cổ phần đô thị
và 20 ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn), 4 ngân hàng liên
doanh giữa Việt Nam và nước ngoài, 2 Công ty tài chính cổ phần và 22

chi nhánh ngân hàng nước ngoài tạo ra một thị trường cạnh tranh mạnh
mẽ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ ở Việt Nam.
1.1.2. Hoạt động chủ yếu của một NHTM
1.1.2.1. Huy động vốn
Các NHTM có nguồn vốn huy động của rất đa dạng và phong phú
có thể kể ra một số nguồn chủ yếu sau :
Nguồn tiền gửi: Bao gồm tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm lại được chia thành tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ
hạn. Đây là nguồn vốn chủ yếu của một NHTM theo đúng nghĩa của nó.
Trong các loại tiền gửi thì tiền gửi thanh toán là nguồn vốn có chi phí
thấp hơn cả. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn càng dài thì chi phí càng cao,
tuy nhiên đây là nguồn vốn ổn định cần thiết để ngân hàng có thể mở
rộng cho vay trung gian và dài hạn.
Nguồn vốn đi vay: Có người cho rằng NHTM là một tổ chức “ đi vay
để cho vay”, điều này rõ ràng không phản ánh chính xác nguồn gốc sự ra
đời cũng như bản chất hoạt động của NHTM. Ngân hàng chỉ đi vay khi có
những tình huống phát sinh đặc biệt như để đảm bảo khả năng thanh
khoản, để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định, để đáp ứng nhu
cầu mở rộng tín dụng. Tuy nhiên, không thể phủ nhận đây là nguồn vốn
rất quan trọng của ngân hàng. Tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà
NHTM có thể vay của NHTW, vay của các TCTD trong và ngoài nước hay
vay của dân cư, của các tổ chức kinh tế thông qua việc phát hành kỳ
phiếu , trái phiếu.
Ngoài ra các NHTM còn có thể tận dụng các nguồn vốn khác như
nguồn vốn uỷ thác của các TCTD lớn , các TCTC nước ngoài; nguồn vốn
phát sinh trong quá trình thanh toán giữa các ngân hàng. Tuy nhiên các
nguồn vốn này thường không ổn định và không phải ngân hàng nào cũng
có điều kiện sử dụng.
Ngoài nguồn vốn huy động các NHTM còn sử dụng nguồn vốn tự có
và các qũi của ngân hàng khi cần thiết

1.1.2.2. Sử dụng vốn
.Các hoạt động sử dụng vốn bao gồm hoạt động ngân quỹ, hoạt
động cho vay, hoạt động đầu tư, hoạt động mua sắm TSCĐ và công cụ lao
động.... Trên cơ sở nguồn vốn của mình, các ngân hàng sẽ tiến hành các
hoạt động sử dụng vốn để tìm kiếm lợi nhuận
Hoạt động ngân quỹ: Cũng như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác,
khả năng thanh toán thường xuyên là một trong những yếu tố quan
trọng nhất quyết định sự tồn tại hay sụp đổ của một ngân hàng. Khả
năng thanh toán thường xuyên của một ngân hàng đựoc đảm bảo bởi
các tài sản có tính lỏng rất cao như: tiền mặt tại két của ngân hàng, tiền
gửi tại NHTW và các NHTM khác, tiền đang trong quá trình thu. Số
lượng các tài sản này càng nhiều thì khả năng thanh toán của ngân hàng
càng được đảm bảo. Tuy nhiên đây cũng là những tài sản không sinh lời
hoặc sinh lời thấp nhất trong những tài sản của NHTM, việc giữ nhiều
những tài sản loại này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân
hàng. Chính vì vậy các ngân hàng cần phải tính toán để duy trì các tài
sản này ở mức hợp lý sao cho vừa đảm bảo khả năng thanh toán thường
xuyên, vừa đạt được mức lợi nhuận hợp lý công việc đó gọi là hoạt động
ngân quỹ
Hoạt động cho vay: Ngược lại với hoạt động ngân quỹ, là hoạt
động mang lại ít thu nhập nhất cho ngân hàng, hoạt động cho vay lại là
hoạt động chủ yếu thường xuyên nhất, mang lại lợi nhuận lớn nhất cho
ngân hàng. Thực chất hoạt động cho vay là việc thiết lập các quan hệ tín
dụng giữa ngân hàng với khách hàng, chúng đem lại cho ngân hàng
những khoản thu nhập lớn từ lãi tiền vay, song cũng đặt ngân hàng
trước những nguy cơ rủi ro cao nhất. Chính vì vậy mà việc quản lý
những khoản mục cho vay luôn được các ngân hàng đặc biệt chú ý.
Hoạt động đầu tư :Các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư bằng
cách tiến hành mua bán các chứng khoán trên thị trường để tìm kiếm lợi
nhuận thông qua chênh lệch giá. Đây cũng chính là cách thức để ngân

hàng thực hiện phương châm đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh. Hơn
nữa, các chứng khoán có độ an toàn và tính lỏng cao cũng sẽ giúp đảm
bảo khả năng thanh toán của ngân hàng được tốt hơn.
1.1.2.3,Hoạt động thanh toán và cung cấp các dịch vụ khác
Để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế ngày càng phát triển, từ chỗ
chỉ nhận tiền gửi và cho vay đến nay các NHTM đã không ngừng mở
rộng hoạt động của mình, cung cấp thêm nhiều dịch vụ mới, qua đó cũng
mang lại những khoản thu không nhỏ cho ngân hàng. Có thể kể ra một số
dịch vụ như: Dịch vụ thanh toán và cung ứng các phương tiện thanh
toán, Dịch vụ ngân quỹ, Dịch vụ bảo lãnh, Dịch vụ môi giới, Dịch vụ tư
vấn ... Nền kinh tế càng phát triển thì các loại dịch vụ càng đa dạng và
thu nhập từ các hoạt động này ngày càng cao.
1.2.Hoạt động tín dụng của ngân hàng
1.2.1. Khái niệm
Từ trước tới nay, trong xã hội luôn luôn xuất hiện những nguồn tiền
nhàn rỗi được nắm giữ bởi những chủ thể khác nhau. Các chủ sở hữu
những nguồn tiền này luôn mong muốn nguồn tiền của họ vận động để
sinh lợi, do đó, họ có nhu cầu cho vay số tiền nhàn rỗi đó để thu được lãi
từ những khoản cho vay, khả năng mong muốn đó tạo thành cung về tín
dụng. Mặt khác trong xã hội có những người có nhu cầu sử dụng vốn
vượt quá số tiền của mình đang sở hữu vào mục đích khác nhau cũng
nhằm mục tiêu sinh lời, mong muốn tiêu dùng của họ tạo nên cầu tín
dụng.
Ngân hàng thương mại có chức năng trung gian tài chính đã đáp
ứng đứng ra thoả mãn được nhu cầu của họ bằng cách: Huy động vốn
tạm thời nhàn rỗi và dùng nguồn vốn thừa đó để cho vay đối với những
người cần vốn. Do đó, tín dụng được hình thành và tín dụng đó được
hiểu trên hai nghĩa: Tín dụng thể hiện sự tôn trọng tin tưởng của người
nào đó sẽ hoàn thành nghĩa vụ trả tiền theo quy định của họ phù hợp với
ý muốn và khả năng của người đó, ý nghĩa thứ hai: Tín dụng là sự

chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị của thể nhân hay pháp nhân
(người cho vay) cho một người khác (người đi vay) được sử dụng trong
một thời gian nhất định với cam kết hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng
1.2.2.1. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với NHTM
Hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng là huy động vốn và
cho vay, bên cạnh đó thì ngân hàng còn tiến hành một số hoạt động dịch
vụ khác nhằm tăng thêm lợi nhuận
Hoạt động cho vay là một hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng.
Qua sử dụng để cho vay các khách hàng ngân hàng thu được lãi do khách
hàng trả, có càng nhiều khoản cho vay thì ngân hàng càng có cơ sở thu
được nhiều lãi. Từ phần lãi thu được sau đó trừ đi phần chi phí cần thiết
khác như: trả lãi vốn huy động, trả lương cho cán bộ công nhân viên,
trích lập các quĩ ... là phần lợi nhuận của ngân hàng .
Bên cạnh đó, khi ngân hàng cho vay các doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp mới thì thường hoạt động của doanh nghiệp gắn liền
với ngân hàng, mọi nhu cầu về vốn lưu động phục vụ cho chu kỳ sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp đều qua ngân hàng. Nhờ vậy, ngân hàng có
thể tăng thêm được tín dụng ngắn hạn góp phần tăng thêm thu nhập cho
ngân hàng
Ngoài ra khi các doanh nghiệp tiến hành vay vốn của ngân hàng
thì doanh nghiệp phải mở tài khoản tại ngân hàng, do đó, mọi hoạt động
thu chi của doanh nghiệp qua tài khoản tiền gửi đều do ngân hàng thực
hiện hộ. Như vậy, ngân hàng có thể cung cấp các dịch vụ phục vụ khách
hàng, từ đó tăng thêm được nguồn tiền gửi cho ngân hàng, nếu như
ngân hàng hoạt động có uy tín đối với khách hàng, thì khách hàng sẽ đến
giao dịch với ngân hàng thường xuyên hơn. Đây là cơ sở để ngân hàng
mở rộng hoạt động kinh doanh tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị
trường nhằm thu hút được nhiều lợi nhuận
Có thể nói tín dụng ngân hàng vừa góp phần tăng lợi nhuận ngân

hàng vừa kéo theo nhu cầu về vốn lưu động và qua đó ngân hàng có thể
tăng vị thế của mình trên thị trường và có thể cung ứng những dịch vụ
phục vụ cho khách hàng
1.2.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
Nền kinh tế nước ta vừa trải qua thời kỳ tập trung quan liêu bao
cấp nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển sản xuất kinh doanh của đất nước. Tín dụng ngân hàng
đã tạo ra điều kiện thay đổi đời sống kinh tế xã hội .
- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sản xuất phát triển

×