Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Khái niệm, đặc điểm giáo dục pháp luật trong trường đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.46 KB, 8 trang )

Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

24

KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRONG TRƢỜNG ĐẠI HỌC
ThS. Vũ Thị Phƣơng Thảo
Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Giáo dục pháp luật (GDPL) có vai trò đặc biệt quan trọng trong công
tác giáo dục và đào tạo. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương đưa
GDPL vào nhà trường, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới giáo dục đại học
(GDĐH) hiện nay. Bài viết này giúp người đọc hiểu rõ hơn về chủ trương,
quan điểm quan trọng của đảng và pháp luật (PL) của nhà nước về GDPL và
GDPL trong nhà trường; khái niệm, đặc điểm của GDPL trong trường đại học
(ĐH). Từ đó, công chức, viên chức (CCVC) trong nhà trường, đặc biệt là giảng
viên (với vai trò là một chuyên gia, nhà thiết kế, người tư vấn, người quản lý
quá trình học tập và đánh giá giáo dục) tự trả lời được câu hỏi: Mình phải làm
gì để góp phần GDPL cho HSSV? Mình có cần được GDPL không?.
Từ khóa: Giáo dục pháp luật trong trường đại học.

1. Chủ trƣơng, quan điểm quan trọng
của đảng và PL của nhà nƣớc về
GDPL và GDPL trong nhà trƣờng
Kế thừa các chủ trương của Đảng
từ Đại hội Đảng V đến nay, Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 32CT/TW của ngày 09/12/2003 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật
(PBGDPL), nâng cao ý thức chấp hành
PL của cán bộ, nhân dân.
Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg


ngày 12/3/2008 Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chương trình PBGDPL từ
năm 2008 đến năm 2012. Trong 04 đề
án của Chương trình, đề án quan trọng
đối với hoạt động GPPL trong nhà
trường là Đề án “ Nâng cao chất lượng
công tác PBGDPL trong nhà trường”
(Đề án 1928). Ngày 09/8/2013, Bộ
Giáo dục & Đào tạo đã tổ chức Hội
nghị tổng kết Đề án này.Tại Hội nghị,
để tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32CT/TW, Bộ Tư pháp đã đề xuất tiếp
tục kéo dài thời gian thực hiện các Đề

án này đến năm 2016. Điều đó thể hiện
sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đến
công tác PBGDPL, đặc biệt là trong
nhà trường.
Nhận thức được sự cần thiết phải
ban hành Luật PBGDPL- cầu nối giữa
hoạt động xây dựng và thực hiện PL,
Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 đã thông
qua Luật phổ biến, giáo dục pháp
luậtngày 20/6/2012, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01/01/2013;Ngày 04/4/2013,
Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định
số 28/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật
PBGDPL thể hiện rõ chính sách của Nhà
nước về công tác PBGDPL.

Kết luận số 04-KL/TW của Ban Bí
thư Ban chấp hành trung ương Đảng
ngày19/4/2011 tổng kết 6 năm thực hiện
Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khoá IX) về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành
PL của cán bộ, nhân dân đã chỉ ra những


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

hạn chế trong công tác này, những hạn
chế cơ bản có thể kể đến là: vẫn còn một
số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa quan tâm
đúng mức đến việc chỉ đạo triển khai công
tác PBGDPL; chưa coi công tác này là
một bộ phận của công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng; tổ chức bộ máy, cơ chế thực
hiện và trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức và cá nhân tham gia hoạt động này
và các cơ chế, chính sách có liên quan
chưa được quy định rõ ràng ...
Vì vậy, chúng ta vẫn cần phải tiếp
tục lựa chọn, vận dụng các hình thức,
phương pháp GDPL cho phù hợp với
từng nội dung GDPL cho từng đối tượng
GDPL cụ thể nhằm đạt được những mục
tiêu GDPL đặt ra, tạo mọi điều kiện bảm
đảm để nâng cao chất lượng GDPL, nhất

là GDPL trong trường đại học - cái nôi
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho đất nước.
2. Khái niệm, đặc điểm của GDPL
trong trƣờng đại học
2.1. Khái niệm, đặc điểm của GDPL
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác
nhau về PL. Theo quan điểm Mác Lênin về nhà nước và PL, PL được hiểu
là “hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt
buộc chung, do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội theo mục tiêu và định hướng
cụ thể” [3, tr.98].Để xây dựng khái niệm
GDPL, phần lớn các nhà nghiên cứu về
pháp luật đứng ở góc độ nhìn nhận khái
niệm giáo dục theo nghĩa hẹp, theo đó,
giáo dục được hiểu là “quá trình tác
động định hướng của nhân tố chủ quan
lên khách thể giáo dục” [1, tr.9]và phần
lớn cùng thống nhất nhìn nhận hoạt động
GDPL là sự tác động của nhân tố chủ
quan, trong đó yếu tố tiên quyết là hoạt

25

động giáo dục định hướng, có tổ chức,
có chủ định của nhiều chủ thể lên ý thức
của con người. GDPL lúc này được xem
là yếu tố quan trọng nhất và giữ vai trò
chủ đạo trong quá trình hình thành ý

thức PL của con người.
Từ những khái niệm công cụ cơ
bản và quan điểm nêu trên, hiện nay đã
có sự thống nhất trong cách hiểu về
GDPL, đó là “giáo dục pháp luật là quá
trình tác động một cách có hệ thống,
mục đích và thường xuyên tới nhận thức
của con người nhằm trang bị cho mỗi
người trình độ pháp lý nhất định để từ
đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn
trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của
pháp luật” [3, tr.179].
Tùy thuộc vào đối tượng giáo dục,
mức độ cần được giáo dục, hình thức
giáo dục mà xác định mục đích cụ thể
của GDPL. Tuy nhiên, mục đích chung
của hoạt động GDPL hướng đến là mục
đích nhận thức, mục đích cảm xúc và
mục đích hành vi.
Thứ nhất là mục đích nhận thức:
Mục đích nhận thức của GDPL là nhằm
nâng cao khả năng nhận thức, hiểu biết
PL, hình thành tri thức PL cần thiết cho
đối tượng GDPL. Một khi đối tượng
GDPL đã có tri thức PL đúng đắn thì sẽ
tạo lòng tin vào PL, để từ đó giúp đối
tượng GDPL thực hiện hành vi của mình
một cách có ý thức và có khả năng tự
đánh giá hành vi của mình là trái pháp luật
hay không. Đây là mục đích quan trọng

hàng đầu của GDPL.
Thứ hai là mục đích cảm xúc: Mục
đích cảm xúc mà hoạt động GDPL
hướng tới là khơi dậy tình cảm, lòng tin
và thái độ đúng đắn của đối tượng
GDPL đối với PL. Muốn đạt được mục


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

đích này, một mặt, đối tượng GDPL phải
có kiến thức PL; mặt khác, bản thân hệ
thống PL phải chuẩn hóa; chủ thể triển
khai thi hành các quy định PL phải làm
hết chức năng, nhiệm vụ của mình, có
đạo đức công vụ thì mới tạo được sự
công bằng. Không có “thước đo” chuẩn,
không có sự công bằng trước PL thì
không thể có công lý, do vậy đối tượng
GDPL không thể có lòng tin vào PL.
Thứ ba là mục đích hành vi: Mục
đích hành vi của GDPL là nhằm chuyển
hóa nhận thức, tri thức PL của đối tượng
GDPL thành thói quen với động cơ tích
cực. Hoạt động GDPL cho các đối tượng
không phải chỉ dừng lại ở việc cung cấp
tri thức PL, từ đó họ có tình cảm và lòng
tin đối với PL mà phải đạt được mục tiêu
cuối cùng là điều chỉnh được hành vi của
các đối tượng GDPL theo hướng tích cực,

đó là các thói quen xử sự theo PL, để
“sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật” không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu.
2.2. Khái niệm, đặc điểm GDPL trong
trƣờng đại học
Trong cơ sở GDĐH, đối tượng
GDPL là công chức, viên chức và học
sinh, sinh viên (HSSV). Trong trường
ĐH, viên chức, nhất là viên chức là
giảng viên vừa là đối tượng GDPL
nhưng cũng vừa là chủ thể GDPL cho
viên chức khác và HSSV.
Nếu chất lượng đội ngũ CCVC,
giảng viên, HSSV trong các trường ĐH
được nâng cao, theo đó văn hóa PL tỷ lệ
thuận với trình độ học vấn và ngày càng
được nâng lên theo các bậc học sẽ tạo
được một nguồn nhân lực có chất lượng
chuyên môn cao, ý thức pháp luật tốt,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, góp phần tăng cường

26

pháp chế XHCN và xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Dựa vào cách hiểu về GDPL được
phần lớn các nhà nghiên cứu PLthống
nhấtvà đối tượng GDPL trong cơ sở
GDĐH, tác giả mạnh dạn đưa ra khái

niệm GDPL trong trường ĐH như sau:
GDPL trong trường ĐH là quá trình
tác động có hệ thống, mục đích,
thường xuyên của các chủ thể GDPL
trong và ngoài trường lên CCVC,
HSSV trong nhà trường nhằm trang bị
cho họ trình độ văn hóa pháp luật nhất
định để từ đó họ có kiến thức pháp
luật, có lòng tin, sự tôn trọng đối với
pháp luật và tự giác thực hiện hành vi
hợp pháp.
Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra các
đặc điểm cơ bản của GDPL trong trường
ĐH như sau:
a) Về mục tiêu GDPL trong trường ĐH
Mục đích của giáo dục nói chung
theo quan điểm của Ủy ban Quốc tế về
Giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO là
“học để biết, học để làm, học để cùng
chung sống và học cách sống”, điều đó
có nghĩa là mục đích của hoạt động
GDPL trong trường ĐH nói riêng là
trang bị cho đối tượng GDPL các kiến
thức PL cơ bản để nâng cao khả năng
hiểu biết PL, để làm việc theo quy định
PL, để vận dụng các kiến thức ấy vào
quá trình học tập và rèn luyện trong
trường, thực tiễn công vụ, nhiệm vụ khi
đi làm việc.
Mục tiêu chung của hoạt động

GDPL trong trường học mà Đề án
1928 đã nêu rõ: “Nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác PBGDPL trong
nhà trường. Tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng PL


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

và hành vi chấp hành PL của nhà giáo,
cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và người
học, góp phần ổn định môi trường giáo
dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện” [2, tr 1].
GDPL là một bộ phận của công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là
nhiệm vụ của toàn hệ thống chính trị
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mục
tiêu của hoạt động GDPL trong trường
ĐH là nhằm: một là, trang bị cho các
đối tượng GDPL những tri thức PL cần
thiết, xây dựng lòng tin đối với PL,
hình thành những động cơ tích cực và
thói quen xử sự phù hợp với yêu cầu
của PL; hai là, xây dựng ý thức PL,
nâng cao trình độ văn hóa PL, từng
bước hình thành phẩm chất công dân
cho các thế hệ HSSV với mục tiêu đào
tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện; ba là, định hướng cho người học

có sự hiểu biết cơ bản nhất về nhà
nước, PL, quyền và nghĩa vụ cơ bản
cũng như trách nhiệm của công dân
trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
b) Về chủ thể, đối tƣợng GDPL trong
trƣờng đại học
Căn cứ vào nghề nghiệp, có thể
phân loại đối tượng GDPL trong trường
ĐH là các đơn vị sự nghiệp công lập
(sau đây gọi tắt là trường ĐH) thành hai
nhóm chính là CCVC và người học.
CCVC trong trường ĐH vừa là đối
tượng GDPL nhưng đồng thời cũng là
chủ thể GDPL cho đối tượng GDPL là
HSSV.
* Công chức, viên chức vừa là đối
tƣợng, vừa là chủ thể GDPL trong
trƣờng đại học

27

Căn cứ vào khái niệm cán bộ,
CCVC trong Luật cán bộ, công chức năm
2008, Luật viên chức năm 2010 và các
văn bản hướng dẫn thi hành luật, có thể
phân loại những người làm việc trong các
trường ĐH gồm những loại sau:
- Công chức: Công chức là công dân
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm

vào ngạch, chức vụ, chức danh trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập, trong biên chế, hưởng
lương từ quỹ lương của đơn vị theo quy
định của PL. Trong đơn vị sự nghiệp công
lập, người đứng đầu, cấp phó của người
đứng đầu, cấp trưởng, cấp phó tổ chức cấu
thành đơn vị sự nghiệp công lập được quy
định là công chức. Như vậy, trong trường
ĐH loại này, công chức là Hiệu trưởng,
Phó Hiệu trưởng nhà trường.
- Viên chức: Viên chức là công dân
Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc
làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập
theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng
lương từ quỹ lương của đơn vị theo quy
định của PL. Như vậy, đội ngũ giáo viên,
giảng viên (gọi chung là giảng viên), người
không làm công tác giảng dạy nhưng được
tuyển dụng theo chế độ hợp đồng làm việc,
hưởng lương từ quỹ lương trong trường
ĐH này là viên chức nhà nước.
Viên chức được nêu trên có thể
chia làm 03 nhóm sau: một là, viên chức
là giảng viên; hai là, viên chức quản lý;
ba là, viên chức còn lại không phải là
viên chức quản lý, cũng không phải là
giảng viên, do vậy có thể gọi đây là viên
chức phục vụ công tác đào tạo.
Theo quy định của Luật Giáo dục

năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
và Luật GDĐH năm 2012 thì giảng viên


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

trong cơ sở GDĐH là người có nhân thân
rõ ràng; có phẩm chất, đạo đức tốt; có
sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt
trình độchuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ
như sau: có bằng tốt nghiệp ĐH trở lên
và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm đối với nhà giáo giảng dạy cao
đẳng, ĐH; có bằng thạc sĩ trở lên đối với
giảng viên giảng dạy chuyên đề, hướng
dẫn luận văn thạc sĩ; có bằng tiến sĩ đối
với giảng viên giảng dạy chuyên đề,
hướng dẫn luận án tiến sĩ.
Viên chức quản lý trong trường
ĐH là những người được bổ nhiệm giữ
chức vụ quản lý có thời hạn, chịu trách
nhiệm điều hành, tổ chức thực hiện
một hoặc một số công việc trong đơn
vị sự nghiệp công lập nhưng không
phải là công chức và được hưởng phụ
cấp chức vụ quản lý. Vì vậy, trong
trường ĐH, Trưởng, Phó các phòng,
khoa, bộ môn; Giám đốc, Phó Giám
đốc các trung tâm và các chức danh
tương đương ở các đơn vị tương đương

với Phòng, Khoa, Trung tâm được gọi
là viên chức quản lý.
CCVC trong trường ĐH là đối
tượng quan trọng của hoạt động GDPL,
đặc biệt viên chức là giảng viên. Đây là
đối tượng có trình độ chuyên môn cao,
đồng đều. Vì vậy, họ đã có những kiến
thức PL được đào tạo cơ bản trong các
chương trình học cao đẳng, ĐH và sau
ĐH. Mặt khác, do đặc thù nghề nghiệp
nên họ luôn có nhu cầu nâng cao và cập
nhật kiến thức chuyên môn, trong đó có
cả kiến thức về PL.
Tuy nhiên, thường thì các trường
ĐH chưa chú trọng đến hoạt động GDPL
cho đội ngũ này một cách thường xuyên,
có kế hoạch. Các nội dung GDPL cho

28

công chức, viên chức thường được trang
bị trong quá trình triển khai công tác,
nhiệm vụ của cấp ủy Đảng, Công đoàn,
Đoàn thanh niên, Nữ công… theo nội
dung của cơ quan, tổ chức cấp trên. Các
văn bản PL trong ngành giáo dục, tư
pháp, tài chính, khoa học và công nghệ
… liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ
của CCVC thường được các phòng chức
năng như phòng tổ chức hành chính, tài

chính kế toán, quản lý đào tạo, khoa học
và quan hệ quốc tế, khảo thí và đảm bảo
chất lượng… áp dụng các văn bản quy
phạm pháp luật để thực hiện. Công tác
giải thích, phổ biến PL chỉ diễn ra sau
khi có những khúc mắc, kiến nghị về
việc giải quyết các quyền và nghĩa vụ từ
phía viên chức.
Trên thực tế, GDPL cho đội ngũ
CCVC là một hoạt động có vai trò quan
trọng góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực
giáo dục; góp phần trực tiếp vào việc
nâng cao chất lượng giáo dục trong
trường ĐH. Nếu hoạt động GDPL cho
CCVC được triển khai có kế hoạch,
thường xuyên, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát của nhiều chủ thể
GDPL khác thì sẽ tạo được không khí
dân chủ, đoàn kết nội bộ tốt, tránh được
tình trạng khiếu nại, tố cáo cũng như
những hành vi VPPL khác như tham
nhũng và những hệ lụy từ việc thương
mại hóa giáo dục - một vấn đề nhạy cảm
luôn được xã hội đặc biệt quan tâm.
Riêng đội ngũ giảng viên là những
người giữ vai trò quyết định trong việc
bảo đảm chất lượng giáo dục, trong đó có
GDPL. Muốn vậy, đội ngũ này cần nắm
vững đặc điểm của đối tượng HSSV, có

kiến thức pháp luật vững vàng, có đạo


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

đức nghề nghiệp. Để tăng cường GDPL
trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn
diện GDĐH, điều kiện tiên quyết là
trường ĐH là phải có đội ngũ giảng viên
PL được đào tạo đạt chuẩn, có trình độ sư
phạm tốt, đủ về số lượng và có kỹ năng
thực hiện hoạt động GDPL một cách
chuyên nghiệp, có như vậy mới đề xuất
được những giải pháp phù hợp, tổ chức
được các hoạt động GDPL trong trường
ĐH đạt hiệu quả cao.
* Học sinh, sinh viên - đối tƣợng
GDPL chủ yếu trong trƣờng ĐH
Người học trong trường ĐH là
những HSSV có năng lực hành vi đầy đủ
trong các lĩnh vực phổ biến như hình sự,
hành chính, dân sự... ; đang trong giai
đoạn dần dần hoàn thiện một số nét cơ
bản về nhân cách nhưng lại chưa ổn định;
đã phần lớn vươn ra khỏi vòng tay chăm
lo của gia đình, bắt đầu học cách sống tự
lập và phải chịu sự điều chỉnh của PL, tự
chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi
tham gia vào các quan hệ PL.
HSSV là đối tượng đang tiếp thu

những kiến thức, kỹ năng chuyên môn
ở trƣờng ĐH để chuẩn bị cho hoạt
động nghề nghiệp sau khi ra trƣờng,
cónhững nét tâm lý điển hình như: tính tự
ý thức cao; có tình cảm nghề nghiệp; có
khát vọng thành đạt với nhiều mơ
ước...Vì vậy, HSSV có thể xác định được
các mục tiêu học tập, rèn luyện và thể
hiện bằng hành động học tập, rèn luyện
trong suốt thời gian học tại trường ĐH.
Tuy nhiên, HSSV không tránh khỏi
những hạn chế chung của lứa tuổi thanh
niên đó là sự thiếu chín chắn trong suy
nghĩ, hành động, nhất là trong việc tiếp
thu, học hỏi những cái mới. Vì thế,
HSSV dễ nảy sinh sự phát triển tâm sinh

29

lý lệch lạc, hành vi trái PL dẫn đến thực
hiện những hành vi trái với chuẩn mực
xã hội, vi phạm PL do thiếu hiểu biết về
kiến thức xã hội và kiến thức PL nói
riêng. Ngược lại, nếu có một nền tảng
giáo dục tốt và được giáo dục kịp thời
với những nội dung, hình thức, phương
pháp phù hợp thì cũng HSSV cũng dễ
uốn nắn, dễ tiếp thu các điều hay lẽ phải
khi được định hướng, điều chỉnh khi còn
đang ngồi trên giảng đường ĐH.

Với quan điểm GDPL cho HSSV
trong nhà trường là giáo dục đạo đức,
lối sống, giáo dục ý thức công dân, ý
thức làm người nên cần phải đưa nhiều
nội dung GDPL vào chương trình học
tập, sinh hoạt của HSSV trường ĐH.
Điều này sẽ có tác động lớn trong việc
định hướng, phát triển hình thành tư
cách công dân, góp phần điều chỉnh
hành vi, nâng cao nhận thức, xây dựng
nhân cách, xây dựng tính hướng thiện,
đảm bảo tính liên tục trong nhận thức;
hình thành trong các em hành vi, thói
quen tự giác xử sự đúng PL và có ý
thức tuân thủ PL.
c) Đặc điểm về nội dung GDPL trong
trƣờng ĐH
* Nội dung GDPL cho CCVC
trong trƣờng ĐH
Nội dung GDPL được xác định
trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu công việc,
trình độ nhận thức, yêu cầu về quản lý
nhà nước, quản lý xã hội… của từng
nhóm đối tượng. Trong hoạt động phổ
cập kiến thức pháp luật, cần xác định rõ
mức độ trong nội dung GDPL, đó là
trang bị các kiến thức pháp luật: phổ
biến, cần thiết, phù hợp cho mọi đối
tượng GDPL; theo nhu cầu ngành nghề
để đáp ứng các yêu cầu của công việc;



Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

theochuyên ngành cho những chủ thể
GDPL chuyên nghiệp. Vì vậy, nội dung
GDPL có phạm vi rộng.
Nội dung GDPL được truyền đạt từ
nhiều chủ thể GDPL khác nhau ở trong
và ngoài trường, cụ thể là:
Một là, những nội dung GDPL cần
thiết, phổ biến được nêu tại Điều 10 của
Luật PBGDPL năm 2012;
Hai là, các kiến thức PL liên quan
đến công tác giáo dục và đào tạo như:
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính
phủ ngày 02/11/2011 về đổi mới cơ bản
và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn
2006 - 2020; Luật Giáo dục 2005; Luật
GDĐH năm 2012; Luật Cán bộ, công
chức năm 2008; Luật Viên chức năm
2010; Luật Khoa học và Công nghệ năm
2013; Bộ luật lao động năm 2012…
Ba là, các kiến thức theo chuyên
ngành cho những chủ thể GDPL
chuyên nghiệp. Đối với CCVC đang
được đặt ở vị trí là đối tượng GDPL
nhưng đồng thời họ cũng là chủ thể
GDPL chính cho đối tượng GDPL là
người học. Do vậy họ được trang bị

các kiến thức PL chuyên ngành từ các
cơ sở đào tạo trong quá trình họ học
tập nâng cao trình độ chuyên môn;
trong quá trình lãnh đạo trường ĐH
triển khai các nhiệm vụ của nhà
trường; Đảng ủy, Công đoàn, Đoàn
thanh niên triển khai công tác; đặc biệt
là họ có khả năng tự cập nhật và tự
trang bị các kiến thức PL thông qua
nhiều hình thức GDPL từ các chủ thể
GDPL khác trong và ngoài trường.
* Nội dung GDPL cho HSSV trong
trƣờng ĐH
Đưa GDPL vào trường ĐH là việc
sử dụng các thiết chế bộ máy, các cơ sở

30

vất chất của nhà trường, thông qua chức
năng giáo dục của nhà trường, truyền đạt
được những nội dung GDPL nhằm trang
bị cho HSSV những tri thức PL cần
thiết, bồi dưỡng tình cảm, xây dựng,
hình thành ý thức PL làm cơ sở cho sự
hình thành hành vi và thói quen xử sự có
các hành vi phù hợp PL.
Trường ĐH là môi trường GDPL
cho HSSV trực tiếp, thường xuyên nhất,
dễ đạt hiệu quả cao và là con đường
ngắn nhất góp phần đưa PL đến với đội

ngũ tri thức chất lượng cao trong tương
lai bởi lẽ GDPL trong trường ĐH là sự
tác động có định hướng, nội dung kiến
thức được sắp xếp khoa học, có tính kế
thừa và liên thông. Nhờ vậy, dần dần
hình thành trong HSSV những hành vi
tự giác ứng xử theo chuẩn mực xã hội,
chuẩn mực PL; biết đề phòng, biết đấu
tranh và khắc phục những sai lệch so với
các chuẩn mực đã được quy định; đồng
thời biết tự điều chỉnh hành vi của mình
theo khuôn khổ của PL một cách tự giác.
Từ đó, trường ĐH có cơ sở để lựa
chọn nội dung GDPL phù hợp với mục
tiêu GDPL, cụ thể như sau:
Một là, các kiến thức PL phổ thông
cho mọi HSSV thông qua chương trình
đào tạo học phần pháp luật đại cương.
Hai là, các kiến thức PL chuyên
ngành cho HSSV thuộc các ngành đào
tạo ở các trình độ đào tạo khác nhau
như học phần PL kinh tế, soạn thảo văn
bản, nhập môn hành chính nhà nước,
PL xây dựng…
Ba là, các kiến thức PL khác chưa
được đưa vào nội dung dạy và học chính
khóa như các quy định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo và của nhà trường liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của HSSV.



Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

d) Đặc điểm về hình thức, phƣơng
pháp GDPL trong trƣờng đại học
* Về hình thức GDPL trong trƣờng
đại học
Hình thức GDPL trong trường ĐH
là cách thức tiến hành các hoạt động tổ
chức quá trình GDPL để thể hiện, truyền
đạt các nội dung GDPL đến đối tượng
GDPL.
Tùy vào đối tượng GDPL, ưu điểm
và nhược điểm của từng hình thức mà
chủ thể GDPL có thể lựa chọn và kết
hợpcác hình thức GDPL phù hợp. Các
trường ĐH đều có website riêng. Đây là
điều kiện thuận lợi để xây dựng chuyên
mục PBGDPL trên website này nhằm
cập nhật thông tin PL, nhất là các văn
bản PL, thông tin có liên quan đến quyền
lợi của viên chức, giảng viên, HSSV.
Tuy nhiên, theo tác giả, đối với đối
tượng GDPL có trình độ học vấn cao như
CCVC trong trường ĐH, đặc biệt là đối
với viên chức là giảng viên thìhình thức
tự GDPL là một hình thức chưa được các
nhà nghiên cứu PL đề cập đến nhưng
theo tác giả thì đây là hình thức GDPL
tiên quyết quyết định chất lượng GDPL

cho chính đối tượng này vì họ là đối
tượng có khả năng tự nghiên cứu để tự
đáp ứng nhu cầu hiểu biết PLcủa mình.
Còn đối với HSSV, hình thức
GDPL mang lại hiệu quả caonhất chính

31

là giảng dạy PL trong chương trình đào
tạo chính khóa. Do vậy chất lượng đội
ngũ giảng viên giảng dạy PL chính là
chìa khóa của chất lượng GDPL cho
HSSV trong nhà trường.
* Phương pháp GDPL trong trường ĐH
Phương pháp GDPL là tổng thể cách
thức, biện pháp mà các chủ thể GDPL
dùng để tác động vào đối tượng GDPL để
truyền đạt các nội dung GDPL nhằm đạt
được các mục tiêu GDPL đặt ra.
Chủ thể GDPL là những người có
kiến thức PLvà kinh nghiêm thực tiễn
nhất định. Để truyền đạt được các nội
dung GDPL một cách dễ hiểu, thuyết
phục, đạt được mục tiêu đặt ra, họ phải
đặt mình ở vị thế của người giảng viên
… nên họ sử dụng PPGDPL chủ yếu là
các phương pháp sư phạm.
Ngoài ra, các chủ thể GDPL còn
thường phối hợp với các tổ chức đoàn
thể, bộ phận thanh tra - pháp chế và các

chủ thể khác ngoài trường như cơ quan
công an, tòa án, các hội nghề nghiệp …
để xây dựng chương trình, kế hoạch
GDPL; phối hợp biên soạn chương trình,
giáo trình, tài liệu, sách giáo khoa về
GDPL; xây dựng danh mục các thiết bị
phục vụ công tác GDPL; phối hợp xây
dựng tủ sách PL; xây dựng các đơn vị
nghiên cứu, tư vấn về công tác thanh tra,
pháp chế …

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Thị Tuyết Oanh. 2009. Giáo trình Giáo dục học tập 1 (dành cho sinh viên đại
học sư phạm), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[2] Thủ tướng Chính phủ. 2008. Quyết định số: 37/2008/QĐ-TTgngày 12/03/2008 ban
hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012.
[3] Trường Đại học Luật Hà Nội. 2010. Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp
luật, Hà Nội.



×