Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Một số biện pháp nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu của tân sinh viên trường Đại học Xây dựng miền Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.57 KB, 5 trang )

Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014

6

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ VÀ KỸ NĂNG
TỰ HỌC, TỰ NGHIÊN CỨU CỦA TÂN SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC XÂY DỰNG MIỀN TRUNG
TS. Nguyễn Văn Cường
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Một trong những yếu tố nâng cao chất lượng giáo dục là vấn đề tự
học - tự nghiên cứu của sinh viên. Trong thực tế hiện nay, tính tự giác cũng như
khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên chưa được đánh giá cao tại hầu
hết các cơ sở giáo dục. Thông qua bài viết này, chúng tôi mong muốn trao đổi
các giải pháp tổ chức một khóa học bắc cầu cho sinh viên mới trúng tuyển đại
học; xây dựng đề cương bài giảng theo hướng dạy sinh viên tự học và kế hoạch
hóa việc học. Bên cạnh đó cần hình thành một phương hướng dạy học với
những chương trình huấn luyện giúp sinh viên chủ động và sự tự giác nắm bắt
các công cụ lĩnh hội tri thức của mình.
Từ khóa: Chất lượng, tự học, định hướng

1. Tổ chức một khóa học bắc cầu cho
tân sinh viên mới trúng tuyển đại học
Xây dựng khóa học “bắc cầu” là
một trong những kinh nghiệm của các
trường đại học của những quốc gia phát
triển. Hàng năm, có nhiều sinh viên
nước ngoài thuộc khối các quốc gia kém
phát triển theo học tại các trường bằng
học bổng do chính phủ họ tài trợ. Để
giúp các sinh viên nước ngoài này có thể
tiếp cận và thích ứng với môi trường học


đại học của một nước có nền giáo dục
tiên tiến hơn, các trường đại học này tổ
chức một khóa học kéo dài từ ba đến sáu
tháng nhằm hình thành cho các sinh viên
nước ngoài này những kỹ năng, những
thái độ, và phẩm chất thiết yếu cho
những hội nhập vào quá trình học tập có
tính chất tự học - tự nghiên cứu ở bậc
đại học. Có lẽ nhiều điều cơ bản về nội
dung, hình thức triển khai của khóa học
cần phải xem xét khi vận dụng để phù
hợp với điều kiện học tập ở nhà trường.
Thế nhưng, điều then chốt của khóa học

mà chúng ta có thể xem xét là tạo một
cầu nối giúp cho người học thích nghi và
đáp ứng hiệu quả với phương pháp dạy
học ở trường đại học.
Thực trạng quá trình học tập của
sinh viên chúng ta trong thời gian qua
cho thấy, nhìn chung hoạt động học tập
ở bậc đại học hiện nay vẫn còn nhiều
sinh viên chưa thực sự đi vào quỹ đạo
của quá trình học tự học - tự nghiên cứu.
Xu thế và nhu cầu phát triển về kinh tế xã hội và hội nhập của khu vực đòi hỏi
sinh viên sau khi ra trường phải đáp ứng
yêu cầu của xã hội; đó là tính năng động,
có kiến thức nền tảng và chuyên môn
phù hợp, có kỹ năng mềm để dễ dàng
thích nghi với môi trường luôn thay đổi.

Vì vậy cần có sự đánh giá, tổng kết thực
tiễn theo từng giai đoạn và đưa ra các kế
hoạch phù hợp trong đào tạo.
Từ nhận thức này chúng tôi tin
rằng việc thiết kế và phát huy một số
chuyên đề học bắc cầu từ đầu khóa học
là một phương thức có ý nghĩa chiến


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014

lược góp phần giải quyết sự bất cập giữa
thực tiễn về thói quen thụ động và sức ỳ
trong học tập của một số sinh viên,
nhằm đổi mới quá trình đào tạo ở bậc
đại học: phải cho người học làm chủ quá
trình lĩnh hội tri thức rồi sau đó mới có
được tri thức, tức là học cách chiếm lĩnh
tri thức.
Căn cứ vào những nét chủ yếu của
thực trạng học tập của sinh viên hiện
nay, theo chúng tôi những khóa học “bắc
cầu” trong thời gian đến có thể bao gồm
những nội dung cơ bản như sau:
1.1. Rèn kỹ năng đọc hiểu và làm việc
với văn bản
- Truy cập thư viện điện tử, thông
tin từ internet theo từng chủ đề;
- Rèn luyện kỹ năng đọc hiểu: đọc
lướt nắm ý chung; đọc nắm ý chi tiết; đọc

tìm thông tin theo chủ đề; đọc ghi lại
thông tin đọc được dưới các hình thức
khác nhau như tóm tắt; ghi nhận xét; báo
cáo, lược sử vấn đề, giới thiệu sách,…
1.2. Rèn kỹ năng lập luận, trình bày
giải quyết vấn đề
Kỹ năng lập luận, trình bày giải
quyết vấn đề có thể thực hiện theo hình
thức học tập cá nhân dưới dạng viết hay
dạng độc thoại.
Bên cạnh đó, khả năng giải quyết
vấn đề có thể được thực hiện dưới hình
thức thảo luận hay tranh luận theo nhóm.
Trước khi tổ chức các hoạt động thảo
luận, tranh luận, cần cung cấp cho sinh
viên những hiểu biết về thể thức, kỹ
thuật cũng như thái độ cần thiết trong
hoạt động học nhóm.
Quá trình tổ chức rèn kỹ năng lập
luận, trình bày giải quyết vân đề cho
sinh viên theo cách trên là phương thức
đa chức năng: giúp phát triển năng lực

7

lập luận kết hợp với năng lực tư duy,
giải quyết vấn đề, giúp phát triển nhân
cách từng cá nhân người học, giúp
phát triển kỹ năng giao tiếp thành ý
thức và cách làm việc với cộng đồng

theo tinh thần hợp tác trên cơ sở trách
nhiệm cá nhân.
Việc tổ chức thực hiện khóa học
theo chuyên đề cần được thực hiện
thống nhất ở cấp trường, cho toàn thể
các khoa. Hàng năm, các khoa nên có kế
hoạch chi tiết về các chuyên đề này cho
từng ngành đào tạo.
1.3. Học ngoại ngữ theo hướng rèn
luyện kỹ năng đọc hiểu tài liệu chuyên
môn và phát triển khả năng giao tiếp
trong công việc liên quan đến hoạt
động chuyên môn
Đối với sinh viên thuộc các ngành
không chuyên ngoại ngữ, ngoại ngữ
trước hết và trên hết nên được xem là
công cụ để sinh viên dùng đọc tham
khảo tài liệu chuyên môn nhằm mở
rộng tầm hiểu biết và nâng cao chất
lượng học tập. Do vậy việc học ngoại
ngữ bằng cách học đọc các tài liệu
chuyên ngành từ đơn giản đến phức tạp
để tích lũy và phát triển vốn từ về
chuyên môn cũng như hiểu biết chuyên
môn là thích hợp. Mặt khác, chương
trình học giúp sinh viên cải thiện khả
năng Tiếng Anh nói chung theo xu
hướng giúp sinh viên gia tăng khả năng
giao tiếp trong công việc liên quan đến
những vấn đề chuyên môn.

1.4. Học sử dụng máy vi tính để cho
máy tính trở thành công cụ không thể
tách rời công việc của người học hiện
tại cũng như tương lai
Soạn thảo văn bản để trình bày bài
tập/ khóa luận và tìm kiếm và lưu trữ


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014

thông tin liên quan đến chuyên môn sẵn
sàng cho truy cập để vận dụng.
Việc sử dụng vi tính để lưu trữ
thông tin liên quan đến chuyên môn một
cách hệ thống là cách giúp sinh viên mở
rộng bộ nhớ của mình. Thông tin/ kiến
thức được lưu trữ trong máy vi tính vừa
giúp giảm tải lưu trữ của trí nhớ người,
vừa dễ dàng truy cập lại khi sử dụng.
Hiện nay, trong trường đại học vi tính
được học như một trong những học phần
thuộc kiến thức cơ bản. Vấn đề quan
trọng là sau khi học, sinh viên phải được
duy trì sử dụng và phát triển những kỹ
năng vi tính ấy.
2. Xây dựng đề cương bài giảng theo
hướng dạy sinh viên tự học và kế
hoạch hóa việc học tại Trường Đại học
Xây dựng Miền Trung
Trường Đại học Xây dựng Miền

Trung trong những năm qua đã rất
quan tâm đến việc đổi mới trong thiết
kế bài giảng và biên soạn giáo trình
giảng dạy là một đòi hỏi tất yếu nhằm
nâng cao vấn đề tự học, năng lực
nghiên cứu của sinh viên. Giáo trình/
bài giảng nhất thiết phải là phương tiện
tạo cơ hội cho người học tự nghiên
cứu, tự học để giải quyết những tình
huống có vấn đề. Do vậy, không chỉ tri
thức lý thuyết được đề cập, mà tri thức
phương pháp phải là một nội dung
quan trọng trong giáo trình/ bài giảng.
Trí thức phương pháp được thể hiện
thành các quy trình hướng dẫn phương
thức hoạt động nhận thức, phương thức
giải quyết vấn đề, phân phối tương ứng
với các đơn vị tri thức lý thuyết. Thông
qua việc thực hành tri thức quy trình
ấy, người học từng bước hình thành và

8

phát triển năng lực tự học và tự nghiên
cứu. Để tiến trình tự học của người học
được dễ dàng, tri thức lý thuyết cần
được chọn lọc chuẩn phù hợp với quá
trình đào tạo. Các đơn vị kiến thức
được trình bày phải là những kiến thức,
kỹ năng cơ bản nhất, cập nhật và có

tính tích hợp.
Mỗi học phần trong chương trình
đào tạo có đề cương chi tiết được cung
cấp tới từng sinh viên trên trang web của
trường, trong đó có đầy đủ các nội dung:
(1) Mục tiêu của học phần, trong
đó có phần xác định rõ mục tiêu đề ra
cho người học, do người học thực hiện;
(2) Kế hoạch học tập học phần:
Môn học gồm bao nhiêu phần, yêu cầu
cần đạt được của mỗi phần, thời gian
học, tài liệu phục vụ cho học tập từng
phần học, hình thức học, bài giảng lý
thuyết, thực hành thí nghiệm, đề cương
thảo luận;
(3) Kế hoạch làm bài tập và thi
kiểm tra: Số lượng bài tập, tên đề bài của
bài tập, thể thức làm bài tập, tài liệu tham
khảo, thời hạn nộp bài; cách tính điểm
bài tập, thi giữa học phần, điểm thi cuối
học phần và điểm trung bình học phần.
Đổi mới cách biên soạn giáo trình/
bài giảng và tường minh đề cương giảng
dạy cho người học cần được xem là
bước đột phá để tạo ra sự chuyển biến
sâu sắc về đổi mới phương pháp giảng
dạy và học tập (Trần Văn Lưu, 2000).
Bởi vì qua thiết kế bài giảng, từng giáo
viên sẽ thể hiện nhận thức đổi mới
phương pháp của mình bằng những

phương án cụ thể cho từng bài dạy, cho
từng khâu trong triến trình bài học.


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014

Để điều khiển bài dạy theo thiết
kế, giảng viên nhà trường luôn tổ chức,
dẫn dắt, khơi gợi và phát triển nhận thức
cho người học thông qua việc tạo lập các
bài tập/ tiểu luận với những tình huống
có vấn đề, hoặc nắm bắt các vấn đề cho
sinh viên nêu lên trong các buổi học để
thảo luận tìm phương án giải quyết.
Nhận thức, tư tưởng dạy học được hiện
thực hóa dưới dạng có hoạt động thực
hành nghiệp vụ thường xuyên. Nhờ vậy,
trình độ về phương pháp, bản lĩnh về sư
phạm phù hợp với hướng đổi mới ngày
càng vững vàng trong từng giảng viên.
Chất lượng dạy và học nhờ đó biến đổi
cụ thể và sâu sắc. Đặc biệt, sinh viên
được tạo điều kiện học tập có kế hoạch
và hình thành thói quen kế hoạch hóa
việc học của mình.
3. Hình thành phương hướng và
chương trình huấn luyện để sinh viên
chủ động và sự tự giác nắm bắt các
công cụ lĩnh hội tri thức
Nhiều nghiên cứu về tâm lý học đã

nhận thức về sự ứng dụng trong hoạt
động học tập nhằm kiến tạo tri thức, thì
hầu hết những người học thành công là
những người có khả năng điều chỉnh khi
thực hiện một nhiệm vụ hay giải quyết
một vấn đề. Năng lực điều chỉnh tạo cho
người học kỹ năng kiểm soát và sự theo
dõi quá trình thực hiện hoạt động nhận
thức của minh (Brown, 1987). Năng lực
này bao gồm những biện pháp/ chiến
lược như là dự đoán kết quả, hoạch định
trước và ghi nhận thất bại để hiểu
nguyên nhân. Các cá nhân có những kỹ
năng theo dõi tốt có thể đánh giá công
dụng của các chiến lược khi sử dụng
chúng, và thay đổi chiến lược trong tiến

9

trình giải quyết vấn đề hoặc cố gắng
hiểu một tình huống.
Trong thực tiễn, chiến lược xây
dựng kế hoạch và tổ chức là những
phương diện quan trọng của hoạt động
học tập. Những chiến lược như thế
được xem là công cụ của quá trình lĩnh
hội kỹ năng và nội dung của một lĩnh
vực kiến thức. Các kỹ năng này đều là
những kỹ năng học tập được triển khai
sao cho phù hợp với lĩnh vực chuyên

biệt được dạy, được học và được thực
hành trong lúc sử dụng để giải quyết
vấn đề thuộc lĩnh vực đó.
Các nhà nghiên cứu lý thuyết học
tập cho rằng mặc dù những học sinh giỏi
sử dụng các kỹ năng này một cách tự
phát, nhưng hầu hết các cá nhân khác
cần được học và rèn luyện chúng. Một
vấn đề quan trọng lớn đặt ra đó là các kỹ
năng này được lĩnh hội như thế nào và
chúng có tính chất chung hay chuyên
biệt đối với quá trình thực hiện ở những
lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Trong tiến trình giảng dạy những
kỹ năng nhận thức cho sinh viên, giảng
viên đóng vai trò của một trọng tài. Sau
khi tạo lập mẫu mô hình các chiến lược
hoạt động cụ thể, giảng viên dần dần
chuyển sang vai trò hỗ trợ, hướng dẫn
người học, và đảm nhiệm vai trò trọng
tài, chỉ can thiệp để cho sự giúp đỡ khi
cần thiết. Đồng thời, tiến trình giảng dạy
này cần thực hiện ba nguyên tắc sau:
(1) Sinh viên phải nhận diện được
các chiến lược để có thể sử dụng chúng
nhằm theo dõi tiến trình hoạt động của
mình (đọc hiểu, hay lập luận, giải quyết
vấn đề). Những chiến lược này có thể
biến đổi theo bản chất của lĩnh vực môn
học và nhiệm vụ thực hiện;



Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014

(2) Các nhóm sinh viên chia sẻ trách
nhiệm trong tiến trình thực hoạt động;
(3) Các cá nhân chia sẻ một nhiệm
vụ phức tạp. Nhờ vậy, nhiệm vụ có thể
được thực hiện dễ dàng hơn mà không
cần đơn giản hóa chính nhiệm vụ ấy.
Kết quả là nhóm sinh viên sẽ đạt
được sự hiểu biết khi các thành viên trong
nhóm cùng hợp tác để đạt các kỹ năng.
Mỗi người đọc đều đóng góp và học hỏi từ
những đóng góp của người học khả năng
chuyên môn giỏi hơn. Vùng phát triển gần
của Vygotsky được tạo ra ở chỗ người học
thể hiện phạm vi khả năng của mình, đồng
thời được hỗ trợ để thực hiện hóa những
trình độ tiềm ẩn của một năng lực cao hơn
(Glaser & Bassok, 1989).
Điều kiện thực hiện, duy trì và
phát triển phương hướng dạy học trên
- Những giảng viên vừa chuyên sâu
một chuyên ngành, vừa am hiểu về tâm
lý học nhận thức hình thành chương
trình huấn luyện cho sinh viên.
- Nội dung huấn luyện này được
thực hiện tích hợp trong hoạt động rèn
luyện kỹ năng đọc hiểu và làm việc với

văn bản và kỹ năng lập luận, trình bày
giải quyết vấn đề trong khóa học bắc cầu.
- Mỗi giảng viên giảng dạy đại học
cần được trang bị hiểu biết về những
kiến thức về Tâm lý học nhận thức, về
khoa học nhận thức liên quan đến quá
trình kiến tạo tri thức để tiếp tục hướng
dẫn người học thực hành phát triển
những kỹ năng nhận thức đã có khi học
các lĩnh vực môn học chuyên biệt.

10

Nhận thức về tầm quan trọng của
phương hướng dạy học giúp sinh viên
chủ động và tự giác nắm bắt các công
cụ lĩnh hội tri thức của đội ngũ đào tạo
sẽ là một điều kiện quan trọng trong
việc cải thiện thực trạng học tập của
sinh viên. Thật vậy, phương hướng
giảng dạy tập trung người học vào sự
chiêm nghiệm chính quá trình hoạt
động nhận thức, quá trình lĩnh hội diễn
ra bên trong mình cũng là một cách
thức hình thành cho người sinh viên
năng lực cơ bản trong tự học, tự nghiên
cứu nhận thức vấn đề, rèn luyện các kỹ
năng để làm việc hiệu quả.
4. Kết luận.
Nâng cao chất lượng đào tạo đại

học hiện nay luôn là vấn đề cần được
quan tâm trong xu thế hội nhập. Bên
cạnh việc nâng cao chất lượng dạy học,
thì việc nâng cao chất lượng tự học của
sinh viên là yếu tố quyết định “sản
phẩm” của quá trình đào tạo. Trong xu
thế đổi mới, cách tiếp cận từ học cái gì
sang học như thế nào và hướng tới học
để làm gì? Với giáo dục chuyên nghiệp
thì học để làm gì càng chiếm ưu thế.
Bài viết được trình bày với mong
mỏi xây dựng và đào tạo sinh viên có
năng lực, có khả năng thích ứng với
công việc một cách hiệu quả nhất. Vì
vậy, cải thiện thực trạng học tập của sinh
viên, giúp họ thích ứng hội nhập nhanh
là vấn đề cần thiết và cần được quan tâm
đúng mức.



×