A. MỞ ĐẦU
Phản biện xã hội, xét đến cùng, là một trong những hình thức của quyền tự
do ngôn luận, một trong những quyền cơ bản được nhà nước và Hiến pháp thừa
nhận.
Phản biện xã hội thực chất đó là tiếng nói chủ quyền của nhân dân đối với
nhà nước, tức là sự đối thoại, biện luận, thẩm định, của các lực lượng xã hội đối
với các chủ trương, đường lối và chính sách pháp luật… liên quan và ảnh hưởng
đến quyền lợi, đời sống của các thành viên trong xã hội. Từ đó phản biện xã hội
sẽ giúp cho những nhà hoạch định chính sách có được những điều chỉnh, chuyển
đổi trong đường lối của mình phù hợp với ý chí của đại đa số nhân dân.
Phản biện xã hội, ở đó không có chỗ cho những lời khen, những ngôn từ
ca tụng và hoa mỹ mà chỉ có những lời chê bai, phản bác. Nhưng ai chế? Chế cái
gì? Chê như thế nào?Chê nhằm mục đích gì…. những điều đó đã làm nổi bật lên
vai trò của phản biện xã hội. Không nên quan niệm phản biện xã hội mang ý
nghĩa tiêu cực bởi vì nó chỉ có chê bai mà nó phải mang ý nghĩa tích cực. Cuộc
sống luôn tồn tại hai mặt đối lập, mâu thuẫn nhau nhưng chính chúng lại bổ sung
cho nhau. Phản biện không phải là hạ thấp giá trị của sự vật, hiện tượng mà chỉ ra
những điểm chưa tốt, những điểm chưa hoàn thiện để cùng nhau phát triển. Đó
mới là mục tiêu cốt lõi của phản biện xã hội.
Như vậy, có thể nói rằng, đối tượng mà phản biện xã hội hướng đến là các
chính sách, quyết đinh, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Những quyết sách này
được nhân dân thực hiện, qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội và tình
hình đất nước. Phản biện xã hội đưa ra một cái nhìn khác của cộng đồng, một cái
nhìn đa chiều và khách quan hơn. Bởi chính họ là những người thực hiện và chịu
ảnh hưởng trực tiếp từ những chính sách ấy. Và khi chính sách có những sai sót và
hạn chế mà nhà làm luật chưa kịp nhận ra, nhân dân buộc phải lên tiếng để bảo vệ
quyền lợi của chính họ. Đồng thời việc làm đó giúp nhà làm luật chưa kịp nhận ra,
1
nhân dân buộc phải lên tiếng để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Đồng thời việc
làm đó giúp nhà làm luật nhận ra những hạn chế của các quyết sách và đưa ra biện
pháp nhằm hoàn thiện chúng. Qua đó góp phần nâng cao chất lượng và thúc đẩy
sự phát triển của đất nước. Bên cạnh việc giúp nhà làm luật hoàn thiện các văn
bản pháp luật thì chính nhân dân đang thực hiện quyền làm chủ của mình đối với
đất nước thông qua phản biện xã hội. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Thông qua phản biện xã hội, nhân dân được nâng cao
trách nhiệm của công dân, chất lượng phản biện xã hội đi cùng với sự phát triển
trình độ dân trí. Đồng thời hình thành nên những công dân năng động trong xã hội
hiện đại. Qua hoat động phản biện xã hội, người dân càng thể hiện rõ vai trò làm
chủ đất nước của mình qua hình thức “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Khi đất nước ngày môt phát triển, càng đòi hỏi sự chung sức chung lòng từ nhân
dân để đưa con tàu Việt Nam ra hội nhập với thế giới. Nhưng trên hành trình ấy
có rất nhiều cam go, thử thách đòi hỏi những người chèo lái con tàu phải có
những quyết sách đúng đắn để đoàn kết khối sức manh toàn dân, nhưng làm thế
nào để đoàn kết khối sức mạnh to lớn ấy thì quả là một việc không đơn giản “Dễ
trăm lần, không dân cũng chịu; khó vạn lần, dân liệu cũng xong”.
Khái niệm phản biện xã hội: Phản biện xã hội là phản ánh một hiện tượng
tất yếu trong đời sống chính trị - xã hội. Khái niệm này được sử dụng ở nhiều
nước từ lâu; nhưng ở nước ta, những năm gần đây mới được quan tâm, thu hút sự
chú ý của giới nghiên cứu, nhất là sau khi “phản biện xã hội” được chính thức ghi
trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X. Để hiểu phản biện xã hội, trước hết phải
hiểu phản biện là gì? Phản biện là một từ Hán Việt. Hiểu theo cách triết tự thì
“phản biện” có nghĩa là “bàn luận theo hướng ngược lại”, hoặc là sự tranh luận,
tranh cãi. Do đó, có thể hiểu phản biện
Phát triển bền vững là xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ lực hướng
tới. Đó cũng là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Đảng, Chính phủ và nhân dân
Việt Nam quyết tâm thực hiện. Phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan
điểm của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước và được thể hiện rõ nét
2
trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia
cũng như của các ngành và địa phương của Việt Nam.
Sau 20 năm thực hiện, đặc biệt là sau gần 10 năm triển khai Định hướng
chiến lược phát triển bền vững, Việt Nam đã tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức và đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các
lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát
triển, kinh tế tăng trưởng khá nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
được cải thiện. Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm và có mặt được cải
thiện. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo ra những tiền
đề quan trọng để phát triển nhanh, bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Việt
Nam vẫn đang phải đối mặt với những thách thức mang tính toàn cầu như an ninh
năng lượng, an ninh mạng thông tin, an ninh về nguồn nước và biến đổi khí hậu
v.v...đang là sự cản trở đối với tiến trình phát triển bền vững của Việt Nam. Việt
Nam sẽ phải tiếp tục nỗ lực để duy trì tính bền vững của những thành quả phát
triển đã đạt được. Đánh giá thành tựu và hạn chế của 20 năm thực hiện phát triển
bền vững là một việc làm cần thiết không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với
nhiều quốc gia trên thế giới nhằm tổng kết những kết quả và các bài học kinh
nghiệm, xác định rõ những cơ hội, những thách thức và đưa ra những định hướng,
giải pháp để tiếp tục thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững. Với
nhận thức mới, quyết tâm mới và cách làm mới, Việt Nam tin tưởng rằng phát
triển bền vững sẽ là con đường tất yếu và sẽ được hiện thực hóa sinh động, hiệu
quả trong quá trình phát triển và hội nhập của đất nước.
Với đề tài tiểu luận “Giải pháp cho sự phát triển bền vững ở Việt Nam”
hy vọng rằng Việt Nam tiếp tục nhận được sự hợp tác, hỗ trợ về nhiều mặt của
cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức quốc tế và các nước phát triển để vượt qua
những thách thức, hướng tới một nền kinh tế xanh, hoàn thiện hệ thống thể chế,
tiếp tục phát triển bền vững đất nước.
3
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
SỰ PHÁT TRIỂN NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Bên cạnh việc chú trọng tới tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường, Đảng ta còn nhấn mạnh thêm vấn đề phát triển
4
văn hóa và củng cố an ninh, quốc phòng. Đây là một trong những đặc điểm cơ
bản trong quan điểm của Đảng về phát triển bền vững, phù hợp với nền văn hiến
và truyền thống của dân tộc Việt Nam là dựng nước phải đi đôi với giữ nước.
Đại hội VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước,
trong đó có đổi mới tư duy về phát triển đất nước theo hướng bền vững: “Cần thể
hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã
hội,…”, “bảo vệ môi trường sống”; đi đôi với phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ
môi trường phải luôn luôn quan tâm tới phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội. Trong lúc nhiều quốc gia trên thế giới đang đi theo con đường phát triển
bền vững thường chỉ chú trọng tới tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường thì Đảng ta còn nhấn mạnh thêm vấn đề phát triển
văn hóa và củng cố an ninh, quốc phòng. Đây là một trong những đặc điểm cơ
bản trong quan điểm của Đảng về phát triển bền vững, phù hợp với nền văn hiến
và truyền thống của dân tộc Việt Nam là dựng nước phải đi đôi với giữ nước.
Trong Văn kiện Đại hội, khái niệm phát triển bền vững với ba thành tố là
kinh tế - xã hội - môi trường chưa được sử dụng chính thức và vấn đề kết hợp chặt
chẽ, hài hòa, hợp lý giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường cũng chưa được đặt ra một cách trực tiếp, nhưng Đại hội VI đã đánh dấu
bước ngoặt quan trọng trong nhận thức của Đảng về phát triển đất nước, vì đây là
lần đầu tiên Đảng yêu cầu phải có sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính
sách xã hội, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng
và các tài nguyên thiên nhiên khác. Quan điểm đó của Đảng hoàn toàn phù hợp
với quan niệm của thế giới về phát triển bền vững.
So với nội dung quan điểm của Đại hội VI thì nội dung quan điểm của Đại
hội VII (1991) về phát triển bền vững được trình bày rõ ràng, cụ thể và đầy đủ
hơn, nhất là về vấn đề bảo vệ môi trường. Nhiều cụm từ đã được sử dụng để thể
hiện nội dung thực chất của phát triển bền vững như “bảo đảm sự hài hoà giữa
phát triển kinh tế và phát triển xã hội”, “kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với
5
phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội”, “tăng
trưởng kinh tế”, “tiến bộ xã hội”. Tuy nhiên, khái niệm “phát triển bền vững” vẫn
chưa được sử dụng chính thức trong Văn kiện Đại hội và “bảo vệ môi trường”
chưa được gắn chặt vào cụm từ “kết hợp phát triển kinh tế với phát triển xã hội”.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Đại hội VII, Đại hội VIII (1996) đã
đề cập vấn đề phát triển bền vững một cách toàn diện hơn, đầy đủ hơn và các
giải pháp đưa ra cũng cụ thể và rõ ràng hơn, thể hiện tư duy độc lập và sáng tạo
của Đảng về con đường phát triển đất nước trong điều kiện đổi mới và hội nhập
quốc tế. Những điểm mới trong quan điểm của Đại hội VIII về phát triển bền
vững thể hiện ở chỗ: lần đầu tiên Đảng đề cập đến việc “ứng dụng công nghệ
sạch”; thay từ “vững chắc” bằng từ “bền vững” khi đề cập vấn đề phát triển kinh
tế và sử dụng khái niệm “phát triển bền vững” đối với cả đất nước chứ không chỉ
đối với lĩnh vực kinh tế; yêu cầu kết hợp một cách “hài hoà” giữa phát triển kinh
tế với việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc; đưa các nhà máy, cơ sở sản
xuất không có khả năng xử lý ô nhiễm môi trường ra khỏi các thành phố và ưu
tiên sử dụng “công nghệ sạch”; gắn bảo vệ môi trường với tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển văn hóa: “Tăng trưởng kinh tế
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Như vậy, tới Đại hội VIII thì quan điểm của
Đảng về phát triển bền vững đã được bổ sung bằng nhiều nội dung mới, vừa thể
hiện được đặc điểm phát triển của Việt Nam hiện nay, vừa phù hợp với xu hướng
phát triển chung của thế giới đương đại, nhờ đó mà nội dung khái niệm “phát triển
bền vững” cũng được hoàn thiện thêm một bước đáng kể mà trọng tâm là kết hợp
chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa và củng cố an ninh - quốc phòng.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX (2001), Đảng tiếp tục nhấn mạnh
việc gắn kết giữa năm thành tố của phát triển bền vững ở Việt Nam mà Đại hội
VIII đưa ra là kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và an ninh - quốc phòng:
“Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
6
và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng và an ninh” (lần đầu tiên sử dụng cụm từ “cải thiện môi trường”); coi bảo
vệ, cải thiện môi trường là một nội dung quan trọng của các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án (một điểm mới trong tư tưởng của Đại hội
IX về bảo vệ môi trường); xác định rõ hơn mục tiêu cụ thể của việc giải quyết tốt
các vấn đề xã hội là phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong
phân phối, tạo động lực phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực
hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội. Như vậy, Đại hội IX đã kế thừa quan
điểm của Đại hội VIII về phát triển bền vững với 5 thành tố cơ bản, đồng thời bổ
sung một số điểm mới trong nội dung bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường.
Quan điểm của Đại hội IX về phát triển bền vững là cơ sở lý luận khoa
học để Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ngày 178-2004 về việc ban hành Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt
Nam (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là văn bản pháp lý đầu tiên
của Nhà nước ta về những định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam, trong đó
chỉ rõ phát triển bền vững là con đường tất yếu của Việt Nam; nêu ra những lĩnh
vực kinh tế, xã hội, môi trường cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững và đề ra các
biện pháp tổ chức thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam.
Điểm mới nổi bật trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X (năm 2006) là gắn
tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội với phát triển con người: “Phấn đấu tăng
trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát
triển con người. Trong 5 năm 2006 – 2010, mức tăng trưởng GDP bình quân đạt
7,5 – 8%/năm, phấn đấu đạt trên 8%/năm”; “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,…giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục
tiêu phát triển con người”. Việc gắn phát triển kinh tế - xã hội với phát triển con
người có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, vì con người vừa là mục tiêu, động
lực vừa là bảo đảm quan trọng nhất của phát triển bền vững. Đảng tiếp tục nhấn
mạnh việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi
7
trường tự nhiên và đưa ra hai quan điểm mới là sử dụng công nghệ sạch, năng
lượng sạch và thu gom, tái chế và xử lý chất thải. Đây là các vấn đề cấp thiết cần
giải quyết khi nước ta đang tiến hành CNH, HĐH và cũng là những vấn đề của
toàn cầu.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng (2011) tiếp tục khẳng định:
“phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi
trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh
thần cho xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) được Đại hội thông qua cũng chứa đựng nhiều nội dung quan
trọng của phát triển bền vững, như gắn phát triển kinh tế tri thức với bảo vệ môi
trường; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng
cường sức mạnh quốc phòng - an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn. Quan điểm của
Đảng về phát triển bền vững còn được phát triển, hoàn thiện và cụ thể hóa
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được thông qua tại Đại
hội XI của Đảng, trong đó nổi bật nhất là quan điểm về mối quan hệ tác động qua
lại giữa “phát triển nhanh” với “phát triển bền vững”; “Phát triển bền vững là cơ
sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững.
Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Phải đặc biệt coi trọng giữ vững
ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát
triển nhanh và bền vững”. Như vậy, Đại hội XI của Đảng đã kế thừa và phát triển
quan điểm của các Đại hội Đảng trước đây về phát triển bền vững ở Việt Nam với
những nội dung phong phú, đa dạng, cụ thể, toàn diện và khoa học, vừa thể hiện
được quan niệm chung của thế giới về phát triển bền vững, vừa phù hợp với khả
8
năng, điều kiện và đặc điểm của Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập
quốc tế.
Nhằm triển khai thực hiện các quan điểm chỉ đạo của Đại hội XI về phát
triển bền vững, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 432/2012/QĐTTg ngày 12-4-2012 phê duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai
đoạn 2011 - 2020 và Quyết định số 160/2013/QĐ-TTg ngày 15-1-2013 ban hành
Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển bền vững giai đoạn 2013 - 2015. Điều
đó cho thấy có sự thống nhất cao trong nhận thức tư tưởng của Đảng và Nhà nước
về vấn đề này.
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu những quan điểm của Đảng từ Đại hội VI
đến Đại hội XI về phát triển bền vững ở Việt Nam, có thể đưa ra một số nhận định
sau đây:
Một là, vấn đề phát triển kinh tế đồng thời với phát triển xã hội và bảo vệ
tài nguyên, môi trường đã được Đảng nêu ra từ thời kỳ trước đổi mới, đến Đại hội
VI thì chủ trương đó tiếp tục được nhấn mạnh, tạo tiền đề quan trọng để đổi mới
tư duy của toàn xã hội về phát triển đất nước theo hướng ổn định, bền vững. Tuy
nhiên, Đại hội VI còn chưa đề cập vấn đề kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa
phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Tới Đại hội VII, lần
đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa phát
triển kinh tế với phát triển xã hội. Đây là bước phát triển mới trong tư duy của
Đảng về phát triển bền vững ở Việt Nam, phù hợp với quan niệm chung của thế
giới. Tuy nhiên, Đại hội VII cũng mới yêu cầu kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý
giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, còn “bảo vệ môi trường” chưa được
gắn chặt với cụm từ “kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát
triển xã hội” và khái niệm “phát triển bền vững” cũng chưa được sử dụng chính
thức trong Văn kiện Đại hội.
Hai là, lần đầu tiên khái niệm “phát triển bền vững” được chính thức sử
dụng trong Văn kiện Đại hội VIII, đánh dấu bước phát triển trong tư duy của
Đảng về phát triển đất nước. Nếu trước đây, Đảng mới chủ trương kết hợp phát
triển kinh tế với phát triển xã hội mà chưa gắn với bảo vệ môi trường thì nay,
9
Đảng yêu cầu phải kết hợp chặt chẽ, hài hoà, hợp lý giữa phát triển kinh tế, xã hội
không chỉ với bảo vệ, cải thiện môi trường mà còn với phát triển văn hóa (theo
nghĩa rộng của từ này) và củng cố an ninh, quốc phòng. Như vậy, tới Đại hội VIII
thì quan niệm khoa học của thế giới về phát triển bền vững với ba trụ cột chính là
kinh tế - xã hội - môi trường và mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng với nhau đã chính
thức được Đảng ghi nhận. Bên cạnh việc thừa nhận và khẳng định những giá trị
chung của phát triển bền vững, Đảng ta cũng phân tích một cách khoa học và sâu
sắc thực tiễn Việt Nam và đưa ra quan điểm của mình về phát triển bền vững ở
Việt Nam - đó là sự phát triển, trong đó có kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa
tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường với
phát triển bền vững về văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ và củng cố an
ninh - quốc phòng.
Ba là, các Đại hội IX, X, XI diễn ra trong bối cảnh phát triển bền vững đang
trở thành xu thế phát triển tất yếu của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên thế giới
cùng với những biến đổi nhanh chóng theo chiều hướng tích cực ở trong nước về
kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an
ninh. Trên cơ sở phân tích sâu sắc và toàn diện những thành tựu, hạn chế của nước ta
trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nêu rõ triển vọng và thách thức
đối với Việt Nam, Đảng tiếp tục phát triển, hoàn thiện quan điểm của mình về phát
triển bền vững ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế.
Bốn là, quan điểm của Đảng ta về phát triển bền vững ở Việt Nam luôn
luôn là cơ sở tư tưởng khoa học để xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật
bảo đảm phát triển bền vững của Việt Nam, tạo tiền đề chính trị - pháp lý vững
chắc cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm kịp thời điều chỉnh
các mối quan hệ cơ bản trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa,
giáo dục, khoa học - công nghệ, an ninh, quốc phòng.
Kết luận Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa XI có nêu
mục tiêu tổng quát của 5 năm 2011 – 2015 là “phát triển kinh tế nhanh, bền vững,
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng
cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã
10
hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tăng cường hoạt động
đối ngoại và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế. Tạo nền tảng đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Diễn đàn Doanh nghiệp
Việt Nam giữa kỳ năm 2014 diễn ra ngày 5/6 có đề ra 5 giải pháp cho sự phát
triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2016 – 2020 như sau:
Thứ nhất, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nhất là
thực hiện cơ chế giá, phân bổ nguồn lực và chủ động hội nhập sâu rộng với nền
kinh tế thế giới. Chính phủ tiếp tục thực hiện các giải pháp điều tiết nền kinh tế,
tập trung cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng và cạnh
tranh hơn, tạo mọi thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Hiện Chính
phủ đang trình Quốc hội ban hành Luật Doanh nghiệp (DN) mới theo tinh thần
Hiến pháp 2013. Tới đây, Chính phủ sẽ ban hành các quy định bảo đảm quyền tự
do kinh doanh của DN như Hiến pháp quy định.
Thứ hai, Việt Nam đang nhấn mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, mục tiêu cạnh
tranh cao hơn, hiệu quả cao hơn, coi đây là một nội dung, một chính sách có ý
nghĩa nhất đối với phát triển nhanh và bền vững. Tái cơ cấu DN nhà nước đã tiến
một bước dài. Năm 2014-2015, sẽ cổ phần hóa 432 DN, trong đó có các tổng
công ty, tập đoàn lớn, nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh bình đẳng trong cơ chế
thị trường với các thành phần kinh tế khác. Trong tái cơ cấu nền kinh tế, Việt Nam
tạo điều kiện thuận lợi nhất để phát triển khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là DN
vừa và nhỏ, coi đây là động lực phát triển nền kinh tế. Việt Nam cũng tạo mọi
điều kiện hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, thu hút mạnh hơn nữa các
nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, Việt Nam đang thực hiện cơ chế khuyến khích mạnh mẽ các thành
phần kinh tế đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội, trong đó đặc biệt khuyến
khích hình thức PPP (đối tác công - tư). Bên cạnh đó, Chính phủ cũng dành cơ
chế và nguồn lực thỏa đáng để đẩy nhanh đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực cao đáp ứng yêu cầu của thị trường và DN.
11
Thứ tư, Việt Nam đang tiếp tục thực hiện thể chế nhà nước pháp quyền của
dân, do dân và vì dân. Việt Nam hướng đến quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả,
trong sạch, vững mạnh, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng. Trong xây
dựng nhà nước pháp quyền, bảo đảm và phát huy quyền dân chủ trực tiếp của
người dân thông qua các tổ chức tự nguyện và hợp pháp. Để nâng cao hiệu lực
nhà nước pháp quyền, đặc biệt coi trọng xây dựng thể chế, hoàn thiện thể chế
chính sách, cải cách thủ tục hành chính.
Thứ năm, Việt Nam quyết tâm xây dựng đất nước hòa bình, độc lập, tự chủ.
Việt Nam kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền
quốc gia theo luật pháp quốc tế. Đồng thời, cam kết sẽ không có tình trạng manh
động phá hoại tài sản DN như vừa qua. Việt Nam đã chia sẻ, hợp tác, hỗ trợ, giúp
đỡ các DN bị thiệt hại và hầu như tất cả DN đã trở lại hoạt động bình thường. Đối
với gần 20 DN chưa trở lại sản xuất, Chính phủ Việt Nam quyết định cùng chính
quyền các địa phương và DN bị thiệt hại bàn bạc cụ thể để đưa ra phương án có
lý, có tình, để DN sớm phục hồi sản xuất. Việt Nam đang làm việc này với trách
nhiệm cao nhất và nhận được sự chia sẻ, đồng thuận của DN để giải quyết tốt sự
cố không mong muốn này.
12
CHƯƠNG 2
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
Trên nhiều diễn đàn và văn kiện của cộng đồng quốc tế cũng như trong các
chính sách, chương trình hành động của các quốc gia, vấn đề phát triển bền vững
đang nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Ở
Việt Nam, phát triển bền vững là một trong những nội dung cơ bản để thực hiện
đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng
đầu mà nền kinh tế hướng tới.
Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia xuất
hiện biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì
tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn
tài nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng
bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự trả thù của thiên nhiên gây ra
những thiên tai vô cùng thảm khốc.
Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã
hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể là, có tăng trưởng kinh tế
nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, đô thị hóa, dẫn tới làm “méo mó” nông thôn; tăng trưởng kinh tế
nhưng thu nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng kinh tế nhưng văn
hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo, bất
ổn trong xã hội, trở thành một trong những vấn đề “nóng” ở nhiều quốc gia. Vậy
nên, quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo
đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với
toàn thế giới.
2.1. Phát triển bền vững
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời
sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả
quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ
môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã
13
hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển
của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự
toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự
phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả
năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền
vững được xác định là: Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền
vững là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là
công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu
chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ
dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba,
bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có
được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành
mục tiêu thiên niên kỷ.
Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều trong
giới nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan
niệm về phát triển bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh: Một là, phát
triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá trị môi trường
sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong những yếu tố cấu thành những
giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển. Hai là, phát triển bền vững là sự phát
triển dài hạn, cho hôm nay và cho mai sau; phát triển hôm nay không làm ảnh
hưởng tới mai sau.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được
định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ
tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng quát, nêu bật
những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù hợp với
điều kiện và tình hình ở Việt Nam.
14
Từ nội hàm khái niệm phát triển bền vững, rõ ràng là, để đạt được mục tiêu
phát triển bền vững cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là kinh
tế, xã hội và môi trường.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt
được những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có
thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp
càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện
nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện
phát triển bền vững về kinh tế.
- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu
người thấp thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.
- Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được
bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp
nhận tăng trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi quốc
gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ
tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về
xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng
trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không cao quá và có
xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,...
đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện
tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên, chất lượng
môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch
về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng các yếu tố trên
15
luôn được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu
chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.
2.2. Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam và những kết quả ban đầu
Bắt nhịp bước đi của thời đại, Đảng và Chính phủ đã sớm nhận thức tầm quan
trọng của phát triển bền vững. Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 36CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Trong các văn kiện Đại hội IX, X, và đặc biệt là văn kiện Đại
hội XI của Đảng, quan điểm phát triển bền vững càng được chú trọng hơn và nhấn
mạnh nhiều lần trên nhiều góc độ tiếp cận. Để chỉ đạo thực hiện thành công Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điểm phát triển,
trong đó, quan điểm đầu tiên là: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững,
phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”.
Thực hiện quan điểm của Đảng, căn cứ vào Chương trình hành động thế kỷ
XXI của quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam”
(còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược phát
triển bền vững ở Việt Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong ba lĩnh vực
kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà nước ta đang phải đối phó.
Chiến lược đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi
trường; đã xác định khung thời gian để thực hiện và gắn trách nhiệm của các
ngành, các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã hội; đã tính tới việc sử dụng
các nguồn lực tổng hợp để thực hiện chiến lược. Chính phủ cũng đã thành lập Hội
đồng phát triển bền vững quốc gia để chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các mục
tiêu đã đề ra.
Mặc dù việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững
chưa lâu nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện
thuận lợi cho các bước tiếp theo. Có thể nêu một số nét nổi bật.
Lĩnh vực kinh tế: Tính từ năm 2006 đến hết năm 2011, tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân 6 năm đạt gần 7%; năm 2012, GDP tăng 5,03%, GDP bình quân
đầu người đạt 1.540 USD. Kinh tế Việt Nam năm 2013 và 6 tháng đầu năm 2014
16
tiếp tục ổn định và có bước phát triển. Tăng trưởng GDP 5 tháng đầu năm dự kiến
đạt 5,8% và kế hoạch đưa ra cho năm 2015 là trên 6%. Lạm phát được kiểm soát
tốt, năm 2014 giữ ở khoảng 5%. Lãi suất giảm theo tín hiệu lạm phát, phù hợp với
kinh tế thị trường. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng được xử lý từng bước, đang
giảm dần. Tỷ giá hối đoái tiếp tục ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng, đảm bảo trên 12
tuần nhập khẩu từ đầu năm 2013 đến nay. Xuất khẩu năm 2011 - 2013 bình quân
tăng trên 20%, 5 tháng đầu năm tăng gần 16%, dự báo cả năm tăng 15-16%. Tái
cơ cấu nền kinh tế, trọng tâm tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu hệ thống tài chính
- ngân hàng, doanh nghiệp (DN) nhà nước đã có chuyển biến tích cực, dù chưa
như mong muốn nhưng đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực
cạnh tranh của kinh tế Việt Nam. Chính phủ đang xây dựng kế hoạch phát triển 5
năm 2016 - 2020 theo hướng phát triển bền vững.
Cơ cấu kinh tế cũng có những bước tiến triển tích cực, tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ trong cơ cấu GDP ngày càng tăng, khu vực nông nghiệp trong cơ cấu
GDP ngày càng giảm. An ninh, lương thực được bảo đảm. Những thành tựu đạt
được trong lĩnh vực kinh tế đã góp phần tích cực vào việc phát triển bền vững các
lĩnh vực khác.
Lĩnh vực xã hội đạt một số chuyển biến tích cực. Đó là sự nghiệp giáo dục
có bước phát triển, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt tới 20% tổng
chi ngân sách; đến năm 2011, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục
trung học cơ sở. Việc giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực: trong 6 năm (2006 2011), đã giải quyết được việc làm cho hơn 9 triệu lao động. Năm 2012 đã tạo
việc làm mới cho hơn 1,5 triệu người; năm 2013, phấn đấu tạo việc làm cho 1,6
triệu người; tuyển mới dạy nghề cho 1,9 triệu người; thực hiện chiến lược dạy
nghề gắn với tạo việc làm. Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 3,53%, ở
khu vực nông thôn là 1,55%. Công tác xóa đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, tỷ lệ
hộ nghèo giảm còn 9,6% và đến cuối năm 2013 ước còn 7,6%. Năm 2012, Việt
Nam xếp thứ 127 trên tổng số 187 nước và vùng lãnh thổ về HDI và được xếp vào
nhóm có tốc độ tăng chỉ số HDI cao. Việt Nam hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu
17
Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến
năm 2015.
Lĩnh vực môi trường trong những năm qua đã được chú trọng hơn. Việc
bảo vệ tài nguyên, môi trường đã đi vào nền nếp. Bằng những chính sách hợp lý,
các giải pháp quyết liệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ô nhiễm các nguồn
nước, không khí đã được tất cả các địa phương, các ngành và các tầng lớp nhân
dân đồng thuận và cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng được quan
tâm hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.
2.3. Những vấn đề đặt ra và ba khâu đột phá
Có thể thấy rõ rằng, trong những năm qua, chúng ta đã triển khai và thực
hiện khá thành công một số nhiệm vụ để hướng tới phát triển bền vững. Tuy
nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của
đất nước. Trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với các nước trên thế giới và
ngay cả một số nước trong khu vực. Xem xét ở ba khía cạnh để tăng trưởng bền
vững là: kinh tế, xã hội và môi trường để thấy rõ còn nhiều vấn đề đặt ra cần được
giải quyết.
Thứ nhất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung vẫn còn
yếu. Tích lũy nội bộ còn thấp; tăng trưởng kinh tế có bước chững lại, thấp hơn
mức tăng của những năm trước do di chứng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy
thoái kinh tế toàn cầu. Đầu tư của Nhà nước hiệu quả thấp, còn thất thoát và lãng
phí. Tỷ lệ nợ công so với GDP của các năm 2010, 2011, 2012 lần lượt là: 56,8%,
54,9% và 55,6%. Đây là mức nợ tương đối cao. Cho dù tổng khối lượng nợ vẫn
được coi là trong ngưỡng an toàn, nhưng tiềm ẩn đằng sau đó là nhiều rủi ro.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hiện tại chưa có chuyển biến đáng kể
trong việc đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế vĩ mô chưa
thật ổn định, còn những yếu tố thiếu vững chắc, các thành phần kinh tế chưa phát
huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ
chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm,
tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển. Hệ thống tài chính, ngân hàng đổi mới
18
chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; môi trường đầu tư, kinh doanh còn một số
vướng mắc, chưa tạo điều kiện hỗ trợ tốt cho kinh tế phát triển...
Thứ hai, chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu phát
triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, chưa chuyển
mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học còn lạc hậu, chậm đổi mới; cơ cấu đào tạo không hợp lý giữa các lĩnh vực,
ngành nghề.
Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn
hóa còn bất cập; môi trường văn hóa bị xâm hại, thiếu lành mạnh; các tệ nạn xã
hội và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức,
nhất là trong thanh, thiếu niên ở mức đáng lo ngại.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa
động viên được người lao động tận tâm với công việc. Đời sống của một bộ phận
dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, xóa đói, giảm nghèo
chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệnh giàu - nghèo
còn khá lớn và ngày càng doãng ra.
Chất lượng chăm sóc sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch
vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Vệ sinh an
toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn
thiếu và chậm, thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả còn thấp. Môi trường ở
nhiều nơi tiếp tục xuống cấp, một số nơi đã tới mức báo động. Chưa có những
giải pháp thực thi để đối phó với sự biến đổi khí hậu; hậu quả thiên tai còn nặng
nề; tình trạng chặt phá, cháy rừng còn tiếp tục diễn ra. Ô nhiễm nguồn nước, đất,
ô nhiễm không khí còn nghiêm trọng ở một số nơi. Chưa huy động được nhiều
nguồn lực để bảo vệ môi trường sinh thái và môi trường sống của nhân dân.
19
C. KẾT LUẬN
Để giải quyết một cách căn bản và toàn diện những vấn đề đang đặt ra ở
trên, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định ba khâu đột
phá mang tính chiến lược, tạo tiền đề cấu trúc lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng và phát triển theo hướng bền vững.
Thứ nhất, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại có
tầm quan trọng đặc biệt. Có thể chế đầy đủ, các loại thị trường sẽ phát triển mạnh
với sức sống mới, được quản lý và giám sát tốt, môi trường cạnh tranh lành mạnh
sẽ làm cho việc phân bổ nguồn lực của đất nước cân bằng, tạo điều kiện để tăng
trưởng và phát triển kinh tế có hiệu quả cao. Hệ thống thể chế muốn có chất lượng
cao và hoạt động thực tiễn theo thể chế có hiệu quả, cần cải cách mạnh mẽ nền
hành chính quốc gia trên tất cả các nội dung về thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục
hành chính và tài chính công gắn với một hệ thống phân cấp hợp lý, hiệu quả,
nâng cao chất lượng quản trị công. Mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường cần
được giải quyết tốt theo hướng chuyển mạnh từ chỗ Nhà nước điều hành nền kinh
tế sang Nhà nước kiến tạo và phát triển. Chức năng của Nhà nước là xây dựng,
quy hoạch phát triển theo một chiến lược đúng đắn, tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh và hội nhập quốc tế, tăng cường giám sát và phát hiện các mất cân đối
có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ thống; tập trung hoàn
thiện hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo đảm mọi người dân đều được
hưởng thụ thành quả tăng trưởng.
Thứ hai, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất
lượng cao; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ. Đây là đột phá cội nguồn, quan trọng nhất để làm tăng sức
mạnh của quốc gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh hưởng quyết định đến việc
phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường, phục vụ đắc lực cho chiến
lược phát triển bền vững. Điểm nhấn mới trong khâu đột phá này là đặt việc phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với
20
việc phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Chính điều này bảo đảm chuyển
tiềm tăng trí tuệ của nguồn nhân lực thành những thành quả ứng dụng và sáng tạo
khoa học, công nghệ - động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh, bền
vững.
Thứ ba, kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là
điều kiện để phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ
thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối
các vùng kinh tế, làm tăng quy mô sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế. Để thực hiện
tốt đột phá này, phải thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu
tiên đến phương thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai các dự án.
Với những phân tích trên, có thể thấy, phát triển bền vững đã trở thành
một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành, liên ngành, thành chương trình
hành động với nhiều tiêu chí ngày càng được cụ thể và rõ nét. Phát triển bền
vững, vì vậy, mang tính tất yếu và là mục tiêu cao đẹp nhất của quá trình phát
triển./.
21
Trang
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1
B. NỘI DUNG
3
Chương 1: Sự phát triển nhận thức của Đảng về phát triển bền vững
3
Chương 2: Phát triển bền vững ở Việt Nam
11
2.1 Phát triển bền vững
11
2.2 Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam và những kết quả
14
ban đầu
2.3 Những vấn đề đặt ra và 3 khâu đột phá
16
C. KẾT LUẬN
18
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
21
22
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1987.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
4. Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
7. Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam
23